Nội dung và tóm tắt chữ người tử tù

Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm 1939, với tên gọi "Giòng chữ cuối cùng". Sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ tập "Vang bóng một thời", xuất bản năm 1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn. Rất tiếc, sách giáo viên và các sách tham khảo khác chưa chú ý đúng mức đến sự khác biệt này. Chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu Chữ người tử tù túc góc độ văn bản học. Vì công việc này sẽ cấp thêm cho bạn độc một hướng thưởng thức văn tài cùng sự kì khu của Nguyễn Tuân. Đúng hơn chúng tôi sẽ kê ra nhiều căn cứ chứng tỏ Nguyễn Tuân không chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số câu chữ, mà thực chất tác giả đã viết lại tác phẩm Giòng chữ cuối cùng của mình [1].

doc21 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 10266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nội dung và tóm tắt chữ người tử tù, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hiện hữu như anh sáng luôn luôn cai trị bóng tối. Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) Tuệ Lãng   Câu 1: Vì sao tác giả cho cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân).   Câu 2: Hãy nêu những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.   Đề 1: Phân tích đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân) để làm rõ giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.   Đề 2: Phân tích nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.   Đề3: Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Câu 1: Vì sao tác giả cho cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân) ? Nguyễn Tuân quả thực là nhà văn những nhân vật phi thường, tính cách độc đáo, những tình cảm mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mỹ, dữ dội. Đọc truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939), một tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân, người đọc càng thấy rõ những giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong đoạn văn tả cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên quản ngục. Nhà văn đã gọi đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có, vì trò chơi thư pháp, chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong khi cổ mang gông, chân đeo xiềng và sáng mai ra pháp trường. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời thì lại khúm núm, run run. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, nơi hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và trong cảnh tượng ấy, người tử tù lại có lời khuyên với viên quản ngục. Có thể coi là đó chính di huấn của người anh hùng tài hoa về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương. Di huấn này thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông cho rằng cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái Đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này. Chính có sự “biệt nhỡn liên tài”, người tử tù Huấn Cao đã bộc lộ hết khí phách anh hùng và sự tài hoa của mình. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là không chỉ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn”Chữ người tử tù” mà đó còn là cảnh tượng mang giá trị nghệ thuật lớn lao của nền văn chương Việt Nam. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hoá, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu khiến đoan văn dựng lên được một không khí cổ kính, trang nghiêm, đầy xúc động, mang đậm vẻ đẹp bi tráng. Câu 2: Hãy nêu những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. - Nghệ thuật tạo tình huống độc đáo: Đó là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong chốn lao tù nhưng trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỷ. Thông qua tình huống truyện tính cách các nhân vật được khắc họa rõ nét và chủ đề tác phẩm được tô đậm. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được nhìn nhận từ phương diện tài hoa nghệ sĩ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn. Viên quản ngục và Huấn Cao được đặt trong mối quan hệ tương phán soi sáng lẫn nhau cách miêu tả gián tiếp… - Nghệ thuật tạo dựng cảnh cho chữ: “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong cảnh này, thủ pháp nghệ thuật đối lập được sử dụng một cách triệt để đã góp phần khắc họa đậm nét tính cách nhân vật. - Nghệ thuật tạo không khí cổ kính bằng những chi tiết chọn lọc, câu văn có nhịp điệu thong thả, đỉnh đạc,… - Ngôn ngữ: giàu tính hình tượng, giàu tính tạo hình, sử dụng đắc địa nhiều từ Hán Việt… Đề 1: Phân tích đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân) để làm rõ giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn lãng mạn. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh đặc biệt phi thường. Truyện ngắn Chữ người tử tù trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của ông. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả cảnh người tử tù cho chữ viên quản ngục. Đó chính là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, lãnh tụ của khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao. Ông đã đưa vào hai đặc điểm nổi bật của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao: viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của ông lại vừa thoả mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ. Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một là viên quản ngục say mê chữ đẹp của Huấn Cao nên quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ Huấn Cao như báu vật. Họ đã gặp nhau trong một tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu cuộc khởi nghĩa nông dân mà triều đình gọi là nổi loạn, là “giặc” đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một tên quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách của hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc. Nguyễn Tuân thích xây dựng nhân vật trong tình huống phi thường. Một viên quản ngục, tay sai đắc lực cho bộ máy thống trị lại tha thiết xin chữ một tội phạm. Còn Huấn Cao là một bậc anh hùng, một nghệ sĩ đâu có dễ dàng cho chữ một kẻ tiểu nhân đang làm nghề tàn ác, lừa lọc. Vậy mà việc cho chữ trong ngục đã diễn ra. Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quí cái đẹp của chữ nghĩa. “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động “Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Coi khinh cường quyền và tiền bạc. Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quí. Theo ông, những con người ấy là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn Chỉ còn tiến mõ vọng canh, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã bày ra. Trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội bấy giờ. Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái Đẹp và nhân cách anh hùng hoà hợp dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang giậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh ô chữ trên phiến lục óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư  lại trở nên bé nhỏ, bị động, khúm núm trước người tử tù”. Nhưng với cách suy tưởng sâu xa hơn, chúng ta có thể hiểu được sự vĩ đại của viên quản ngục. Cảnh tượng này quả là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?”. Lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong khi cổ mang gông, chân đeo xiềng và sáng mai ra pháp trường. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời thì lại khúm núm run run. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái Đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao đó, khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này. Nhưng nếu không có người cai ngục biết trân trọng tài năng thì Huấn Cao cũng chỉ là một Huấn Cao tử tù. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hoá, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn. Chữ người tử tù không chỉ còn là chuyện “chữ” nữa mà chính là cái Đẹp, cái Đẹp của “những nét chữ tươi tắn nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của cái Đẹp, cái Cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu, nô lệ. Sự hòa hợp giữa cái Đẹp và khí phách trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của ông./. Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân. Bài làm Các ý chính: 1. Giới thiệu vài nét về tác phẩm và nhân vật. - Chữ người tử tù là truyện ngắn rút từ tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). - Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về các phương diện nghệ thuật. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao. 2. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa. - Huấn Cao có tài viết chữ. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán, loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật được gọi là thư pháp. Có người viết chữ, thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã. - Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. "Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp" của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn. Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết "chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (...). Có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một báu vật trên đời". Cho nên, "sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải dũng cảm. Bởi vì, biệt đãi Huấn Cao, một kẻ tử tù, là việc làm nguy hiểm, có khi phải trả bằng tính mạng của mình. 3. Huấn Cao là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp. - Trong truyện "Chữ người tử tù", khái niệm "thiên lương" được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại, thì "thiên lương" là tấm lòng yêu quý cái tài, cái đẹp rất chân thành của họ. Với Huấn Cao, thì "thiên lương" lại là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. - Huấn Cao có tài viết chữ, nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc, hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài. Cho nên, suốt đời, Huấn Cao chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Ông tỏ thái độ khinh bạc vì tưởng quản ngục có âm mưu đen tối gì, khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông "cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài" của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù, được tác giả gọi là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". 4. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao. - Trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm, Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của "thiên lương" chiếu rọi, làm cho vẻ đẹp của cái tài, cái khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách chói lọi của Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân đặt nhân vật truyện dưới ánh sáng của lí tưởng ấy để các hình tượng của nhà tù, quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng, bên cạnh cái vầng sáng rực rỡ Huấn Cao. Cũng chính là lí tưởng thẩm mĩ ấy đã chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kỳ diệu: kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, cái cao cả cho viên quản ngục, người xin chữ. 5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao. - Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ "liên tài tri kỉ". - Miêu tả Huấn Cao, để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm và khí phách ngang tàng, Nguyễn Tuân triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp, cái cao cả với phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ...). Có sự đối lập tương phản giữa việc cho chữ (công việc tạo ra cái đẹp "nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người") với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do). Có sự đối lập ở phong thái của người cho chữ (đường hoàng) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm)... - Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều từ Hán Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một "thời vang bóng" ở hình tượng Huấn Cao. 6. Kết luận. - Nhân vật Huấn Cao thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đó là biểu tượng cho sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn, của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Đây là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn, là ý nghĩa tư tưởng của hình tượng. - Hình tượng Huấn Cao được xây dựng trên cơ sở nguyên mẫu: Cao Bá Quát, một nhà nho có tài văn thơ, viết chữ đẹp nổi tiếng một thời và cũng là người tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình nhà Nguyễn trong thế kỉ XIX. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân bộc lộ tình cảm yêu nước và tinh thần dân tộc thầm kín của mình. Bài đọc tham khảo Năm 1940, tập truyện "Vang bóng một thời" của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo, giàu màu sắc lãng mạn. Nó gồm có 12 truyện, nhân vật chính phần lớn là các nhà nho, những kẻ sĩ một thời "vang bóng". "Chữ người tử tù" là một trong những truyện ngắn đặc sắc trong tập "Vang bóng một thời". Truyện chỉ có ba nhân vật xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ diễn ra trong nhà giam tử tù. Bên cạnh viên quản ngục, thầy thơ lại là nhân vật Huấn Cao - một tử tù - có khí phách hiên ngang, rất tài tử, đến chết vẫn coi trọng thiên lương - đã được nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng và miêu tả một cách tài hoa, độc đáo, đầy ấn tượng. Huấn Cao là một kẻ sĩ dám xả thân vì đại nghĩa, dũng cảm đứng về phía nhân dân để chống lại triều đình phong kiến mục nát đương thời, trở thành "người đứng đầu bọn phản nghịch". Trong tâm hồn quản ngục thì Huấn Cao là một con người "chọc trời quấy nước" coi thường cường quyền bạo lực, "chẳng biết có ai nữa" trên đầu mình. Với thầy thơ lại thì Huấn Cao "văn võ đều có tài cả, chà chà!". Với bọn lính thì Huấn Cao là "thủ xướng", "hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn". Cách nhìn nhận ấy của ngục quan, của viên thơ lại, của bọn lính đều cho thấy Huấn Cao là một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân, tiếng tăm lừng lẫy; khi trở thành tử tù vẫn được người đời khâm phục hoặc kinh sợ! Nguyễn Tuân miêu tả chiếc gông bằng gỗ lim dài đến tám thước, nặng đến bảy tám tạ "đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn", miêu tả cái "dỗ gông" với "một trận mưa rệp" trước cửa ngục và trước mũi bọn lính, điều đó cho thấy Huấn Cao và các đồng chí của mình vô cùng hiên ngang, bất khuất, coi thường mọi nhục hình, đày đọa, trước cái chết vẫn ngẩng cao đầu! Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta". Chỉ bằng một vài chi tiết nghệ thuật rất chọn lọc về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, một vài lời nhận xét bình phẩm, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công tinh thần "đại vô úy" của Huấn Cao. Nét vẽ chân dung của Nguyễn Tuân rất độc đáo và có thần! Huấn Cao là kẻ sĩ tài tử, tài hoa được nhiều người mến mộ "cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp"... Chữ của ông Huấn là "một báu vật trên đời", tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý trong thiên hạ. Quản ngục cũng là một người có học đã "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền". Đã từ rất lâu, "từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Huấn Cao là một khách tài tử, không chỉ tài hoa sáng tạo ra cái đẹp mà còn có một tâm hồn thanh cao, trong sạch. Ông tự biết "chữ thì quý thật", nhưng không bao giờ "vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ". Điều đó cho thấy, Huấn Cao đi "làm giặc" không phải "mưu bá đồ vương" mà chính là để "cứu vớt dân đen đang đói khổ"; chữ là một thứ "vật báu" nhưng ông ta không bán văn bán chữ để được phú quý giàu sang. Đúng, "tính ông vẫn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ". Huấn Cao vừa có tài vừa có cái tâm đẹp. Là một khách tài tử, Huấn Cao coi trọng tình bạn tri âm tri kỉ, mến mộ những con người có tinh thần biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Ai đã từng được ông Huấn tặng chữ? "Nhất sinh" ông mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường để tặng ba người bạn thân. Và ai đã được ông Huấn Cao cho chữ? Khi chưa hiểu "lòng dạ" quản ngục thì ông Huấn nặng lời "cố ý làm ra khinh bạc đến điều". Nhưng khi qua lời thỉnh cầu viên thơ lại, ông Huấn biết quản ngục là một con người rất yêu quý cái đẹp, khao khát có "chữ" để "treo ở nhà riêng mình" thì ông đã xúc động nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Trước lúc bước ra pháp trường, Huấn Cao đã cho chữ quản ngục, đó là một nghĩa cử. Trên bình diện "phép nước", quản ngục và tử tù là đối địch, nhưng trên lĩnh vực nghệ thuật thì hai người lại là tri âm. Khách tài tử không thể nào "phụ một tấm lòng trong thiên hạ" là vậy. Vượt qua được cái đáng sợ của "phép nước", phá tan được hàng rào vị thế hiện tại trong xã hội, Huấn Cao và quản ngục đã trở thành đôi bạn tri âm, giữa tài tử và người liên tài. Sức mạnh nghệ thuật hay ánh sáng tâm hồn kẻ sĩ đã tạo nên sự kì diệu ấy? Cảnh cho chữ là một cảnh tượng "xưa nay chưa từng có" đã làm cho bức chân dung nhân vật Huấn Cao, ngục quan, thầy thơ lại trong cảnh tượng ấy, vô hình trung đã trở thành tương tri, tương thân, tâm đắc trong việc sáng tạo cái đẹp. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy mãng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tử tù vung bút viết "những nét chữ vuông vắn rõ ràng". Thật là đĩnh đạc, đàng hoàng, sau khi "đề xong lạc khoản", Huấn Cao khen mùi mực thơm, "thở dài" đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy, nói: "... Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Hình ảnh quản ngục "nước mắt rỉ vào kẽ miệng" vái tử tù một vái, nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" đã làm cho hình ảnh Huấn Cao trở nên kì vĩ. Sắp bước lên đoạn đầu đài vẫn quyết giữ vững thiên lương. Kẻ "làm giặc" không thể có cái tâm thế ấy. Huấn Cao là một anh hùng! "Văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức" (Vũ Ngọc Phan). Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao rất đặc sắc. Hầu như không có chi tiết nghệ thuật nào thừa. Tiếng đồn đại, lai lịch, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động... của nhân vật được tác giả lựa chọn rất "đắt" làm hiện lên một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng bằng hữu và trân trọng những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Từ một nhân vật lịch sử trong thế kỉ 19, gắn liền với những giai thoại, những câu đối: "Một chiếc cùm lim chân có đế - Ba vòng xích sắt bước thì vương"..., Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên một hình tượng văn học Huấn Cao cho chữ trước lúc ra pháp trường. Văn học lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến chỉ có một hình tượng Huấn Cao đẹp bi tráng như vậy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao - kẻ sĩ tài tử, anh hùng - nhà văn Nguyễn Tuân vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc biệt, vừa thể hiện một bút pháp tài hoa, độc đáo tuyệt vời. Ngoài việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện "Chữ người tử tù" còn hàm chứa một ý tưởng sâu sắc: thương tiếc những tài năng bị hãm hại, khẳng định cái đẹp có một sức mạnh kì diệu không một thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt được. Cái đẹp của tài hoa, cái đẹp của thiên lương đã làm lung linh nhân cách kẻ sĩ Huấn Cao, để chúng ta ngưỡng mộ. Thấm thía biết bao bài học thiên lương ở đời. Sống vì thiên lương. Và chết cũng giữ trọn thiên lương. "Chữ người tử tù"  là một truyện ngắn kiệt tác lung linh vẻ đẹp thiên lương. ST Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)  Bài viết của thầy : Phan Danh Hiếu. Biên Hòa. Đồng Nai. BÀI DÀNH CHO HỌC SINH LUYỆN THI ĐẠI HỌC  BÀI LÀM            Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.           Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao  Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ. Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí: Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Mười năm lặn lội tìm gươm báu Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)           Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường  thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.             Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.           Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.           Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta -  ngươi", miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết.              Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng:  “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù . Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.  Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài... thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.  Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.           Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ PHÁP.            Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây  sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương  trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu  sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng  sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện... Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền)  Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm  cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.  Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của  Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.           Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức". Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân. Bài làm Nguyễn Tuân là một nhà văn xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ông sáng tác bằng nhiều thể loại, nhưng nổi tiếng hơn cả là tuỳ bút. Trước Cách mạng tháng Tám, nhà văn được nhiều người ngưỡng mộ qua tác phẩm Vang bóng một thời. Đây là tác phẩm tập hợp hơn một chục truyện ngắn viết về một thời vàng son đã qua, nhưng nay vẫn còn "vang bóng". ở đây, Nguyễn Tuân vừa thể hiện niềm trân trọng vốn văn hóa cổ truyền dân tộc, vừa bộc lộ sự nuối tiếc cái thời xa xưa. Chữ người tử tù là truyện ngắn nổi tiếng rút trong tập Vang bóng một thời. Trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân đặc biệt thành công trong việc khắc hoạ hình tượng nhân vật Huấn Cao. Đọc tác phẩm Chữ người tử tù, nhiều người nhận xét, Nguyễn Tuân đã dựa vào Cao Bá Quát - một nhà thơ, văn hay chữ tốt, có bản lĩnh kiên cường, lãnh tụ của phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, vào giữa thế kỉ XIX. Bằng tài năng kiệt xuất của mình Nguyễn Tuân đã từ nguyên mẫu nói trên xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp kì vĩ, hiếm thấy. Khác với phần nhiều những nhân vật chính trong Vang bóng một thời, Huấn Cao là một con người hết sức có trách nhiệm trước thời cuộc. Ông vừa là người văn võ song toàn, đồng thời vừa là người có "thiên lương" bền vững, trong sáng. Lần đầu tiên người đọc được biết Huấn Cao qua cuộc nói chuyện giữa thầy thơ lại và quản nguc; sau khi quản ngục "nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường" nói về sáu người tù án chém, trong số đó người "thủ xướng" là Huấn Cao. Quản ngục đã từng nghe người ta đồn, Huấn Cao chính là người "ngoài cái tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa vượt ngục", hay nói cách khác, đây chính là người "văn võ đều có tài cả" như nhận xét của thầy thơ lại, trong đề lao. Đọc một vài trang đầu của tác phẩm người đọc không khỏi hồi hộp chờ đợi được tiếp xúc với một con người kì vĩ, tiếng tăm lẫy lừng... khiến cho cả quản ngục lẫn thầy thơ lại - những nhân vật chủ chốt trong bộ máy đàn áp của nhà nước phong kiến, phải bận tâm và kính nể. Thế rồi, Nguyễn Tuân để cho nhân vật Huấn Cao xuất hiện lần đầu tiên trước quản ngục và thầy thơ lại (lẫn cả người đọc) bằng hành động "dỗ cái gông nặng bảy, tám tạ xuống thềm đá", "đánh thuỳnh một cái" và lãnh đạm không thèm chấp, khi nghe lời dọa dẫm của tên lính áp giải. Trong phòng gian chờ ngày ra pháp trường, Huấn Cao tuyệt nhiên không bận tâm đến cái chết, ông thản nhiên nhận rượu thịt, do quản ngục cung cấp, và coi đó như là một việc làm trong cái hứng của cuộc đời. Huấn Cao đúng là người hiên ngang, bất khuất. Ông coi khinh những kẻ đại diện cho giai cấp thống trị. Dưới mắt ông, chúng chỉ là một lũ "tiểu nhân thị oai", ông không thèm chấp. Bằng việc dỗ cái gông, bằng việc thản nhiên uống rượu, ăn thịt..., Nguyễn Tuân muốn khắc họa sâu đậm cách sống tự do có phần ngang tàng của Huấn Cao. Trong tù, trong vòng quản thúc chặt chẽ của bộ máy đàn áp dã man, đầy những sự tàn nhẫn, lừa lọc, nhưng Huấn Cao vẫn tự do. Kẻ thù có thể giam cầm ông về thể xác, chứ không thể giam cầm được tinh thần của ông, thậm chí nó không thể làm thay đổi nổi cách sống của ông. Có lần, quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao, sau nhiều ngày đều đặn dâng rượu và thực phẩm: "Ngài có cần gì thêm nữa cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất". Ông đã trả lời quản ngục một cách khinh bạc: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: là nhà người đừng đặt chân vào đây". Huấn Cao là một con người hết sức tự trọng, "không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình vất câu đối bao giờ, tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ ". Theo ông, chỉ có thiên lương, tức là bản chất tốt đẹp của con người, và tình yêu cái đẹp, cái cao thượng với tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" mới là đáng quý, đáng trân trọng. Kiêu sa, cao ngạo là thế nhưng đến khi hiểu được tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" say mê cái đẹp của quản ngục, Huấn Cao đâu phải chỉ vui vẻ nhận lời, mà còn chân thành thốt lên những lời thật cảm động, gián tiếp thừa nhận sự sơ suất của mình: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Thế rồi, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao còn vỗ về, khuyên bảo quản ngục. Người đọc có cảm tưởng như đây là lời lẽ của người cha khuyên bảo con: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. ở đây (trong chốn lao tù) khó mà giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Qua câu nói này, người đọc có thể cảm nhận được chiều sâu trong tư tưởng của người "thủ xướng" - những kẻ chống lại triều đình. Đúng là cái đẹp đẽ, cái cao thượng không thể cùng tồn tại với cái xấu xa, thấp hèn. Đồng thời, mỗi một con người chúng ta chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu như còn giữ được bản chất trong sáng. Như vậy sức hấp dẫn của nhân vật này trước hết là sức hấp dẫn của cái tâm cao thượng, của nội dung tư tưởng sâu sắc. Ngoài ra, Huấn Cao cũng như phần đông nhân vật trong Vang bóng một thời đều hết sức tài hoa. Ông nổi tiếng bởi tài năng "viết chữ nhanh, rất đẹp". Chữ Huấn Cao "đẹp lắm, vuông lắm", khiến cho quản ngục coi việc xin được chữ của ông là "có một vật báu trên đời", là "mãn nguyện". Hình tượng ông Huấn Cao thật sự trở thành kì vĩ, lộng lẫy trong cảnh tượng ông cho chữ quản ngục. Đoạn văn tả cảnh cho chữ thường được nhiều độc giả cho là đoạn văn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm. Trong đoạn này, Nguyễn Tuân đã phát huy triệt để sức mạnh của một cây bút lãng mạn để xây dựng một cảnh tượng siêu phàm "xưa nay chưa từng có", gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc cho người đọc. Trong căn buồng nhà giam ẩm ướt, chật chội, đầy những phân chuột, phân gián, tường chằng chịt mạng nhện - tức là hết sức điển hình cho một buồng giam những người tù, đã diễn ra việc cho chữ. Chính nơi đây, ông Huấn để lại cái đẹp, để lại bản di chúc cho đời. Việc cho chữ được miêu tả một cách thiêng liêng. Ông Huấn Cao trở nên uy nghi, lẫm liệt; thành nhân vật trung tâm của cảnh tượng "xưa nay hiếm". Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, chỉ sáng mai thôi, người tử tù này sẽ phải giải vào kinh để chịu án tử hình. Nhưng đêm nay, dưới ánh đuốc đỏ rực, Huấn Cao đang để tâm trí ung dung viết đại tự, nhằm lưu lại báu vật cho quản ngục và thầy thơ lại. Lúc này, ông chính là một nghệ sĩ đích thực được cung kính, ngưỡng mộ tuyệt đối. Huấn Cao ung dung, đường hoàng còn thầy thơ lại "run rung bưng chậu mực", và quản ngục thì "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ rồi chắp tay vái người tù, nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ răng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!".". Sau khi viết xong, ông Huấn cao "đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy" và đĩnh đạc khuyên bảo quản ngục nên thay chỗ ở để giữ thiên lương bền vững. Thì ra, ngay trong chốn lao tù này, kì lạ thay, không phải là quản ngục hay thầy thơ lại (tức là những người đại diện cho giai cấp thống trị) làm chủ, mà lại là Huấn Cao - kẻ tử thù của xã hội này. Tính khuynh hướng của tác phẩm như thế là quá rõ. Đây chính là một cách phủ nhận xã hội thối nát đương thời, đây chính là sự bày tỏ tấm lòng yêu nước của nhà văn Nguyễn Tuân. Qua hình tượng Huấn Cao, đặc biệt là đoạn cho chữ, nhà văn muốn khẳng định sự chiến thắng của tài hoa, của nhân cách đối với cái xấu xa, thấp hèn. Đoạn cho chữ, một mặt làm nổi bật được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm, mặt khác làm cho hình tượng nhân vật Huấn Cao trở thành phi thường, tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao còn được nhà văn khắc họa thông qua việc xây dựng nhân vật quản ngục và thầy thơ lại. Sự nhẫn nhục của quản ngục, niềm khao khát xin được chữ ông Huấn Cao, sự lo lắng mai mốt ông Huấn Cao sắp bị giải đi hành hình, việc "tái nhợt người" khi biết ông Huấn Cao sắp bị giải về kinh, thái độ cung kính nhận chữ và nỗi xúc động khi nghe lời người tử tù dạy bảo... khiến cho quản ngục trở thành nhân vật khá sống động. Nhưng quan trọng hơn, chúng đã cùng tôn vinh Huấn Cao, tô đậm thêm những phẩm chất tuyệt vời của nhân vật này theo lối "vẽ mây nảy trăng", như cách nói của người xưa. Thực ra Huấn Cao, quản ngục và thầy thơ lại đều là những nhân cách đẹp đẽ phi thường. Trong nhà tù, ông Huấn đã tìm được những người tri âm, tri kỉ. Như vậy, ngay trong chốn xấu xa, tội lỗi, cũng không ít người tốt đẹp. Cái đẹp, cái cao thượng sẽ được giữ gìn, trân trọng, tuy nhất thời nó có thể bị vùi dập. Phải chăng điều này cũng có thể rút ra qua hình tượng Huấn Cao, mà lâu nay hầu như chưa ai nói đến. Nguyễn Thị Tuyết Trường TPPH Triệu Sơn, Thanh Hóa Phân tích cảnh ông Huấn Cao cho chữ trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân. Bài làm Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được bộc lộ một cách sáng chói, rực rỡ nhất trong cái đêm ông cho chữ viên quản ngục. Cảm hứng mãnh liệt trước một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" đã khiến Nguyễn Tuân say sưa ném ra những ngôn từ vừa sắc sảo, góc cạnh, vừa trang trọng cổ kính, sống động như có hồn, có nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm. Bút pháp dựng người, dựng cảnh của nhà văn đã đạt đến mức điêu luyện. Những nét vẽ của ông như khắc, như chạm, giàu giá trị tạo hình. Chi tiết nào cũng sinh động, cũng gợi cảm, đầy ám ảnh nghệ thuật. Thủ pháp tương phản được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ hào quang bất tử của nhân vật Huấn Cao. Nguyễn Tuân đã dựng lên một cảnh tượng độc đáo, đúng là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Cảnh cho chữ, một thú chơi tao nhã, một công việc đầy tính văn hóa và mĩ thuật không phải được diễn ra ở một nơi trang trọng mà lại diễn ra trong một căn buồng tối tăm, hôi hám, bẩn thỉu của nhà tù. Người nghệ sĩ tài hoa say mê tô từng nét chữ cũng không phải là người đang được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh cổ mang gông, chân đeo xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã bị giải vào Kinh chịu án tử hình. Nguyễn Tuân đã dựng lên một cảnh tượng trang trọng tới mức thiêng liêng. Không gian vắng lặng "chỉ còn vọng tiếng mõ trên vọng canh ". "Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ". Ngay giữa chốn lao tù - sào huyệt của bóng tối, của cái ác xấu xa - đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi thể hiện niềm khao khát muôn thuở của con người. Không phải những kẻ coi giữ tù làm chủ mà người tử tù đã giành lấy địa vị làm chủ. Hình ảnh người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đàng hoàng uy nghi tô đậm những nét chữ vuông vắn lên tấm lụa bạch, nổi bật hẳn lên giữa cái cảnh viên quản ngục thì "khúm núm", thầy thơ lại thì "run run" bưng chậu mực. Trong không khí trang trọng, thiêng liêng, trong cảm hứng sáng tạo mãnh liệt, say mê, ông Huấn Cao đã quên hẳn gông xiềng, quên cả cái chết đang chờ đợi mình. Tâm hồn ông hoàn toàn hướng tới cái đẹp, cái "thiên lương" trong sáng. Ông nói với viên quản ngục về mùi thơm của mực. Ông khuyên quan ngục "nên thay chỗ ở đi", hãy tránh xa cái nơi độc ác, xấu xa để giữ vẹn "thiên lương", để khỏi "nhem nhuốc mất cái đời lương thiện". Lời khuyên ấy đã thể hiện quan niệm thống nhất của ông giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện. Trong quan niệm ông, người nghệ sĩ say mê cái đẹp trước hết phải là người biết coi trọng "thiên lương". Lời di huấn thiêng liêng ấy của Huấn Cao về nghệ thuật, về đạo lí làm người đã được quản ngục quan chân thành bái lĩnh và người đời thận trọng lắng nghe. Cảnh ông Huấn Cao cho chữ viên quản ngục qua ngòi bút của Nguyễn Tuân quả là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" tượng trưng cho việc tài hoa lên ngôi trong chốn ngục tù. Người tử tù đang tiến dần tới cái chết, còn tài hoa ung dung bước vào cõi bất tử, vĩnh hằng. Rõ ràng, vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn - một vẻ đẹp đã được lí tưởng hóa. Chưa bao giờ cái tài, cái đẹp lại có được sự hấp dẫn, sức mạnh cảm hoá mãnh liệt, ghê gớm đến như vậy. Nguyễn Tuân - nhà văn của vẻ đẹp Vang bóng một thời - đã sáng tạo ra hình tượng Huấn Cao để thể hiện khát vọng vượt lên trên môi trường ô trọc, bộc lộ niềm say mê cái tài, cái đẹp và sự trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Trần Đình Sử - Trần Đăng Xuyền (Bình giảng tác phẩm văn học - NXB Giáo dục, 1995)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNội dung và tóm tắt chữ người tử tù.doc