Quản lý môi trường khu công nghiệp

Khi Việt Nam bước trên con đường hội nhập cũng chính là lúc phát triển lên một đỉnh cao mới. Một sự phát triển nhảy vọt của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với những phát minh của công nghệ cao, của kỹ thuật. Đời sống của người dân thay đổi, có cuộc sống ấm no hơn, đầy đủ hơn và dần dần nhu cầu của họ ngày càng cao. Và hàng ngàn, hàng ngàn các khu đô thị, khu công nghiệp hay khu chế xuất được mọc lên để đáp ứng những nhu cầu đó: nhà cửa, ăn ở, may mặc. Nhưng họ có biết đâu để đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của họ mà thiên nhiên, môi trường đã phải trả một cái giá quá đắt. Môi trường ô nhiễm, chết chóc, bệnh tật, hiện tượng hiệu ứng nhà kính gây nên sự nóng lên toàn cầu. đây là vấn đề chung cho cả nhân loại tìm cách khắc phục.

doc17 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5384 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lý môi trường khu công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU Công nghiệp là ngành kinh tế đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ nào. Nó là động lực cho sự phát triển của các ngành kinh tế, là cơ sở của các ngành dịch vụ, thương mại, là yếu tố trung tâm của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo cho các quốc gia, nâng cao vị thế, hình ảnh của các quốc gia. Tuy nhiên bên cạnh những vai trò to lớn đó, các khu cụm công nghiệp cũng gây ra hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt như tác động đến đời sống, sức khoẻ, sinh hoạt của dân cư làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Các khu công nghiệp, các công nghệ tiên tiến ra đời, chiến tranh vì những mỏ dầu, tài nguyên thiên nhiên, các khu công nghiệp( KCN ) xuất hiện và khai thác một cách bừa bãi mặc kệ thiên nhiên có xảy ra điều gì. Chính vì những hành động thiếu ý thức đó có lẽ đã và đang đẩy con người vào thời kỳ suy tàn. Với những khoản lợi nhuận kích xù làm cho con người mờ mắt đến nỗi họ không nhận ra rằng mình đang gây ra thảm họa gì cho toàn thế giới cũng như chính họ. Hàng ngày, với hàng trăm tỷ tấn rác thải trên thế giới thải ra ngoài môi trường sống của chúng ta làm ô nhiễm môi trường. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể giải quyết được một vấn đề mang tính toàn cầu này? Đây vẫn là một câu hỏi lớn mà ai ai cũng lo lắng, khi hành tinh của chúng ta không được trong lành như trước đây nữa. trước đây, khi công nghệ hiện đại chưa xuất hiện, khi các khu công nghiệp chưa mọc lên hàng loạt thì hành tinh của chúng ta vẫn được bảo vệ với một màu xanh. Nhưng giờ đây hệ sinh thái của chúng ta đang ngày càng suy kiệt bởi sức tàn phá vô cùng khủng khiếp của xã hội. Vậy chúng ta phải làm gì để giảm bớt sự ô nhiễm của các KCN đó? Chính vì thế chúng tôi đã và đang đi tìm hiểu thực trạng của KCN để thấy được môi trường xung quanh KCN như thế nào và cùng nhau tìm ra biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm do KCN gây nên. B. NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Quá trình hình thành và Sự phát triển của khu công nghiệp. Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất nước nhà trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá là một chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Qua 18 năm xây dựng và phát triển, các KCN, KCX ở nước ta đã thể hiện được vai trò không thể thay thế của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá: là địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước; góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất công nghiệp, tạo việc làm, tiếp thu những công nghệ sản xuất và kỹ năng quản lý tiên tiến, hình thành một hệ thống đô thị mới ở nông thôn và góp phần công nghiệp hoá nông thôn nước ta. Quá trình hình thành và phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp (KCX-KCN) đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, đáng kể, thu hút đầu tư trong và ngoài nước.Việt Nam không chỉ thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để tăng giá trị sản xuất công nghiệp và khối lượng xuất khẩu, mà còn góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, tạo công ăn việc làm cho các nhà quản lý và người lao động. Không những thế nó còn tạo điều kiện cho việc điều trị của các tác động môi trường. Các KCX - KCN đã được hình thành và phát triển ban đầu với mục tiêu đưa ra tại các cơ sở hạ tầng thuận tiện trong giao thông, hệ thống xử lý nước thải, cấp điện, nước; cung cấp các tài liệu nhanh và trực tiếp, cũng là lực lượng lao động đáp ứng các yêu cầu với mức lương âm thanh; việc có thể để đối phó với thị trường tiêu dùng trong và ngoài nước ... Khu, cụm công nghiệp là hình thức ra đời và phổ biến ở các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đây là một mô hình sử dụng các ưu đãi đặc biệt (thuê đất, ưu đãi thuế, thủ tục hành chính, lao động,...) để thu hút vốn, khoa học công nghệ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mô hình này được đánh giá là phù hợp với các quốc gia đang ở giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, các khu, cụm công nghiệp cũng là nơi tạo ra một nguồn thu ngân sách lớn cho các địa phương, cho các quốc gia, giải quyết hàng ngàn, thâm chí hàng trăm ngàn lao động trong một khu, cụm công nghiệp với diện tích từ vài chục đến hàng trăm ha... Tuy có nhiều đóng góp như vậy nhưng khu, cụm công nghiệp cũng còn rất nhiều điều đáng bàn. Trước hết, đó là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp với nhiều loại hình khác nhau, dù các cơ sở này có công nghệ hiện đại đến mấy cũng đều tác động đến môi trường,  ở những khía cạnh và mức độ khác nhau (ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, không khí, khói, bụi, tiếng ồn, giao thông, ô nhiễm nhiệt độ, độ ẩm...) làm cho các khu vực xung quanh bị ảnh hưởng. Các khu, cụm công nghiệp là trung tâm, nơi duy trì và phát tán nguồn gây ô nhiễm. Các tác động này không chỉ diễn ra trước mắt mà diễn ra lâu dài, không chỉ diễn ra tại vị trí đặt cơ sở sản xuất mà còn lan rộng theo nguồn nước, theo gió.... Việc khắc phục hậu quả ô nhiễm cũng rất phức tạp, kéo dài và rất tốn kém, thậm chí vượt xa tổng số ngân sách mà khu, cụm công nghiệp đó đã đóng góp cho địa phương trong suốt thời gian nó hoạt động. Song, hậu quả nguy hiểm nhất chính là những ảnh hưởng đến an toàn sức khoẻ người dân và huỷ hoại tài nguyên môi trường - có những tác động không thể và không bao giờ khắc phục được. Trong thời gian qua, Việt Nam có tốc độ phát triển công nghiệp rất nhanh, cả về tốc độ, quy mô và phân bố. Hiện nay, cả nước có gần 600 khu, cụm công nghiệp đã, đang và sẽ đi vào hoạt động và 15 khu kinh tế (thực chất là một dạng khu công nghiệp). Các KCN tập trung ở Việt Nam mới chỉ đi vào hoạt động khoảng 20 năm. Tân Thuận là một trong những khu chế xuất hoạt động sớm nhất tại Việt Nam, đã nảy sinh hàng hoạt vấn đề về kinh tế và tàn phá môi trường thiên nhiên, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sức khoẻ dân cư. Hàng loạt các “con sông chết”, “vùng đất chết”, “cánh đồng chết” kéo theo đó là những làng ung thư, những hồ tôm, ao cá với hàng ngàn tấn cá chết hàng loạt xuất hiện khắp mọi vùng miền của đất nước. Hầu hết các dự án sẽ thu hút được các môi trường sạch và thân thiện với những người, liên quan đến ngành công nghiệp chủ chốt cho các yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế của thành phố như các dự án nghiên cứu và phát triển, phần mềm và thiết kế phần cứng cho các vi mạch bán dẫn; các dự án của mốc thành phần và các ngành công nghiệp cơ khí chính xác; sản xuất và lắp ráp hàng điện - điện tử và công nghệ thông tin; thực hiện việc nhập khẩu và xuất khẩu ... Ngoài ra, các dự án đầu tư của ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giày da, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm 50% tổng số dự án) với tỷ lệ xuất khẩu cao đã thu hút nhiều công nhân và đóng góp vào việc nâng cấp các ngành công nghiệp trong dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu dùng trong và ngoài nước. II. ÁP LỰC CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP LÊN MÔI TRƯỜNG 1. Hiện trạng xử lý chất thải. Mấy năm qua, công tác bảo vệ môi trường ở các KCN ở Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận. Các cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể đã quan tâm nhiều hơn đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững. Nhận thức về môi trường của cán bộ, công nhân được nâng lên. ý thức bảo vệ môi trường đang dần trở thành thói quen, nếp sống của họ. Các KCN, KCX bước đầu đã hạn chế được một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, chú trọng khắc phục suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; quan tâm hơn đến khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; cố gắng góp phần ngăn chặn việc đổ phế thải, nước chưa qua xử lý ra đồng ruộng, ao hồ, kênh rạch và tích cực trồng các cây nguyên liệu có giá trị. Điều kiện vệ sinh môi trường ở đây đang từng bước được cải thiện, người dân ở quanh vùng có điều kiện môi trường ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên không phải KCN nào cũng có máy xử lý phế thải, hay có nhưng kỹ thuật còn thô sơ và lạc hậu. Vì vậy việc xử lý chất thải ở các cụm, KCN vẫn là một vấn đề nan giải. Có những doanh nghiệp thì vẫn vì cái lợi trước mắt mà quên đi hiểm họa cho tương lai của chúng ta và thế hệ sau. Nói chung tình hình thực hiện xử lý chất thải ở các KCN vẫn chưa tốt. 2. Hiện trạng phát thải các chất thải ra ngoài môi trường. Việt Nam trong những năm gần đây không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, những lợi ích mà công nghiệp hóa hiện đại hóa mang lại được thể hiện rất rõ qua tình hình tăng trưởng kinh tế, giáo dục, xã hội trong nước. Tuy nhiên Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa cũng làm ảnh hưởng đến môi trường sống của con người. Ô nhiễm môi trường chính là tác hại rõ nhất của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tiên là tác hại của Công nghiệp hóa hiện đại hóa là làm ô nhiễm không khí: Các KCN, nhà máy, xí nghiệp, và phương tiện giao thông hàng năm đã thải vào không khí hàng trăm loại khí thải làm ô nhiễm không khí. Qua thống kê ở một số thành phố lớn, các khu đô thị hàng năm đã thải hàng triệu m3 khí thải vào không khí, Chỉ tính riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm các phương tiện vận tải trên địa bàn thành phố tiêu thụ khoảng 210.000 tấn xăng và 190.000 tấn dầu Dizel. Như vậy đã thải vào không khí khoảng 1100 tấn bụi, 25 tấn chì, 4200 tấn CO2, 4500 tấn NO2, 116000 tấn CO, 1,2 triệu tấn CO2, 13200 tấn Hydrocacbon và 156 tấn Aldehyt. Chính vì thế, tại nhiều khu vực trong các đô thị có nồng độ các chất ô nhiễm lên khá cao. Tại Hà Nội, vào nhưng năm 2002 - 2003 ô nhiễm trầm trọng đã xảy ra ở xung quanh các nhà máy thuộc KCN Thượng Đình với đường kính khu vực ô nhiễm khoảng 1700 mét và nồng độ bụi lớn hơn tiêu chuẩn cho phép khoảng 2-4 lần; xung quanh các nhà máy thuộc KCN Minh Khai – Mai Động, khu vực ô nhiễm có đường kính khoảng 2500 mét và nồng độ bụi cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần. Cũng tại KCN Thượng Đình, kết quả đo đạc các năm 2005 - 2006 cho thấy nồng độ SO2 trong không khí vượt tiêu chuẩn cho phép 2-4 lần. Thứ hai là Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gây ô nhiễm nguồn nước: Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, KCN và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. ( 3. Hiện trạng Sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên như hiện nay thì có thể Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng khan hiếm nhiên liệu và có thể nói là cạn kiệt. Một số ví dụ điển hình mà ta đã và đang chứng kiến nguồn tài nguyên như mỏ than ở Quảng Ninh dự tính trong khoảng 20 năm nữa thì sẽ hết với tình trạng sử dụng nguồn nguyên liệu này mà không tìm ra được nguồn nguyên liệu thay thế. Cần phải sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý hơn. Để sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu qủa, doanh nghiệp cần tìm ra một hướng đi trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu tác động lên môi trường. Các KCN được coi là nguồn tăng trưởng kinh tế năng động, hiệu quả đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Cùng với đà phát triển, cũng đặt ra nhiều thách thức lớn đối với KCN bởi hầu hết những KCN có điểm xuất phát ban đầu thấp, dẫn đến thiếu những thông tin thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp thiếu sự hỗ trợ từ các nguồn vốn, thiếu công nghệ và sử dụng quá mức các nguyên liệu nhập khẩu dẫn đến chất lượng thấp mà giá thành lại cao. Đặc biệt, với xu hướng toàn cầu hiện nay, phát triển kinh tế  bền vững, sự khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên và chi phí ngày càng gia tăng, trong khi người tiêu dùng thích những sản phẩm được sản xuất theo công nghệ thân thiện với môi trường. Các KCN là “trung tâm” gây ô nhiễm, đặc biệt trong các ngành như hoá chất, kim loại, chế biến thực phẩm, da, giấy và gỗ, dệt, gốm sứ, khai thác và sản xuất khoáng phi kim (xi măng, bột đá…) Vì vậy, một thách thức lớn cho các DNVVN( doanh nghiệp vừa và nhỏ ) là cần tìm ra một hướng đi hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu tác động lên môi trường. Đã có rất nhiều dự án đầu tư cho các DN( Doanh Nghiệp ), các dự án liên quan đến cách sử dụng tài nguyên, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng. Tuy nhiên, vẫn chưa có một phương pháp triệt để nào được thực hiện. Các KCN vẫn phải loay hoay với quá nhiều biện pháp cải tiến sản xuất mà vẫn phải đảm bảo tính bền vững, môi trường. Hiện nay, các KCN có hệ thống quản lý sản xuất nói chung và hệ thống quản lý tiêu thụ tài nguyên nói riêng vẫn còn yếu kém, trong khi nguồn nhân lực lại không đáp ứng chuyên môn cao và thiết bị kỹ thuật lạc hậu dẫn đến sử dụng không triệt để nguồn tài nguyên và phát thải ô nhiễm lớn. Chính vì thế, việc trước mắt đặt ra cho các cơ quan quản lý là tiếp cận thông tin, xác định rõ vai trò và trách nhiệm cũng như tăng cường giám sát quản lý ô nhiễm để khuyến khích các doanh nghiệp bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, cần rà soát, xây dựng các tiêu chuẩn môi trường phù hợp, thành lập các điểm mốc tiêu thụ tài nguyên tại các ngành; tăng cường sử dụng, quản lý tài nguyên và phân bố chi phí phù hợp. III. HIỆN TRẠNG CÁC THÀNH PHẦN MÔI TRƯỜNG Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU VỰC XUNG QUANH. 1. Hiện trạng các thành phần môi trường ở các khu công nghiệp. Có rất nhiều ví dụ thể hiện sự phát thải chất gây ô nhiễm ra ngoài môi trường sống của chúng ta. Ví dụ: Ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD), nhu cầu ôxy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu… Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời. 2. Hiện trạng các khu vực xung quanh khu công nghiệp. Nhiều nhà máy hoạt động gây ra tiếng ồn ở mức độ khá cao, nhà xưởng chưa thông thoáng, nhiều nơi khí độc và nhiệt thừa tích tụ trong không gian làm ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân. Theo các chuyên gia về môi trường tập trung hàng trăm nhà máy lớn nhỏ, vào một khu công nghiệp, tạo nên ảnh hưởng tích tụ từ nhiều nguồn ô nhiễm đến nước, không khí và đất. Nếu nhiều nhà máy sử dụng hoá chất nằm gần nhau có thể thải ra các loại hoá chất tương tác hoặc trộn lẫn gây ảnh hưởng tích luỹ hoặc cộng sinh đến môi trường khu vực và cộng đồng dân cư lân cận. 3. Ảnh hưởng của thành phần môi trường ở các khu công nghiệp và khu vực xung quanh. a. Ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp. Như chúng ta đã biết khi quy hoạch đất làm KCN thì nhiều nhà đã bán đất để làm KCN, và do đó KCN ngày càng mọc lên thay thế cho diện tích đất nông nghiệp hàng năm. Chính vì vậy sản xuất nông nghiệp ở nước ta ngày càng giảm. Thiếu đất làm nông nghiệp và không đủ cung cấp lương thực cho người dân...Không những làm giảm diện tích đất nông nghiệp ,mà KCN còn thải ra các khu vực xung quanh một lượng lớn phế thải gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như KCN xả khói ra môi trường không khí gây cho cây trồng không thể sống được do không đủ lượng oxy cho cây quang hợp và nó sẽ chết, cây chết người nông dân bị thiệt hại nặng nề, nước thải từ các KCN thải ra cũng vậy, thải ra rồi ngấm vào đất gây ô nhiễm đất, đất ô nhiễm và cây không có đủ chất dinh dưỡng để sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, mà cây còi cọc, cho năng suất không cao, thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp. Cả trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, riêng nuôi tôm làm cho diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp, lượng ao, đầm được đào đắp, nạo vét phá vỡ kết cấu tự nhiên, động đến tầng đất phèn, cùng hàng loạt chất độc hại như kim loại nặng, các loại kháng sinh, ô nhiễm gây mùi khó chịu được nạo vét đưa lên từ đáy ao nuôi, làm cho không một loại cây trồng nào có thể sinh trưởng và phát triển được. b. Ảnh hưởng tới sức khỏe người dân. Các KCN, KCX với hàng nghìn nhà máy, doanh nghiệp ra đời, góp phần tạo việc làm cho một bộ phận dân cư. Song, do công tác quy hoạch và xây dựng hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ, trong đó khá nhiều nơi ít quan tâm tới việc xử lý chất thải, cho nên hàng trăm nghìn tấn chất thải rắn, lỏng hàng năm cứ thế đổ ra các ao, hồ, sông, suối. Trong số này có không ít kim loại nặng, thủy ngân, hóa chất độc hại gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, đất, không khí... nhất là các khu vực có khu công nghiệp, chế xuất hoạt động. Ðây là mầm mống gây ra các loại bệnh tật, kể cả những bệnh hiểm nghèo như ung thư dạ dày, gan, ruột,v.v... Càng ngày sự xuất hiện của các làng ung thư ngày càng nhiều, đây là một vấn đề rất lo ngại cho người dân ở xung quanh KCN. c. Ảnh hưởng đến sinh thái ở khu vực xung quanh. Các chất từ các nhà máy thải ra các con sông, suối, ao, hồ… làm cho gây ô nhiễm làm cho các sinh vật ở đây bị chết, hoặc di cư đi nơi khác. Tính đa dạng ở các khu vực xung quanh KCN giảm sút vô cùng nghiêm trọng. Đất, nước, không khí… tất cả đều bị ô nhiễm các cây không sống được, đất nghèo dinh dưỡng, các thảm thực vật tự nhiên không thể phục hồi, động vật thì không còn thức ăn để sinh sống, một số loài không thể thích nghi được thì sẽ chết, còn một số thì chuyển đi tìm nơi trú ngụ mới. Đây chính là khúc đạo đầu của sự hủy diệt sinh thái... IV. CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN Trong tiến trình đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, môi trường tự nhiên càng bị khai thác thiếu kiểm soát, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Trước thực tế đó, các KCN ở Việt Nam đã quan tâm thích đáng đến việc thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng và phát triển. 1. Quản lý bằng pháp luật. Điểm quan trọng được Đảng ta xác định là: áp dụng các biện pháp mạnh các loại thuế môi trường, sử dụng các công cụ kinh tế…áp dụng luật pháp một cách chặt chẽ để ngăn chặn các hành vi khai thác tài nguyên trái phép, hủy hoại hoặc gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt tập trung khắc phục ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm ở các đô thị và khu chế xuất, khu công nghiệp, các làng nghề, nơi có đông dân cư và nhiều hoạt động kinh tế, khôi phục môi trường ở những nơi khai thác khoáng sản. Điều đó yêu cầu các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thực hiện các quyết sách và hành động của mình theo hướng phát triển sản xuất, kinh doanh đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công nhân, bảo vệ và cải thiện môi trường và các tác động về mặt xã hội. Mấy năm qua, công tác bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp ở Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận. Các cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể đã quan tâm nhiều hơn đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững. Nhận thức về môi trường của cán bộ, công nhân được nâng lên. ý thức bảo vệ môi trường đang dần trở thành thói quen, nếp sống của họ. Các KCN, KCX bước đầu đã hạn chế được một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, chú trọng khắc phục suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; quan tâm hơn đến khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; cố gắng góp phần ngăn chặn việc đổ phế thải, nước chưa qua xử lý ra đồng ruộng, ao hồ, kênh rạch và tích cực trồng các cây nguyên liệu có giá trị. Điều kiện vệ sinh môi trường ở đây đang từng bước được cải thiện, người dân ở quanh vùng có điều kiện môi trường ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, hiện còn thiếu nhiều hệ thống thống nhất quản lý về môi trường, do vậy mỗi KCN tổ chức quản lý môi trường theo một cách khác nhau. Việc phân cấp quản lý chưa rõ ràng dẫn đến việc né tránh và đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý. Các cán bộ của cơ quan quản lý môi trường địa phương (các sở khoa học, công nghệ và môi trường và ban quản lý khu công nghiệp) không thể có mặt hường xuyên tại từng nhà máy để giám sát việc thực thi các cam kết trong đánh giá tác động môi trường hoặc kiểm soát từng nguồn ô nhiễm. Họ không có đủ phương tiện và trang thiết bị để thực hiện việc giám sát ở tất cả các nhà máy trong KCN, thiếu cán bộ quản lý môi trường trong KCN. Các cán bộ Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường chỉ có thể đáp ứng phần nào việc quản lý các vấn đề môi trường bên ngoài hàng rào khu công nghiệp. Các vấn đề môi trường bên trong chỉ có thể được quản lý tốt bởi chính các bộ phần chức năng quản lý môi trường của từng KCN. Việc xử phạt các trường hợp vi phạm luật bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo, mức phạt còn quá thấp chưa đủ sức để buộc các đối tượng vi phạm nỗ lực thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hoặc thay đổi hành vi gây ô nhiễm. Bản thân hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung (như Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp quy về quản lý môi trường KCN) đã bộc lộ nhiều hạn chế khi áp dụng. Trong thực thi về Luật bảo vệ môi trường hiện nay, nổi bật lên là sự chồng chéo về chức năng thẩm quyền giữa các cơ quan, ban ngành. Đặc biệt là giữa Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay chuyển sang Bộ Tài nguyên và Môi trường) với các bộ, ngành khác. Sự chồng chéo này thể hiện rõ nét nhất trong lĩnh vực thanh tra và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, dẫn đến sự phức tạp trong việc ban hành, quản lý, nhất là thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và môi trường khu công nghiệp nói riêng. Việc ban hành các quy định pháp luật còn mang tính tự phát, và thụ động - nổi lên vấn đề gì thì đưa ra các quy định cho vấn đề ấy, không có một sự nghiên cứu và tiên liệu tổng quát trước đó. Dẫn đến một thực trạng không chỉ còn nhiều mặt và nhiều phương diện liên quan đến quản lý môi trường khu công nghiệp chưa được đề cập tới trong các văn bản luật, mà ngay cả những vấn đề đã được quy định cũng chưa phải là đầy đủ, hợp lý và chặt chẽ. Nhiều vấn đề bị phân tán, hay trùng lặp, xung đột khó có thể xác định để giải quyết. Một số văn bản quy phạm đã được ban hành trước đây có nhiều nội dung lỗi thời, không phù hợp hoặc không đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung. 2. Quản lý bằng Kinh tế, kỹ thuật, công nghệ. Áp dụng các công cụ kinh tế : Thuế và phí môi trường, ký quỹ môi trường, trợ cấp môi trường, Nhãn sinh thái…. Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên ở các nước cho thấy một số tác động tích cực như các hành vi môi trường được thuế điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí của xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ môi trường, gia tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách nhà nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia. ( Nguồn: Hồ Thị Lam Trà – Lương Đức Anh- Cao Trường Sơn, Bài Giảng: “ Quản lý môi trường”. ) V. CÁC GIẢI PHÁP BỔ SUNG NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ. 1. Quy hoạch các khu công nghiệp. - Việc xác định vị trí phân bố các khu công nghiệp không thể chỉ đơn thuần xuất phát từ lợi ích kinh tế, mà nó cần dựa trên cơ sở khoa học địa lý, địa môi trường, xuất phát và tôn trọng các yếu tố, thành phần tự nhiên, tôn trọng và lấy lợi ích của cư dân trong phạm vi ảnh hưởng làm tiêu chuẩn hàng đầu cho việc lựa chọn vị trí. Việc xác định vị trí quy hoạch các khu, cụm công nghiệp cần phải xa các trung tâm dân cư, xa trung tâm các thành phố, thị xã, thị trấn. Bởi các khu, cụm công nghiệp khi đi vào hoạt động thì tuỳ theo ngành nghề mà có thể gây ra khói bụi, mùi hôi, tiếng ồn, các chất thải nguy hại khác, gây ắch tắc giao thông sẽ tác động trực tiếp vào thành phố, các khu dân cư kế cận. Về lý thuyết, khi xây dựng các khu, cụm công nghiệp, nhà máy, kể cả một lò gạch đốt bằng than, gỗ ... cũng không được xây dựng ở vị trí mà khói bụi sẽ tác động vào khu vực dân cư, nhất là khu vực có mật độ dân cư cao, hoạt động kinh tế diễn ra sôi động, trong các thành phố trẻ, trung tâm tỉnh lị có tốc độ phát triển nhanh. Việc xác định vị trí phân bố cần phải dựa trên cơ sở xác định không gian mở rộng thành phố, khu dân cư trong tương lai (ít nhất là 30-50 năm). Trong khi đó, các khu, cụm công nghiệp hiện nay đều nằm trong hay nằm sát thành phố, khu dân cư, hoặc các khu công nghiệp đang được kỳ vọng là hạt nhân hình thành các thị tứ, thị trấn, thành phố trong tương lai. Hơn nữa, các khu, cụm công nghiệp phải thoả mãn các điều kiện địa – môi trường, phải tránh những vị trí nhạy cảm như vị trí đón gió, trên những dải đất quá cao, nơi có các kênh dẫn nước, dọc hệ thống các sông suối, các nhà máy cung cấp nước, các đầu mối giao thông (nhà ga, bến tàu..)... Bởi khi hoạt động, các luồng gió sẽ mang theo nguồn gây ô nhiễm (khói, bụi, mùi hôi thối, tiếng ồn…) vào khu vục dân cư, khu vực thành phố. Các khu vực cao dễ phát tán nguồn gây ô nhiễm theo độ nghiêng của địa hình, kể cả theo đường nước mặt và nước ngầm. Phát tán thông qua con đường giao thông cũng cần tính đến vì đây là nơi có nhiều người, phương tiện qua lại. Các nguồn gây ô nhiễm khi gặp điều kiện phát tán thuận lợi sẽ tác động trên phạm vi rộng, lâu dài và rất khó khắp phục, kiểm soát. Hậu quả của việc phân bố hàng trăm khu công nghiệp trên hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn; hệ thống Sông Cầu, sông Đuống (xả nước thải xuống các sông)... đang làm ô nhiễm cả lưu vực sông rộng lớn, đe doạ môi trường sống của hàng chục triệu người dân khu vực Đông Nam Bộ, khu vực đồng bằng sông Hồng. Hay các lò gạch ở các tỉnh An Giang, Long An, Tiền Giang dù đã phân bố ở khu vực nông thôn, xa khu dân cư nhưng khi có gió đã mang khói, bụi vào gây ô nhiễm trên diện rộng làm ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt. Các khu, cụm công nghiệp quy hoạch cần tránh nằm trong, sát hoặc giao thoa với các khu dân cư hiện hữu. Bởi nếu nằm trong thành phố, trong các khu dân cư sẽ rất khó khăn và tốn kém trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng. Chi phí cho đền bù và giải phóng mặt bằng thường rất lớn vì giá trị đất đai ở những khu vực này thường cao gấp nhiều lần khu vực ngoại vi. Mặt khác, việc giải phóng mặt bằng sẽ rất khó khăn do khu vực đông dân cư, khu vực nội thành là những khu vực có khả năng sinh lợi rất cao, cao hơn rất nhiều so với các khu vực khác do trong thành phố người dân có thể phát triển các dịch vụ kinh doanh lớn nhỏ khác nhau. Do đó, nếu người dân di chuyển sẽ mất đi cơ hội kinh doanh, mất đi nguồn thu nhập. Trong khi đó, các khu, cụm công nghiệp phân bố không nhất thiết phải nằm trong khu dân cư, thành phố bởi về lý thuyết phân bố trong phạm vi xa- gần 20- 30 km không ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ hàng hoá và cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất của khu, cụm công nghiệp đó, chỉ có chi phí cho giao thông là tăng lên, nhưng không đáng kể. Và cuối cùng, không nên phân tán các cơ sở sản xuất công nghiệp. Các địa phương nên xác định một vị trí, một diện tích phù hợp để phân bố các khu, cụm công nghiệp nhằm gom nguồn gây ô nhiềm về một khu vực để quản lý hoạt động, quản lý về mặt môi trường, giảm chi phí xây dựng các cơ sở hạ tầng có liên quan. Điều này cũng tránh gây ra lãng phí một diện tích rất lớn đất không được sử dụng do chờ dự án đầu tư. Những bài học được rút ra từ các khu, cụm công nghiệp trong thời gian qua là những kinh nghiệm quý cho các cấp chính quyền khi tiến hành quy hoạch. Phát triển hướng tới môi trường sạch, chú trọng đến sức khoẻ người dân là một định hướng phát triển mang tính nhân văn, có đạo đức. (      2. Quản lý bằng xã hội, văn hóa giáo dục. Giáo dục ý thức, trách nhiệm và đạo đức môi trường, nếp sống văn hóa sinh thái trong toàn đội ngũ cán bộ, công nhân viên. Có chính sách khen thưởng cụ thể đối với người thực hiện tốt các quy định bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, vệ sinh môi trường xanh - sạch - đẹp và xử phạt nghiêm khắc đối với người vi phạm nguyên tắc bảo vệ môi trường. Nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường trong cácKCX, KCN. Bảo vệ môi trường là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất, kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm cho sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập thành công. Nói chung, các KCN cần kiểm soát ô nhiễm và ứng cứu sự cố môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trên các dòng sông, hồ ao, kênh mương do mình gây ra... Thực hiện các dự án về cải tạo, bảo vệ môi trường: trồng cây xanh, giữ gìn đa dạng sinh học, xây dựng các công trình làm sạch môi trường ngay trong các khu công nghiệp, Phát triển các dịch vụ môi trường như trồng vườn hoa, thu gom rác thải, cung cấp nước sạch, xây dựng các vườn sinh thái, vườn cây cảnh... Kết hợp hài hòa giữa sản xuất kinh doanh, dịch vụ với xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên môi trường và các tác động về mặt xã hội. Muốn khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường các khu công nghiệp ở Việt Nam một cách có hiệu quả thì “Trên cơ sở luật bảo vệ môi trường, cần sớm ban hành đồng bộ khung pháp lý về bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Thể chế hoá các chủ trương, chính sách, chế độ, quy định rõ các đầu mối trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh về phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường. Hình thành một hệ thống tổ chức quản lý môi trường KCN thống nhất, đồng bộ, phù hợp với hoạt động của KCN, tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương. Nếu có hệ thống tổ chức quản lý môi trường phù hợp, KCN sẽ giảm thiểu các nguy cơ gây ô nhiễm và tạo ra những lợi thế trong việc sử dụng những sản phẩm phụ hoặc chất thải, kết hợp các ngành nghề với nhau tạo thành hệ sinh thái công nghiệp. Bố trí cán bộ chuyên trách chăm lo bảo vệ môi trường trong các KCN, trong từng doanh nghiệp. Có một hệ thống quản lý theo ngành dọc thống nhất để có thể quản lý chặt chẽ hơn công tác bảo vệ môi trường ở từng cơ sở, trong và ngoài KCN. 3. Đề xuất ứng dụng dùng trong công nghiệp. Song hành với phát triển công nghiệp truyền thống, suy thoái môi trường và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên là điều không tránh khỏi. Mặc dù hiệu quả kinh tế do SXCN đem lại đã rõ, nhưng không thể không tính đến chữa trị môi trường. Nhiều nước phát triển và đang phát triển phải trả giá đắt cho sự phá huỷ môi trường và suy giảm tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình. Chi phí này có thể chiếm  từ 1 đến 7% tổng thu nhập quốc nội của mỗi quốc gia, ở Việt Nam là 7,2%. Do vậy,  bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhân loại. Không thể có một xã hội phát triển lành mạnh, bền vững trong một thế giới còn nghèo đói, đại dịch và suy thoái môi trường. Mô hình khu công nghiệp sinh thái (KCNST) Khái niệm KCNST được hai nhà khoa học Mỹ là FROSCH và GALLOPOULOS đề xuất vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX. KCNST hình thành trên cơ sở Sinh thái học Công nghiệp (STHCN), sản xuất sạch, quy hoạch, kiến trúc và xây dựng bền vững, tiết kiệm năng lượng và hợp tác các doanh nghiệp (DN). gia công chế biến nguyên liệu. xử lý chất thải khu vực tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng nguyên thủy. Các nhà khoa học cho rằng: Hệ thống CN không phải là các thực thể đơn lẻ mà là tổng thể các hệ thống giống như hệ sinh thái tự nhiên (STTN). STHCN tìm cách loại trừ khái niệm "chất thải" trong SXCN. Mục tiêu của STHCN là bảo vệ sự tồn tại sinh thái của hệ thống tự nhiên, đảm bảo chất lượng sống của con người và duy trì sự tồn tại mang tính kinh tế của hệ thống CN, kinh doanh, thương mại, với các nguyên tắc cơ bản: - Tập hợp các doanh nghiệp độc lập vào Hệ Sinh thái công nghiệp (STCN). - Thiết lập chu trình khép kín tái sử dụng và tái chế, cân bằng đầu ra và đầu vào với khả năng cung cấp và tiếp nhận của Hệ STTN. - Tìm ra các giải pháp mới cho việc sử dụng năng lượng và nguyên - vật liệu trong CN. Thiết kế hệ thống CN hoà nhập với sự phát triển kinh tế và xã hội quanh vùng. Sơ đồ trên phản ánh mô hình hoạt động SXCN theo hệ thống, các dòng năng lượng và vật chất luân chuyển tuần hoàn. Những bán thành phẩm, chất thải hoặc năng lượng thừa có cơ hội quay vòng tối đa ngay bên trong hệ thống, giảm đến mức thấp nhất các chất thải phát tán vào môi trường tự nhiên. Do vậy mô hình này đáp ứng hai mục tiêu: - Các cơ sở sản xuất thu được nguồn lợi về kinh tế do trao đổi, chuyển nhượng hoặc bán các sản phẩm phụ của mình cho các XN khác trong cùng hệ thống trong mối quan hệ Cung - Cầu, đôi bên cùng có lợi. - Giảm đáng kể những chi phí xử lý, khắc phục sự cố môi trường đối với chất thải. Từ đó có thể hiểu một cách đầy đủ KCNST là tập hợp các CSSX và dịch vụ tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng môi trường sống và hiệu quả kinh tế bằng cách phối hợp quản lý môi trường và tài nguyên. Bằng cách này, các CSSX trong cùng KCNST sẽ thu được lợi  ích chung lớn hơn nhiều so với tổng lợi ích mà từng cơ sở đạt được khi tối ưu hoá hiệu quả hoạt động riêng cơ sở mình. Mục tiêu của KCNST là cải thiện hiệu quả kinh tế của các DN tham gia KCNST đồng thời giảm thiểu các tác động xấu lên môi trường. Như vậy, yêu cầu đặt ra với KCNST là: - Phải tương thích về quy mô diện tích chiếm đất, sử dụng nguyên - nhiên liệu, bán thành phẩm, chất thải,... - Giảm khoảng cách giữa các cơ sở sản xuất. - Hạn chế thất thoát nguyên vật liệu trong quá trình trao đổi. - Kết hợp giữa phát triển CN với các Hệ STTN lân cận: vùng nông nghiệp, cộng đồng dân cư. So sánh mô hình KCN truyền thống với mô hình KCNST cho thấy: mô hình KCN truyền thống vận hành theo quy trình, phát sinh nhiều chất thải là điều khó tránh khỏi. Trong khi đó, mô hình KCNST vận hành theo hệ thống khép kín trên nguyên tắc: cộng sinh CN, thực hiện trao đổi chất, tái sinh tái chế, tuần hoàn năng lượng và vật chất nhằm giảm thiểu chất thải, đem lại lợi ích kinh tế đồng thời đạt được hiệu quả môi trường là không phủ nhận. Phân tích và tổng hợp các quan điểm về STCN của nhiều nhà khoa học từ nhiều quốc gia, nhận thấy có sự đồng thuận: Các nhà khoa học không nhìn nhận SXCN thông qua một công ty riêng lẻ hoặc viễn cảnh một dây chuyền sản xuất đơn lập, mà nhận thức SXCN như là Hệ sinh thái của mọi tổ chức - trao đổi thông tin, năng lượng và vật chất với nhau và với môi trường của chúng. C. KẾT LUẬN. Khi Việt Nam bước trên con đường hội nhập cũng chính là lúc phát triển lên một đỉnh cao mới. Một sự phát triển nhảy vọt của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với những phát minh của công nghệ cao, của kỹ thuật. Đời sống của người dân thay đổi, có cuộc sống ấm no hơn, đầy đủ hơn và dần dần nhu cầu của họ ngày càng cao.... Và hàng ngàn, hàng ngàn các khu đô thị, khu công nghiệp hay khu chế xuất được mọc lên để đáp ứng những nhu cầu đó: nhà cửa, ăn ở, may mặc... Nhưng họ có biết đâu để đáp ứng thỏa mãn nhu cầu của họ mà thiên nhiên, môi trường đã phải trả một cái giá quá đắt. Môi trường ô nhiễm, chết chóc, bệnh tật, hiện tượng hiệu ứng nhà kính gây nên sự nóng lên toàn cầu... đây là vấn đề chung cho cả nhân loại tìm cách khắc phục. Chúng ta phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường để đi đến sự bền vững. Chúng tôi tìm hiểu về vấn đề này, và cũng muốn cho mọi người biết được tình hình KCN ở nước ta hiện nay, mỗi người hãy có ý thức hơn về môi trường xung quanh chúng ta và tìm cách bảo vệ hành tinh xanh của chính mình. “ Kinh tế phát triển – Môi trường trong sạch. „

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý môi trường khu công nghiệp.doc