Phòng chống bệnh truyền nhiễm

1. Nguyên tắc chung của công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm Nguyên lý công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm là vận dụng những kiến thức về ba pha của chu trình truyền lây mầm bệnh và các giai đoạn của quá trình sinh dịch vào công tác thực tiễn. Bệnh truyền nhiễm xảy ra được là do ba khâu của quá trình sinh dịch: nguồn bệnh, các nhân tố trung gian truyền bệnh và động vật cảm thụ, và sự liên hệ giữa ba khâu đó. Thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ giữa hai trong ba khâu đó thì dịch không xảy ra được.

pdf33 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 3536 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phòng chống bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không có nơi cho muỗi sinh đẻ và bọ gậy không thể sống được. Chú ý rằng các bãi thải rác công nghiệp (lốp xe, chai lọ,...) cũng là nơi thuận lợi cho việc sinh sản của muỗi. Đối với ao hồ cần thả cá tiêu diệt bọ gậy. Có thể dùng dầu hỏa trải một lớp mỏng trên mặt ao hồ để làm bọ gậy tắc thở. Cần lưu ý rằng mặc dù bằng tay tuy không tiêu diệt hết muỗi nhưng, cũng như đối với các động vật gây hại khác, bằng cách này có thể làm giảm mật độ của chúng nên cũng góp phần làm giảm tốc độ sinh sản của chúng. Tiêu diệt ruồi trâu cũng là việc làm cần thiết. Ruồi trâu có rất nhiều loại (ở nước ta có hơn 50 loài) nên việc tiêu diệt ruồi trâu rất khó; có thể hạn chế ruồi trâu đốt gia súc bằng cách không chăn dắt ở những nơi ẩm thấp, nơi có nhiều cây cối rậm rạp, dùng lưới che chuồng. Có thể bôi cresyl, dầu thầu dầu lên mình gia súc. Hạn chế ruồi sinh sản bằng cách tiêu độc phân động vật, phát quang bụi rậm, khai thông nước đọng, trải một lớp dầu hỏa mỏng trên mặt nước ao hồ. Để tiêu diệt rận và ve phải thường xuyên cọ chải cho gia súc. Đối với ve cần phát quang bụi rậm, quan sát và làm sạch các hốc nhỏ ở chuồng trại, nhà ở,... Có thể bắt ve bằng tay hoặc, tốt hơn là, nhỏ dầu hỏa lên ve rồi gắp ve ra khỏi da hoặc hốc tường mà giết chết. Hóa chất dùng để diệt ve có thể là HCN 3 - 6%. Mỗi tuần bôi 1 lần, liên tiếp 3 đến 4 tuần. Tiêu diệt chuột có thể bằng nhiều phương pháp. Phải kết hợp phòng chuột và tiêu diệt chuột. Phương pháp cơ học có thể là dùng bẫy, săn bắt, đào hang hay hun khói bắt chuột. Phương pháp hóa học rẻ tiền và có hiệu quả hơn nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ đối với sức khỏe người và động vật. Có thể dùng phosphur kẽm, nhưng nhược điểm của thuốc này là có mùi hắc, nguy hiểm cho người và gia súc. Ngoài ra, có thể dùng các hợp chất arsen (thạch tín), hợp chất có sắt, muối bari, thuốc chống đông máu tương đối không độc với người và gia súc (như Racumin TP có thuốc giải độc là vitamin K, thời gian nhiễm độc không lâu, nhưng nhược điểm là gây quen thuốc). Dùng một số thuốc độc thảo mộc để đánh bả chuột cũng có hiệu quả. Có thể sử dụng một số bài thuốc diệt chuột (bả chuột) sau đây: Zn3P2: 1 phần, cơm rang: 15 phần, hoặc thạch tín (tán nhỏ): 1 phần, cơm rang: 20 phần. Các hóa chất có thể trộn với mồi có vị thơm hấp dẫn chuột và phải luôn thay mồi mới. Nên đậy kỹ thức ăn mấy hôm cho chuột đói rồi mới bẫy. Phương pháp sinh học là dùng kẻ thù tự nhiên của chuột để diệt chúng (như mèo, rắn, chim, các loài động vật ăn thịt khác) hoặc dùng vi sinh vật gây dịch cho chuột. Bảo vệ các loài rắn, cú mèo trong tự nhiên cũng như nuôi mèo để phát tán vào các địa bàn nông thôn là biện pháp hữu hiệu làm giảm số lượng chuột đáng kể, từ đó giảm tốc độ sinh sản của chúng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý các động vật diệt chuột cũng có thể là tác nhân truyền lây mầm bệnh, vì vậy chúng cũng là đối tượng cần hạn chế di chuyển và thậm chí là nguồn bệnh khi có dịch xảy ra. Ngoài các phương pháp trên, người ta có hướng dùng phương pháp di truyền, dùng hóa chất hoặc các tia phóng xạ để gây tuyệt giống chuột. Phòng chuột bằng mọi cách cách ly, xua đuổi chúng đi xa không cho xâm nhập vào nhà, kho tàng, chuồng trại gia súc, bằng cách phá vỡ các điều kiện thuận lợi để chúng sống và sinh sản như cất kỹ thức ăn thừa, phân rác, giữ nhà cửa phong quang, kho tàng kín đáo để chúng không có phương tiện làm tổ. b. Chăn nuôi khép kín Chăn nuôi khép kín là biện pháp phòng dịch quần thể bắt đầu từ việc hạn chế nhập gia súc, do việc thu nhận gia súc từ ngoài vào là con đường chủ yếu đưa vật mang trùng vào chuồng trại và vì việc phát hiện vật mang trùng không dễ. Xét ở cấp độ quốc gia hay khu vực thì nhiều nước trên thế giới (New Zealand, Australia, Anh, Nhật Bản,...) nếu thực hiện triệt để việc quản lý nhập khẩu động vật thì là những hệ thống khép kín gồm động vật nuôi và động vật hoang bản địa và có thể thực hiện chăn nuôi khép kín. Tương tự, ở cấp độ nông trại lớn cũng có thể thực hiện chăn nuôi khép kín. Chẳng hạn, trong chăn nuôi lợn trước đây người ta tiến hành nuôi giống và nuôi vỗ trong các trại riêng biệt, để nuôi thịt người ta định kỳ nhập gia súc từ các trại khác về. Nhưng hiện nay hình thức chăn nuôi khép kín nuôi vỗ lợn con được sinh sản tại trại nhà (farrow-to-finish operation) được áp dụng ngày càng tăng. Chăn nuôi gà thịt cũng được tiến hành khép kín nghiêm ngặt, mỗi lô gà con nở ra được nuôi thành đàn cách ly hoàn toàn với các đàn khác. Điểm khó khăn mà chăn nuôi khép kín gặp phải là nuôi con giống, thường gặp phải nhất là vấn đề con giống nhập trại liệu có sạch bệnh hay không. Trong chăn nuôi gà và chăn nuôi lợn, để chọn nuôi những con giống có tính di truyền tốt người ta phải nuôi tiếp dòng. Các thế hệ giống cụ kị (GGP), giống ông bà (GP) và con giống sản xuất (giống bố mẹ - PS) được chăn nuôi chuyên biệt trong mỗi trang trại để cung cấp lợn giống nuôi vỗ thịt. Cơ cấu chăn nuôi như vậy được gọi là cơ cấu hình tháp. Ước tính nếu cần nuôi 1,5 triệu lợn vỗ thịt mỗi năm thì cần phải nuôi 500 con GGP, 6000 con GP và 90.000 con PS. Nếu đàn giống hạng trên cảm nhiễm thì có nguy cơ toàn bộ đàn giống hạng dưới bị lây nhiễm. Do đó đàn giống hạng trên phải được phòng dịch nghiêm ngặt, và không bao giờ được cho di động đàn từ hạng dưới lên hạng trên, đồng thời mỗi hạng giống cũng được nuôi khép kín nghiêm ngặt. Ngoài ra, còn cần phải ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh từ bên ngoài vào. Con đường xâm nhập mầm bệnh phổ biến nhất cho động vật là người, cho nên cần phải có quy chế vào ra chuồng trại. Thực hiện tiêu độc và thay trang phục là bắt buộc. 4. Đối sách với động vật thụ cảm Các biện pháp phòng bệnh đối với gia súc, gia cầm thụ cảm nhằm làm tăng sức đề kháng (không đặc hiệu và đặc hiệu) của chúng đối với bệnh. Các biện pháp đó đã được vạch ra trong Điều lệ phòng chống dịch trước đây, trong Pháp lệnh thú y sau này và các văn bản thi hành liên quan, bao gồm những biện pháp áp dụng khi chưa có dịch và khi có dịch. 4.1. Làm tăng miễn dịch quần thể Đối sách cơ bản đối với ký chủ khi chưa có dịch là làm tăng sức miễn dịch tập đoàn hay miễn dịch đàn. Để có đàn gia súc có sức đề kháng cao cần thực hiện các biện pháp sau đây. a. Vệ sinh phòng bệnh Cá nhân và tổ chức chăn nuôi, chủ động vật nuôi, người vận chuyển động vật phải thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng bệnh cho động vật, nhằm bảo đảm sức khỏe động vật, tăng sức đề kháng không đặc hiệu của gia súc, gia cầm. Vệ sinh phòng bệnh bao gồm: vệ sinh ăn uống, vệ sinh chuồng trại, chăn thả, vệ sinh thân thể, vệ sinh sử dụng, khai thác, vệ sinh sinh sản,... Vệ sinh phòng bệnh phải được xây dựng thành quy trình tiêu chuẩn kỹ thuật mà người chăn nuôi bắt buộc phải tuân theo, và mặt khác phải được gây thành phong trào quần chúng, thành tập quán trong nhân dân để mọi người tự nguyện tự giác thực hiện. Phải kết hợp chặt chẽ với phong trào vệ sinh phòng bệnh cho người. Phải dựa vào sự hoạt động của những tổ chức quần chúng như "hội bảo hiểm nuôi lợn" hoặc "kết ước phòng toi gà", hoặc quy định pháp lý "đăng ký xây dựng cơ sở và vùng an toàn dịch". Vệ sinh phòng bệnh có tác dụng chủ động tấn công bệnh ở ngoại cảnh và trên thân thể động vật, làm cho cơ thể khỏe mạnh, tăng sức chống đỡ bệnh, ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Đối với các bệnh không truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng, phải lấy vệ sinh phòng bệnh làm biện pháp chính, nếu không phải là duy nhất, còn đối với bệnh truyền nhiễm và một số bệnh ký sinh trùng thì phải kết hợp vệ sinh phòng bệnh với tiêm phòng. Nhờ xây dựng và thực hiện tốt nội quy vệ sinh phòng bệnh mới hạn chế được nhiều dịch bệnh. b. Cải tiến kỹ thuật chăn nuôi Thực hiện vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại,... là một khâu trong cải tiến kỹ thuật chăn nuôi. Phối hợp khẩu phần thích đáng bảo đảm đủ và cân bằng chất dinh dưỡng, xây dựng chuồng trại hợp lý, cải tiến việc quản lý chăm sóc, dùng công cụ cải tiến trong chăn nuôi, chọn lọc cải tạo giống, cơ giới hóa chăn nuôi là những nội dung của cải tiến kỹ thuật chăn nuôi, đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về các mặt sinh lý, sinh thái, dinh dưỡng học, di truyền học, vệ sinh thú y,... c. Tiêm phòng Tiêm phòng là biện pháp phòng bệnh tích cực, vì làm cho cơ thể tự sản sinh ra (tiêm vacxin) hoặc tiếp nhận được (tiêm kháng huyết thanh) những chất tạo sức đề kháng đặc hiệu chống cảm nhiễm nên giúp cho cơ thể chống đỡ có kết quả với bệnh trong thời gian nhất định. Tiêm phòng có ý nghĩa rất to lớn đối với những bệnh mà mầm bệnh tồn tại lâu dài trong thiên nhiên (bệnh nhiệt thán) hay trong cơ thể động vật khỏe mạnh (bệnh đóng dấu lợn, tụ huyết trùng), lại càng cần thiết đối với những bệnh có ổ dịch thiên nhiên, có nhiều vật mang trùng, có nhiều nhân tố trung gian truyền bệnh hoặc những bệnh khó tiêu diệt nhân tố trung gian truyền bệnh, cũng như đối với những bệnh lây qua đường hô hấp. Tiêm phòng phải thực hiện khi chưa có dịch là chủ yếu, hoặc khi đã bị dịch uy hiếp. Thuốc dùng tiêm phòng là vacxin hoặc kháng huyết thanh, hoặc kết hợp cả hai. Tiêm phòng bằng vacxin là phương pháp đưa kháng nguyên của mầm bệnh vào cơ thể nhằm tạo miễn dịch chủ động cho động vật. Năm 1876, Jenner (1749 -1823) lấy vẩy đậu của bò cái chủng cho người thì gây bệnh rất nhẹ cho người. Sau đó, lấy mụn đậu của người cho tiếp xúc với người đã được chủng virut đậu bò thì người này không mắc bệnh đậu mùa của người nữa. Từ đó, ở châu Âu người ta đã sử dụng rộng rãi phương pháp dùng virut đậu bò để phòng bệnh đậu mùa cho người (gọi là chủng đậu - variollation; hoặc chủng vacxin - vaccination). Hiện tượng người và động vật không mắc các bệnh sau khi mắc và khỏi bệnh hoặc sau khi được tiêm chủng gọi là hiện tượng miễn dịch. Nhiều công trình nghiên cứu của Pasteur sau này về các chế phẩm sinh học phòng một số bệnh truyền nhiễm (tụ huyết trùng gà, đóng dấu lợn, nhiệt thán, dại) đã giúp ông khẳng định có thể tạo miễn dịch nhân tạo cho người và động vật để phòng bệnh truyền nhiễm và đã thúc đẩy những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực đó. Pasteur đã đề nghị gọi các chất dùng tiêm chủng tạo miễn dịch là vacxin (tiếng Pháp là vaccine, do từ bò cái tiếng Latin là vacca) và phương pháp tiêm chủng gọi là tiêm chủng bằng vacxin (vaccination) để nhớ công Jenner. Từ Jenner đến Pasteur và các nhà bác học sau hai ông, những công trình nghiên cứu nối tiếp về vacxin và huyết thanh phòng bệnh đã góp phần to lớn làm giảm dần tai họa khủng khiếp của dịch bệnh ở người và gia súc, thanh toán được bệnh đậu mùa và tiến đến thanh toán một số bệnh dịch nguy hiểm khác (dịch tả trâu bò, dịch tả lợn,...). Yêu cầu về vacxin phòng bệnh ngày càng tăng do nhiều loại đã đáp ứng yêu cầu của thực tế: gây miễn dịch tốt, an toàn đối với cơ thể được tiêm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bệnh việc tìm kiếm một vacxin hữu hiệu còn là thách thức lớn đối với nhân loại (vacxin tụ huyết trùng gia cầm, chẳng hạn). Ở nước ta hàng năm chế tạo và cung cấp một số lượng lớn các loại vacxin và kháng huyết thanh. Nhiều loại có hiệu lực miễn dịch chắc chắn, thời gian miễn dịch tương đối dài. Có loại vacxin đã được cải tiến, có loại mới đang được nghiên cứu chế tạo cho phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Đó là điều kiện thuận lợi giúp chúng ta thực hiện "tiêm phòng rộng rãi" để tạo miễn dịch tập đoàn hữu hiệu, góp phần vào kế hoạch khống chế và tiêu diệt các bệnh truyền nhiễm. Tiêm phòng bằng kháng huyết thanh: Kháng huyết thanh dùng để chữa bệnh và phòng bệnh. Tiêm phòng bằng kháng huyết thanh là để tạo miễn dịch thụ động cho động vật. Kháng huyết thanh được chế từ các gia súc lớn (ngựa, bò) hoặc lợn, bằng cách dùng vacxin vi sinh vật mầm bệnh gây tối miễn dịch cho chúng (tiêm chủng một số lần liên tiếp cách nhau một vài tuần với liều tăng dần) rồi lấy máu chắt huyết thanh. Kháng huyết thanh có thể là đơn giá khi chỉ dùng một loại vi sinh vật mầm bệnh làm vacxin để gây tối miễn dịch, hoặc có thể là đa giá khi dùng nhiều loại vi sinh vật hoặc nhiều typ của một loại vi sinh vật làm vacxin. Kháng huyết thanh có thể là huyết thanh kháng vi khuẩn hay kháng virut (kháng huyết thanh dịch tả lợn, tụ huyết trùng lợn) và cũng có thể là huyết thanh kháng độc tố (kháng độc tố uốn ván). Sau khi tiêm kháng huyết thanh vài giờ thì cơ thể có miễn dịch. Vì vậy, chỉ dùng khi cần phải phòng bệnh khẩn cấp (như tiêm cho động vật trong ổ dịch nhưng chưa phát bệnh hoặc ở vùng có nguy cơ bị dịch uy hiếp), hay tiêm phòng cho động vật cần xuất cảng ngay hoặc phải đưa đi triển lãm, hội chợ ngay. Thời gian miễn dịch do tiêm kháng huyết thanh rất ngắn (1 - 3 tuần) vì vậy, sau khi tiêm huyết thanh 10 ngày cần phải tiêm vacxin để tạo miễn dịch chủ động, lâu dài. Liều lượng huyết thanh tiêm phòng bằng nửa liều chữa bệnh mỗi lần. Tiêm dưới da. Nói chung không nên tiêm huyết thanh và vacxin tương ứng cùng một lúc, vào một chỗ trên cơ thể. Chỉ tiêm vacxin từ 8 -10 ngày sau khi tiêm huyết thanh. Khi dùng huyết thanh cũng như dùng vacxin cần phải đảm bảo vô trùng, phải kiểm tra phẩm chất huyết thanh trước khi dùng và đề phòng các phản ứng có thể xảy ra. Huyết thanh cần được bảo quản ở nơi râm mát và tối. Khi có dịch biện pháp đối với động vật thụ cảm phải khẩn trương, huy động mọi nguồn lực của xã hội vào công tác ngăn chặn lan truyền cảm nhiễm, khống chế dịch. Cần kiểm kê nhanh để nắm được số đầu gia súc, gia cầm trong ổ dịch. Qua đó tiến hành phân loại sức khỏe, nhất là của những động vật mẫn cảm (gia súc, gia cầm dễ mắc bệnh), nhờ đó mà phát hiện được con bệnh hoặc con nghi lây nhiễm. Đàn gia súc phải được quản lý chắc chắn để tránh tình trạng lạm sát hoặc bán chạy góp phần làm lây lan mầm bệnh. Trong khi kiểm kê tránh tập trung đàn gia súc để tránh lây lan. Biện pháp thứ hai là phải tiêm chống dịch trong ổ dịch và các vùng xung quanh. Xung quanh ổ dịch là khu vực bị uy hiếp (khu vực nguy cơ dịch, vành đai nguy cơ dịch). Ngoài khu vực nguy cơ dịch là khu vực an toàn, mầm bệnh khó có điều kiện lây lan tới trong thời gian trước mắt. Ở cả ba khu vực đó đều cần tiêm vacxin (hoặc kháng huyết thanh trước rồi tiêm vacxin sau một số ngày) cho gia súc còn khỏe để tạo ngay một vành đai miễn dịch ngăn chặn dịch lây lan. Biện pháp tiêm vacxin trong các khu vực này, nhất là đối với các vacxin virut nhược độc, vừa giúp phát hiện nhanh động vật nung bệnh vừa có tác dụng dập tắt dịch trong thời gian ngắn. Đối với những con vật nghi nung bệnh ở trong ổ dịch có thể tiêm kháng huyết thanh cùng một lúc với vacxin để tạo miễn dịch nhanh chóng nhưng phải tiêm ở hai nơi khác nhau trên cơ thể và chỉ ứng dụng đối với vacxin chết (pha chất bổ trợ). Đối với động vật khác loài nhưng mẫn cảm với bệnh cũng cần tiêm vacxin. Bên cạnh đó cần phải thực hiện các biện pháp điều trị bệnh tích cực bằng những chất kháng sinh thích hợp và các biện pháp khác có tác dụng điều trị cũng như thực hiện các biện pháp ngăn chặn dịch lây lan như giết hủy hay giết mổ bắt buộc, thực hiện kiểm dịch, tuân thủ các biện pháp vệ sinh thú y và thực hiện tiêu độc ngăn mầm bệnh phát tán sang khu vực chung quanh ổ dịch. 4.2. Vacxin và tiêm vacxin phòng bệnh truyền nhiễm a. Các loại vacxin Vacxin là chế phẩm sinh học được chế từ vi sinh vật đã bị giết chết (vacxin chết, vacxin vô hoạt) hoặc bị giảm độc (vacxin nhược độc). - Vacxin nhược độc là chế phẩm sinh học từ vi khuẩn hoặc virut đã được làm yếu đi đến mức không nguy hiểm cho cơ thể nhưng vẫn gây miễn dịch tốt, hoặc là từ những chủng vi sinh vật vốn có tính gây bệnh thấp đối với động vật được tuyển chọn từ tự nhiên. Người ta có thể làm giảm độc vi khuẩn hoặc virut bằng nhiều cách nuôi cấy trong điều kiện bất lợi (nuôi vi khuẩn nhiệt thán ở nhiệt độ 42 °C hoặc trong môi trường CO2, nuôi vi khuẩn lao trong môi trường có mật bò), có thể làm khô (vacxin dại Pasteur), để cho vi khuẩn già đi (vacxin tụ huyết trùng của Pasteur), tiếp đời liên tục qua một loại động vật không cảm thụ tự nhiên (vacxin nhược độc dịch tả trâu bò qua thỏ hoặc qua lợn, vacxin nhược độc dịch tả lợn qua thỏ hoặc qua bê), tiếp đời qua thai trứng (vacxin Newcastle, vacxin dịch tả vịt, vacxin đậu gà). Một số vacxin được chế từ các chủng mầm bệnh nhược độc tự nhiên (vacxin Newcastle V4 chịu nhiệt, vacxin bệnh Marek). - Vacxin vô hoạt là chế phẩm sinh học từ vi khuẩn, virut mầm bệnh đã bị giết chết bằng các tác nhân vật lý như tia cực tím, các chất hóa học như axit phenic, formol, crystal violet,... (Vacxin ung khí thán cũng như các vacxin tụ huyết trùng trâu bò, tụ huyết trùng lợn,... thường dùng trước đây là những vacxin vô hoạt bằng formol pha chất bổ trợ là keo phèn). - Giải độc tố (toxoid): độc tố của vi khuẩn đã được giải độc bằng một số hóa chất nhất định (thường là formol hoặc phenol). Giải độc tố uốn ván, chẳng hạn, là chế phẩm sinh học hữu hiệu và an toàn đối với người và động vật. Giải độc tố mất độc tính nhưng còn tính sinh miễn dịch. Khác với vacxin gây miễn dịch các bệnh do vi khuẩn, giải độc tố chỉ gây miễn dịch với độc tố của vi khuẩn. Các loại vacxin vô hoạt và giải độc tố thường an toàn và ít gây phản ứng phụ. Tuy nhiên, cần phải dùng với liều tiêm khá lớn do trong vacxin phải có chất bổ trợ để duy trì kháng nguyên kéo dài trong cơ thể nên việc sử dụng gặp nhiều phiền toái và chất bổ trợ cũng có thể gây kích thích dẫn đến những phản ứng phụ bất lợi. Sau khi tiêm trung bình từ 2 - 3 tuần lễ thì cơ thể mới có miễn dịch. Độ dài miễn dịch thường ngắn (3 - 6 tháng) vì vậy có loại phải tiêm nhiều lần trong năm. - Vacxin hóa học hấp thụ (vacxin kháng nguyên) là vacxin được chế bằng cách dùng kháng nguyên chiết xuất từ vi khuẩn ra (vi khuẩn đã loại hết tạp chất) rồi cho hấp phụ trên hóa chất như allumini phosphat, calci phosphat. Loại vacxin này chủ yếu để gây miễn dịch với nhiều bệnh trong cùng một thời gian nhất định. - Các vacxin nhược độc được chế từ vi khuẩn và virut có độc lực thấp, gây miễn dịch tốt hơn vacxin vô hoạt. Vacxin virut nhược độc thường gây miễn dịch sớm (3 - 4 ngày sau khi tiêm, do hiện tượng cản nhiễm hay can thiệp cảm nhiễm), thời gian miễn dịch tương đối dài. Nhưng những loại vacxin này khi dùng dễ gây phản ứng, đòi hỏi nhiệt độ bảo quản thấp, có thể lây bệnh không điển hình hoặc làm trỗi dậy các bệnh khác sau khi tiêm. - Vacxin tái tổ hợp là những vacxin được chế bằng cách tách gen chịu trách nhiệm mã hóa kháng nguyên thiết yếu nào đó rồi đưa di nạp vào cơ thể khác dễ nuôi cấy, chế tạo, bảo quản và cũng ít độc hơn (virut vacxin đậu, trực khuẩn đại tràng, tằm hoặc thậm chí thực vật cho rau và quả,...) để sản xuất đồng loạt sinh vật biểu hiện tính trạng mới là sản sinh kháng nguyên do gen của mầm bệnh ngoại lai chi phối. Những thí nghiệm qua đường miệng (nhữ mồi thịt cho cáo, chồn,...) về ứng dụng vacxin virut dại tái tổ hợp trong virut vaccinia (vacxin đậu mùa) để khống chế bệnh dại ở châu Âu đã cho kết quả rất khích lệ: làm giảm số trường hợp động vật nông nghiệp bị dại quanh vùng thử nghiệm. Ngoài các loại vacxin trên, còn có loại vacxin cường độc (hiện nay không còn dùng nữa) chế từ vi khuẩn hay virut độc lực cao, gây miễn dịch mạnh nhưng dùng nguy hiểm vì có thể gây bệnh và phát dịch. Vật được tiêm sẽ chứa và gieo rắc mầm bệnh sống ra môi trường. b. Nguyên tắc chung dùng vacxin Đối tượng tiêm vacxin: Dùng vacxin chủ yếu là phòng bệnh. Sau khi tiêm vacxin một thời gian nhất định động vật mới có miễn dịch. Cần chú ý các trường hợp sau. Ở nơi có ổ dịch cũ, do nhiều bệnh truyền nhiễm phát sinh theo mùa nên hàng năm cần phải tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm trước mùa phát bệnh. Ở nơi bệnh đang phát thì đối với động vật đã mắc bệnh cấm không được tiêm vacxin ngay mà phải dùng kháng huyết thanh hoặc kháng sinh thích hợp điều trị. Đối với động vật còn khỏe nhưng dễ bị lây nhiễm (do tiếp xúc với con bệnh) có thể tiêm kháng huyết thanh cùng một lúc với vacxin (nhưng ở vị trí khác nhau trên cơ thể). Đối với động vật khỏe mạnh hoặc ở động vật khu vực xung quanh ổ dịch thì tiêm ngay vacxin để tạo vành đai miễn dịch. Đối với động vật khác loài nhưng có cảm thụ với bệnh cũng có thể cần tiêm vacxin phòng bệnh đó. Động vật được tiêm nói chung phải khỏe mạnh. Không tiêm vacxin cho những con đang nung bệnh, những con quá gầy yếu, quá non, con mẹ mới đẻ, những con mới thiến chưa lành vết thiến, những con có nhiều ký sinh trùng. Cũng không nên tiêm vacxin virut nhược độc cho động vật cái đang có chửa ở thời kỳ thai sớm (1/3 kỳ thai đầu tiên). Súc vật sau khi tiêm cần được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, trâu bò cày kéo cần được nghỉ ngơi. Phải tiêm phòng liên tục (tiêm nhắc lại) do sau một thời gian kháng thể được tạo ra bởi sự cảm ứng của vacxin thường suy giảm đến mức hết hiệu lực và phải tiêm đạt tỷ lệ cao cho động vật thuộc diện phải tiêm để tạo miễn dịch tập đoàn bền vững. Chỗ tiêm phải sát trùng, dụng cụ tiêm phải tiêu độc. Liều lượng tiêm phải đúng theo sự chỉ dẫn của nơi chế tạo. Đường tiêm vacxin: vacxin thường được tiêm dưới da, nhất là các loại có chất bổ trợ, và tiêm với liều lượng lớn (vacxin formol keo phèn tụ huyết trùng, lợn đóng dấu,...). Có loại phải tiêm đúng dưới da để tránh phản ứng (vacxin nhược độc nhiệt thán). Các vacxin nhược độc (dịch tả trâu bò, dịch tả lợn qua thỏ) tiêm liều lượng nhỏ thì có thể tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Một số vacxin có thể dùng cho uống, nhỏ mắt, nhỏ mũi, chủng vào dưới da, xát vào da, bơm vào không khí cho gia cầm hít (khí dung). Không tiêm vacxin vào mạch máu. Bảo quản vacxin: Vacxin phải được bảo quản tốt, ở trạng thái chuẩn bị tiêm cần để ở chỗ tối, râm mát, nhiệt độ bảo quản thích hợp (20 - 25 °C). Vacxin nhược độc chế từ virut trong quá trình tích trữ và vận chuyển phải bảo quản ở nhiệt độ thấp (-15 °C), nhưng nếu ở trạng thái đông khô thì chỉ được bảo quản lạnh (1 - 4 °C). Trước khi dùng phải kiểm tra phẩm chất thuốc, phải hủy bỏ vacxin quá hạn dùng, vacxin mất phẩm chất. Khi dùng các loại vacxin nhược độc, nhất là các loại có nha bào tránh làm vương vãi vacxin. c. Phản ứng sau khi tiêm vacxin Súc vật có thể bị phản ứng do chất phụ trong vacxin, do tiêm vào cơ thể đang nung bệnh, tiêm sâu vào bắp thịt. Tiêm vacxin còn có thể làm tái phát các quá trình bệnh lý sẵn có trong cơ thể (bệnh lao), do làm những mầm bệnh có sẵn trong cơ thể trỗi dậy gây bệnh (tụ huyết trùng) gây ra những bệnh theo cơ chế dị ứng (viêm thận, viêm não). Tính phản ứng của động vật quá mạnh cũng gây nên phản ứng khi tiêm. Cần biết rõ nguyên nhân gây phản ứng để đề phòng hoặc can thiệp khi xảy ra. d. Kế hoạch tiêm phòng vacxin Kế hoạch tiêm phòng được đề ra từ nhiệm vụ chính trị và kinh tế của địa phương, dựa vào kế hoạch phát triển chăn nuôi, tình hình dịch bệnh, đặc điểm về địa hình địa lý, phong tục tập quán của địa phương. Ngoài ra, còn phải dựa vào trình độ tổ chức lãnh đạo, lực lượng cán bộ, dụng cụ phương tiện của địa phương và khả năng thuốc tiêm phòng có thể cung cấp cho địa phương. Kế hoạch tiêm phòng phải định rõ: - Các bệnh cần tiêm phòng: Phải dựa vào kế hoạch của Nhà nước kết hợp với tình hình dịch bệnh của địa phương và các vùng lân cận mà quyết định các bệnh cần tiêm phòng. - Các vùng cần tiêm phòng: Phải dựa vào đặc điểm địa phương kết hợp với tính chất của bệnh mà quyết định vùng tiêm phòng cụ thể cho từng loại bệnh. Nói chung, cần phải tiêm ở những vùng có ổ dịch cũ, những vùng hàng năm bị dịch đe dọa, những vùng ở hai bên đường giao thông trọng yếu, quanh các chợ, các xí nghiệp chế biến thú sản, vùng biên giới,... Các trại chăn nuôi tập trung phải được tiêm phòng triệt để. - Tỷ lệ tiêm phòng: Tùy theo tính chất của từng bệnh, mức độ uy hiếp của bệnh đó, tùy theo vùng, tùy loại động vật nuôi, tùy theo phương hướng và nhiệm vụ phát triển loại động vật nuôi mà quyết định cụ thể tỷ lệ tiêm phòng. Nói chung phải đạt tỷ lệ thấp nhất là 80%. Ở các vùng bị dịch uy hiếp phải đạt tỷ lệ từ 90 - 95%. - Lịch tiêm phòng: Lịch tiêm phòng được xây dựng dựa vào mùa phát bệnh của từng bệnh (tiêm phòng nhiệt thán trước mùa mưa ở vùng đồng bằng và trước mùa hanh khô ở miền núi) và thời gian cho miễn dịch của vacxin (ví dụ, vacxin dịch tả lợn cho miễn dịch một năm, nên chỉ cần tiêm mỗi năm một lần nhưng phải tiêm thường xuyên, tiêm bổ sung cho những đầu gia súc mới sinh). Có khi phải dựa vào tính chất của vacxin nếu vacxin đòi hỏi phải dùng vào thời tiết thích hợp. Nói chung đối với động vật nông nghiệp, nên tiêm phòng trước mùa phát bệnh độ một tháng, tránh lúc gia súc phải làm việc mệt nhọc hoặc thiếu thức ăn. Ngoài đợt tiêm chính, trong năm cần có những đợt tiêm bổ sung. - Kế hoạch về nguyên liệu, dụng cụ phương tiện dùng cho tiêm phòng: Căn cứ vào số đợt tiêm phòng, diện tiêm, số lượng động vật, loại bệnh tiêm mà dự trù số lượng vacxin hay kháng huyết thanh, hóa chất, dụng cụ,... - Kế hoạch cán bộ: Phải có kế hoạch về số người phục vụ tiêm phòng, phụ chế thuốc, theo dõi động vật sau khi tiêm. e. Tổ chức tiêm phòng Công tác tiêm phòng cần làm nhanh, gọn trong một thời gian nhất định để tạo miễn dịch cùng một lúc cho đàn gia súc, gia cầm (tạo miễn dịch quần thể). Đồng thời phải dựa vào các đợt tiêm phòng để bồi dưỡng, củng cố lực lượng cán bộ chuyên môn và tăng cường cơ sở vật chất cho địa phương. Phải kết hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân. Muốn đạt được những mục tiêu nêu trên cần chú ý các điểm sau đây: - Chuẩn bị tốt: Phải có kế hoạch cụ thể, kế hoạch phải được thông qua cấp ủy và chính quyền địa phương để biến thành kế hoạch của chính quyền địa phương. Kế hoạch đó phải được phổ biến rộng rãi, tuyên truyền mục đích tiêm, vận động quần chúng hưởng ứng và giúp đỡ khi tiêm phòng. Phải chuẩn bị tốt về tư tưởng, kỹ thuật và phương pháp công tác. - Tổ chức tốt: Phải có sự phân công nhiệm vụ, giao trách nhiệm cho cá nhân và nhóm cụ thể, chỉ đạo và theo dõi tốt việc thực hiện kế hoạch. Phải nắm tình hình chuẩn bị, theo dõi khi đang tiêm, sau khi tiêm, giải quyết các khó khăn, bồi dưỡng nghiệp vụ, cung ứng thêm vacxin khi cần. Phải có kế hoạch sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về tổ chức và kỹ thuật. - Tiến hành tốt: Những người tham gia đợt tiêm phòng phải có tinh thần trách nhiệm cao, tôn trọng và thực hiện đứng kỹ thuật tiêm phòng, tích cực vận động quần chúng,... bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch tiêm phòng đã đề ra. Tiêm phòng là biện pháp quan trọng để tạo miễn dịch cho động vật. Nhưng chỉ có tiêm phòng thì chưa đủ, mà còn phải thực hiện tốt vệ sinh phòng bệnh. Vì vậy, ngoài biện pháp tích cực tiêm phòng, chúng ta không được quên biện pháp phòng bệnh chủ yếu là vệ sinh thú y, trong đó quần chúng rộng rãi tích cực hưởng ứng thực hiện. Điều kiện xã hội ta cho phép thực hiện biện pháp đó và chỉ thực hiện tốt biện pháp đó mới xây dựng được cơ sở vững chắc cho nhiệm vụ khống chế và thanh toán dịch ở nước ta. 5. Quản lý tình hình dịch bệnh động vật 5.1. Kiểm dịch Kiểm dịch là thực hiện những biện pháp kỹ thuật và hành chính đối với gia súc, gia cầm, các loại động vật khác và sản phẩm động vật khi xuất nhập khẩu hoặc vận chuyển chúng trong nước nhằm ngăn ngừa bệnh lây lan và đảm bảo an toàn cho người. Trong tình hình động vật còn có thể xâm nhập từ nước ngoài vào nước ta và ngược lại, việc trao đổi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác giữa nước ta với nhiều nước khác ngày càng được tăng cường, công tác kiểm dịch ngày càng phải được thực hiện chặt chẽ. Công tác kiểm dịch gồm kiểm dịch đối ngoại (kiểm dịch xuất nhập khẩu) và kiểm dịch nội địa. Kiểm dịch xuất nhập khẩu: nhằm ngăn chặn dịch từ nước ngoài vào hoặc từ trong nước ra, thực hiện ở các cửa khẩu, hải cảng, sân bay đối với tất cả các loại động vật, thú sản (da, lông, sừng, xương,...). Chỉ được nhập những gia súc, gia cầm, thú sản chưa chế biến có giấy chứng nhận kiểm dịch của nước xuất hàng và đã được cơ quan kiểm dịch của ta kiểm tra xác định không mắc bệnh hoặc ô nhiễm mầm bệnh truyền nhiễm. Khi cần thiết phải khẩn trương dùng mọi phương pháp để xác định bệnh. Khi xác định có bệnh truyền nhiễm thì các động vật hoặc thú sản đều không được nhập, phải hủy bỏ tại chỗ hoặc trả lại nước xuất. Nếu đã cho lên bờ thì phải xử lý tùy theo từng loại bệnh, nhưng phải bao vây cách ly nghiêm ngặt tại chỗ. Có khi cấm nhập những động vật và thú sản từ những nước đang có dịch bệnh nguy hiểm. Những động vật và thú sản xuất khẩu cũng phải được kiểm dịch và có giấy chứng nhận của cơ quan kiểm dịch. Cán bộ kiểm dịch phải xem xét giấy tờ cần thiết, kiểm tra tình hình gia súc, gia cầm và động vật khác cũng như tình trạng vệ sinh an toàn của mẫu lấy ngẫu nhiên từ sản phẩm động vật, khi xuất hoặc khi nhập, phải ngăn nhập động vật khi có dịch hoặc có triệu chứng nghi dịch và các động vật tuy đã được tiêm phòng nhưng chưa đủ thời gian miễn dịch, các sản phẩm động vật có dấu hiệu ô nhiễm mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, và phải ngăn xuất động vật và sản phẩm động vật không đúng tiêu chuẩn quy định. Kiểm dịch nội địa: chủ yếu đối với gia súc, gia cầm vận chuyển thành đàn hoặc chuyến (xe, tàu,...) từ tỉnh này sang tỉnh khác ở trong nước. Cán bộ kiểm dịch phải xem xét giấy tờ cần thiết, trước hết là giấy kiểm dịch gốc của cơ quan thú y nơi động vật đã xuất phát, chứng nhận động vật xuất xứ từ vùng an toàn dịch, đã được tiêm phòng, phải không cho vận chuyển động vật mắc bệnh truyền nhiễm. Khi đã phát hiện có dịch thì cán bộ kiểm dịch phải đình chỉ ngay việc vận chuyển, giữ lại ở bãi nhà ga, bến tàu gần nhất hoặc bãi chăn thả của trạm kiểm dịch và thực hiện ngay các biện pháp phòng chống dịch. Trong khi vận chuyển phải đi theo đúng tuyến đường quy định, tiến hành ở những ga, bến nhất định, không cho tiếp xúc với động vật ở các vùng phải đi qua, không mua thêm, không bán bớt, không được mổ thịt động vật vận chuyển khi không có ý kiến đồng ý bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về thú y (Chi cục thú y) của địa phương quản lý trạm kiểm dịch. Các phương tiện phải được kiểm tra về mặt vệ sinh, phải kín để không làm rơi vãi phân, nước tiểu dọc đường. Vận chuyển xong phải tiêu độc các phương tiện vận chuyển. 5.2. Kiểm tra vệ sinh thú y Biện pháp kiểm tra vệ sinh thú y phải được thực hiện trong chăn nuôi, cách ly, vận chuyển, giết mổ, sơ chế, bảo quản, lưu thông và tiêu thụ động vật và sản phẩm động vật tươi sống chỉ đối với các đối tượng có trong Danh mục đối tượng thuộc diện phải kiểm tra vệ sinh thú y do Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản ban hành, do chỉ những người có thẻ kiểm dịch viên thú y thực hiện, theo đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục nhất định. Nội dung kiểm tra vệ sinh thú y là kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh thú y do Bộ Khoa học và công nghệ ban hành đối với các đối tượng kiểm tra vệ sinh thú y khác nhau do Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản ban hành. Mọi tổ chức và cá nhân sản xuất, kinh doanh động vật, sản phẩm động vật, sản phẩm động vật phải chấp hành các quy định về kiểm tra vệ sinh thú y. Thực hiện những biện pháp này không những nhằm để phòng dịch bệnh động vật mà còn góp phần tích cực vào việc bảo vệ sức khỏe cho con người. Biện pháp này được thực hiện chủ yếu ở những nơi tập trung động vật như trại chăn nuôi tập trung, chợ, trạm thu mua, nơi triển lãm động vật, lò giết mổ, lò thuộc da và các nơi chế biến thú sản. Ở những nơi này gia súc gia cầm, thú sản thường xuyên được đưa đến rồi đưa đi chính là điều kiện làm dịch lây lan nếu không thực hiện tốt kiểm soát vệ sinh thú y. Trâu bò đưa đến chợ phải được xem xét giấy tờ và kiểm tra sức khỏe. Cán bộ kiểm soát vệ sinh thú y khi phát hiện có dịch hay nghi có dịch thì không cho gia súc, gia cầm vào chợ, phải cách ly ngay. Ở các cơ sở chế biến thú sản, phải kiểm soát nguồn thu mua, phương pháp bảo quản nguyên liệu và cách tiêu thụ sản phẩm. Ở lò giết mổ phải khám sống động vật trước khi mổ và khám ngay sản phẩm sau khi mổ xong. Thịt tươi, sữa tươi và các sản phẩm động vật khác chưa chế biến hoặc đã chế biến đưa bán ra thị trường cũng phải được kiểm soát. 5.3. Xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật Vùng an toàn dịch là một địa bàn rộng hay hẹp mà ở đó yêu cầu không để xảy ra một hay nhiều bệnh truyền nhiễm của gia súc, gia cầm; là nơi đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh thú y do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành đối với vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật và thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh bắt buộc, kiểm dịch động vật, kiểm tra điều kiện vệ sinh thú y đối với các cơ sở chăn nuôi, sản xuất con giống, cơ sở giết mổ, sơ chế động vật và sản phẩm động vật. Xây dựng vùng và cơ sở an toàn dịch là cơ sở để tiến tới thanh toán dịch trong cả nước. Các tổ chức, cá nhân chăn nuôi động vật phải đăng ký xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật, mọi người có hoạt động chăn nuôi và hoạt động liên quan vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật phải chấp hành các quy định của pháp luật về thú y đối với đối tượng này. Để xây dựng vùng an toàn dịch, các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, tiêm phòng, kiểm dịch, kiểm tra vệ sinh thú y, quy trình chăn nuôi đều phải thực hiện ở mức độ cao, trên cơ sở làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục ý thức vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân, xây dựng các biện pháp kỹ thuật thành chế độ, thành tiêu chuẩn kỹ thuật, thành kết ước. Các biện pháp pháp chế chỉ có thể thực hiện một cách triệt để khi đã biến thành một phong trào quần chúng rộng rãi và kèm theo những cơ sở vật chất kỹ thuật về chăn nuôi thú y. Việc xây dựng khu an toàn dịch có thể tiến hành theo các bước sau: -Điều tra nắm tình hình mọi mặt ở vùng đó như tư tưởng nhận thức, phong tục tập quán, tình hình lãnh đạo, phong trào chăn nuôi, tình hình dịch bệnh,... -Qua điều tra dự kiến kế hoạch nên giải quyết những bệnh dịch nào, trong thời gian bao lâu bằng những biện pháp gì. Dự kiến đó cần được thông qua lãnh đạo địa phương và thành lập ban chỉ đạo công tác. -Tổ chức học tập trong cán bộ và nhân dân về ý nghĩa của phòng chống dịch bệnh có liên hệ kiểm dịch và nhận thức về việc làm, nêu các biện pháp kỹ thuật, chế độ, nội quy để mọi người cùng bàn bạc. -Phát động phong trào quần chúng thực hiện các biện pháp đã đề ra. Trong công tác này, phải gây được phong trào quần chúng rộng rãi, có kế hoạch sơ kết từng kỳ, có khen thưởng kịp thời. Phải đôn đốc kiểm tra thường xuyên, phát hiện điển hình tốt, xây dựng bồi dưỡng và phát huy những điển hình đó làm hạt nhân cho phong trào, sau đó thông qua phong trào bồi dưỡng và nâng cao ý thức vệ sinh phòng trừ dịch bệnh, nâng cao sự hiểu biết khoa học cho quần chúng, đồng thời bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ chuyên môn, xây dựng và củng cố cơ sở vật chất cho địa phương. 5.4. Xây dựng mạng lưới thú y Mọi biện pháp phòng và chống dịch bệnh động vật chỉ có thể thực hiện một cách triệt để khi có một hệ thống cán bộ thú y và một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tới cơ sở. Điều 3 Nghị định 33/2005/NĐ-CP ngày 15/3/2005 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều Pháp lệnh thú y 2004 quy định hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về chuyên ngành thú y từ trung ương đến địa phương. Quy định mới này có nhiều thay đổi so với Nghị định 93/CP ngày 27/11/1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thú y 1993. Ở trung ương Cục thú y là cơ quan quản lý nhà nước về thú y thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT và Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản là cơ quan quản lý nhà nước về thú y thuộc Bộ Thủy sản. Cục Thú y có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thú y động vật trên cạn trong phạm vi cả nước. Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Thủy sản thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thú y đối với động vật dưới nước và lưỡng cư trong phạm vi cả nước. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của hai cục trên do hai bộ tương ứng quy định. Hiện tại, thuộc Cục Thú y có các trung tâm thú y vùng và các trạm kiểm dịch động vật cửa khẩu thuộc Cục thú y. Các Trung tâm thú y vùng là các cơ quan trực thuộc Cục thú y quản lý công tác thú y trong khu vực được phân công, thực hiện chẩn đoán, phòng chống dịch, kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật xuất khẩu, nhập khẩu và giúp Cục thú y kiểm tra đôn đốc về công tác thú y tại địa bàn được phân công. Các trạm kiểm dịch động vật cửa khẩu thực hiện công tác kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật xuất nhập khẩu. Ở địa phương, các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương có hai cơ quan quản lý nhà nước về thú y cấp tỉnh là Chi cục thú y tỉnh/thành (thuộc sở Nông nghiệp và PTNT, đối với thú y động vật trên cạn) và Chi cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản (thuộc sở Thủy sản, đối với thú y thủy sản và lưỡng cư) giúp UBND tỉnh/thành quản lý nhà nước về thú y ở cấp tỉnh và có nhiệm vụ chẩn đoán, phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm soát giết mổ động vật và kiểm tra vệ sinh thú y thực phẩm có nguồn gốc động vật lưu thông tiêu dùng trong nước, quản lý thuốc thú y. Hiện tại, thuộc Chi cục thú y ở các đầu mối giao thông có các trạm kiểm dịch động vật và các Trạm thú y cấp huyện. Các trạm kiểm dịch động vật có nhiệm vụ kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật lưu thông, vận chuyển trong nước. Trạm kiểm dịch động vật cửa khẩu thuộc Chi cục thú y làm nhiệm vụ kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật lưu thông trao đổi giữa hai tỉnh biên giới của Việt Nam và của nước giáp Việt Nam. Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có cơ quan quản lý nhà nước về thú y cấp huyện (Trạm thú y) thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thú y (đối với động vật trên cạn) theo phân công của Chi cục thú y và có trách nhiệm giúp UBND huyện và cấp tương đương về công tác thú y trong phạm vi quản lý của mình. Ở xã, phường và thị trấn (cấp xã) có nhân viên thú y được nhận phụ cấp công tác theo quy định của UBND cấp tỉnh lấy từ ngân sách của địa phương. Các cơ sở chăn nuôi tập trung phải có cán bộ chuyên môn về thú y để thực hiện công tác thú y của cơ sở và chịu sự hướng dẫn về chuyên môn của cơ quan quản lý nhà nước về thú y có thẩm quyền. 5.5. Điều tra tình hình dịch bệnh Người cán bộ thú y làm công tác phòng dịch trong một vùng tương đối rộng (một huyện hay một tỉnh) cần phải thường xuyên nắm được tình hình dịch bệnh ở vùng đó để có cơ sở đề ra các biện pháp phòng dịch cụ thể. Phải nắm được vùng nào hay xảy ra dịch gì, xảy ra vào mùa nào, tính chất dịch ra sao, tình hình gia súc, gia cầm bệnh và chết, điều kiện chăn nuôi, công tác vệ sinh phòng bệnh, biện pháp tiêm phòng và các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc phát sinh dịch. Để quản lý tốt tình hình dịch, phải điều tra dịch tễ ở trong vùng bằng cách thăm hỏi, dựa vào triệu chứng, bệnh tích và thu thập bệnh phẩm và thực hiện các phương pháp chẩn đoán xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Qua điều tra dịch tễ học, có thể xác định quy luật dịch, nhờ đó mà xây dựng bản đồ dịch tễ của vùng, giúp việc chỉ đạo phòng dịch được thực hiện một cách chủ động và có hiệu quả. Công tác điều tra và quản lý dịch phải dựa vào một mạng lưới cán bộ thú y có tổ chức tốt, hoạt động chặt chẽ và một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật thích đáng thì mới có thể thực hiện được. 6. Vấn đề thanh toán bệnh truyền nhiễm Việc thanh toán bệnh truyền nhiễm nào đó ở một khu vực địa lý nhất định có thể thành công khi bài khử hết nguồn bệnh trong khu vực đồng thời cắt đứt hoàn toàn các con đường truyền lây mầm bệnh vào khu vực đó. Nếu bệnh truyền nhiễm lây lan nhờ vector truyền lây thì có thể thành công nếu thanh toán được vector truyền lây. Việc thanh toán các bệnh truyền nhiễm trên lãnh thổ rộng có thể lập kế hoạch và thực thi bởi một tổ chức quốc gia hoặc đa quốc gia. Tuy nhiên các chương trình thanh toán (eradication program) bệnh truyền nhiễm muốn thành công thường phải hội đủ một số điều kiện nhất định. Dưới đây là những điều kiện chủ yếu để đưa ra sách lược của kế hoạch thanh toán đối với bệnh truyền nhiễm. 1) Đề ra những đối sách hữu hiệu trên cơ sở nắm vững các đặc điểm dịch học của bệnh. Ví dụ, với trường hợp của kế hoạch toàn cầu thanh toán bệnh đậu mùa thành công ở người thì bắt đầu từ các điểm quan trọng sau: loài người là động vật duy nhất mẫn cảm, chỉ cần tiêm vacxin đậu mùa (chủng đậu) cũng có hiệu quả phòng bệnh và các khu vực không có hệ thống làm lạnh cũng có thể thực thi chủng đậu. 2) Việc thanh toán có lợi ích hay không đối với vệ sinh động vật cũng như vệ sinh - sức khỏe cộng đồng, lợi ích kinh tế của việc thanh toán bệnh truyền nhiễm có lớn hơn kinh phí cần thiết chi cho việc thanh toán hay không. 3) Có phương pháp chẩn đoán xác thực và thể chế thực thi chẩn đoán xác thực. 4) Pháp chế cưỡng chế hạn chế vận chuyển và cưỡng chế giết hủy hữu hiệu với chế độ bồi thường thích đáng. 5) Sự nhận thức và hợp tác của người chăn nuôi và những người liên quan và việc giáo dục để có được điều đó. II. Luật pháp liên quan phòng dịch 1. Luật thú y quốc tế 1.1. Tóm lược về tổ chức Thú y thế giới Tổ chức Thú y thế giới (OIE: Office Internationale des Enzooties - Văn phòng quốc tế về dịch động vật) là tổ chức liên Chính phủ, được thành lập theo thỏa thuận quốc tế ngày 25/01/1924. Tính đến thời điểm tháng 5/2004 đã có 167 nước thành viên. Tổ chức Thú y thế giới có nhiệm vụ: - Thu thập và truyền đạt thông tin kịp thời để đảm bảo sự rõ ràng về tình hình dịch bệnh động vật và bệnh truyền lây giữa người và động vật trên phạm vi toàn cầu. - Thu thập, phân tích và phổ biến các thông tin khoa học về thú y cho các nước thành viên. - Giúp đỡ chuyên gia và kỹ thuật, thúc đẩy tăng cường sự đoàn kết hợp tác quốc tế trong công tác khống chế thanh toán dịch bệnh động vật. - Đảm bảo an toàn đối với việc buôn bán quốc tế về động vật, sản phẩm động vật theo các quy định của Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh phòng dịch và kiểm dịch động thực vật (SPS) của WTO thông qua việc ban hành kiểm soát thực hiện các quy định, tiêu chuẩn vệ sinh thú y quốc tế. - Tư vấn giúp đỡ nhằm tăng cường khung pháp lý và nguồn lực của ngành thú y các nước thành viên. - Khuyến cáo các hoạt động nhằm tăng cường việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật và chăm sóc sức khỏe động vật dựa trên cơ sở khoa học. 1.2. Luật Thú y quốc tế * Luật Thú y quốc tế do Ủy ban luật pháp và Ủy ban Khoa học kỹ thuật của OIE soạn thảo được thông qua và bổ sung tại cuộc họp chung các nước thành viên hàng năm. Bộ luật bao gồm: - Bộ luật Thú y quốc tế đối với động vật trên cạn (động vật có vú, chim, ong,...). - Bộ luật Thú y quốc tế về thủy sản. - Cẩm nang tiêu chuẩn về chẩn đoán bệnh động vật (trên cạn và dưới nước), về kiểm tra các chế phẩm sinh học, vacxin. * Cấu trúc về Bộ luật đối với động vật trên cạn gồm: - Các chương quy định chung. - Các chương đặc biệt về các bệnh thuộc Bảng A (gồm 15 loại bệnh là: lở mồm long móng, viêm miệng mụn nước, mụn nước ở lợn, dịch tả trâu bò, dịch tả loài nhai lại nhỏ, viêm phổi - màng phổi truyền nhiễm bò, viêm da nổi cục truyền nhiễm, sốt thung lũng Rift, lưỡi xanh, đậu dê cừu, dịch tả ngựa châu Phi, dịch tả lợn châu Phi, dịch tả lợn, cúm gia cầm chủng độc lực cao, Newcastle). - Các bệnh thuộc Bảng B (gồm 66 bệnh, trong đó có nhiệt thán, bệnh dại, bò điên, viêm não Nhật Bản,...). * Cấu trúc Bộ luật Thú y quốc tế về thủy sản gồm: - Các chương về quy định chung. - Các bệnh cá (ví dụ, infectious pancreatic necrosis), thân mềm (ví dụ, bonamiasis) và giáp xác (ví dụ, đốm trắng trên tôm). * Cẩm nang về kỹ thuật chẩn đoán bệnh, kiểm nghiệm vacxin thú y, chế phẩm sinh học bao gồm quy định các phương pháp chẩn đoán xét nghiệm bệnh, kiểm nghiệm vacxin, chế phẩm sinh học, các loại kháng nguyên, kháng thể, kít sử dụng. * Các phụ lục kèm theo Bộ luật Thú y quốc tế bao gồm: - Phụ lục về chăm sóc sức khỏe động vật. - Phụ lục về khoanh vùng. - Phụ lục về vận chuyển, buôn bán động vật và sản phẩm động vật. - Phụ lục về các mẫu giấy chứng nhận thú y quốc tế. 2. Luật pháp về thú y của Nhà nước Việt Nam Trong hơn 50 năm qua, kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 125/SL năm 1950 về phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, Nhà nước ta đã ban hành trên 30 văn bản pháp quy về thú y như Điều lệ phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm năm 1963, Điều lệ kiểm dịch động vật năm 1981,... gần đây là Pháp lệnh Thú y năm 1993 và hiện nay là Pháp lệnh Thú y năm 2004 và Nghị định liên quan. Những văn bản này đã đóng góp tích cực trong công tác thú y, thúc đẩy phát triển chăn nuôi, nâng cao hiệu quả phòng, chống dịch bệnh và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế đối với động vật, sản phẩm động vật. Sau đây là những văn bản pháp luật liên quan đến phòng, chống dịch bệnh: * Sắc lệnh 125/SL ngày 11/7/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm những nội dung sau: - Khi có dịch bệnh truyền nhiễm gia súc phát sinh thì các cấp Ủy ban kháng chiến hành chính, chuyên môn, bộ đội, nhân dân địa phương phải thi hành luật lệ bài trừ. - Người nào không chấp hành có thể bị truy tố trước tòa án và bị phạt tiền. * Nghị định 111/CP ngày 23/7/1963 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ phòng và chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm: - Mục đích: đề phòng và ngăn ngừa các bệnh dịch và bệnh truyền nhiễm lây lan từ nơi này sang nơi khác. - Công tác phòng chống dịch bao gồm: xây dựng chuồng trại theo đúng tiêu chuẩn vệ sinh thú y; thực hiện các biện pháp vệ sinh phòng và chống dịch, bệnh cho gia súc, gia cầm. - Xử lý khi có dịch: gia súc bệnh phải cách ly, những súc vật chết vì bệnh truyền nhiễm phải chôn ở địa điểm riêng. - Khi có bệnh truyền nhiễm như bệnh dại, dịch tả lợn, tụ huyết trùng, nhiệt thán,... xảy ra phải công bố dịch. - Các biện pháp phải thực hiện khi công bố dịch: cấm đưa ra vào vùng có dịch những gia súc, gia cầm dễ nhiễm, cấm người không có phận sự vào nơi có súc vật ốm, đặt trạm gác, cắm biển hiệu vùng có dịch. * Nghị định số 23/HĐBT ngày 10/3/1981 ban hành Điều lệ kiểm dịch động vật: - Kiểm dịch động vật là một trong những công tác của phòng chống dịch bệnh, giúp cho việc kiểm soát ngặn chặn dịch bệnh lây lan trong các loài động vật, lưu chuyển từ vùng này sang vùng khác. - Mục đích: phát hiện đối tượng của kiểm dịch là những bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng của động vật đã có hoặc chưa có ở Việt Nam hoặc thuộc diện kiểm dịch quốc tế. * Nghị định 111/HĐBT ngày 6/2/1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ kiểm soát sát sinh gia súc, gia cầm: - Mục đích: kịp thời phát hiện và ngăn chặn dịch bệnh gia súc, gia cầm lây lan qua khâu giết mổ. - Khi phát hiện gia súc, gia cầm đưa đến lò sát sinh bị nhiễm hoặc nghi bị nhiễm bệnh thì phải áp dụng các biện pháp tích cực và chủ động nhằm ngăn chặn có hiệu quả dịch bệnh lây lan. - Kèm theo các hành vi như: giết mổ và tiêu thụ thịt gia súc, gia cầm không qua kiểm soát của cơ quan thú y; thịt bán ở ngoài thị trường không có dấu kiểm soát sát sinh đóng trên thân thịt có thể bị xử phạt 5 - 10% tang vật. * Pháp lệnh Thú y công bố ngày 15/2/1993, trong đó nội dung công tác phòng chống dịch bệnh bao gồm: - Bảo đảm vệ sinh thú y tại các cơ sở chăn nuôi, chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến sản phẩm động vật. - Phải xây dựng các quy định, tiêu chuẩn vệ sinh thú y đối với cơ sở chăn nuôi, cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. - Thực hiện biện pháp phòng bệnh, chẩn đoán xác định bệnh, khống chế, tiêu diệt dịch bệnh. - Các biện pháp phòng bệnh gồm: tiêm phòng bắt buộc đối với từng loài động vật, khử trùng tiêu độc. - Chẩn đoán xác định bệnh gồm: chẩn đoán định kỳ, chẩn đoán gia súc bệnh, nghi ngờ bệnh. - Khống chế xây dựng và thực hiện các chương trình khống chế, giám sát dịch tễ với các bệnh nguy hiểm như lở mồm long móng, nhiệt thán,... bằng các chương trình dài hạn, ngắn hạn. * Điều lệ phòng chống dịch bệnh động vật ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thú y, trong đó nội dung phòng chống dịch bệnh cho động vật bao gồm: - Quy định về vệ sinh thú y trong chăn nuôi đối với các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn, số lượng nhiều, về môi trường nuôi, chăn thả, chuồng, nơi chứa phân, xử lý độn chuồng,... - Khai báo khi có động vật ốm chết; thức ăn chăn nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y. - Nguồn sản phẩm động vật dùng làm thức ăn chăn nuôi, nước uống. - Quy định khu vực cách ly, vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; vệ sinh, tiêu độc đối với phương tiện, dụng cụ liên quan đến động vật, sản phẩm động vật. * Pháp lệnh Thú y công bố ngày 12/5/2004: - Bảo đảm điều kiện vệ sinh thú y trong chăn nuôi đối với chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, con giống, thức ăn chăn nuôi, nước sử dụng trong chăn nuôi. - Chăm sóc sức khỏe động vật, thực hiện tiêm phòng chữa bệnh hoặc áp dụng các biện pháp phòng bệnh bắt buộc khác cho động vật. - Xây dựng vùng và cơ sở an toàn dịch bệnh động vật, chương trình khống chế, thanh toán bệnh động vật; giám sát dịch bệnh. - Xử lý dịch bệnh động vật; khai báo dịch bệnh, chẩn đoán xác định bệnh, áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh. * Nghị định 33/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Pháp lệnh Thú y 2004 trong đó các Quy định công tác phòng chống dịch bao gồm: - Quy định điều kiện vệ sinh thú y đối với cơ sở chăn nuôi động vật tập trung, hộ gia đình cá nhân. - Quy định vệ sinh thú y đối với thức ăn, nước dùng trong chăn nuôi, bãi chăn thả, chất thải động vật, trong mua bán động vật, sản phẩm động vật. - Xây dựng, quản lý vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật. - Trách nhiệm của chủ vật nuôi, tổ chức, cá nhân chăn nuôi động vật và các cấp quản lý nhà nước trong việc phòng bệnh cho động vật.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfPhòng chống bệnh truyền nhiễm.pdf
Tài liệu liên quan