Nghiên cứu các tai biến thiên nhiên ở dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế

The range of the coastal plain of Thua Thien Hue is very sensitive to natural disasters and impacts of climate change alike. Every year, Thua Thien Hue province generally and the range of the coastal plain in particular have to bear severe consequences caused by natural disasters. Especially in recent years, the natural catastrophes such as typhoons, floods, riverbank erosion, coastal erosion, drought, salinization, rising sea, etc have occurred with a significantly increasing intensity and frequency, causing a great loss of residents' lives and property, harming the relics of the old capital which has been recognized as a UNESCO cultural heritage of humans, as well as having a bad influence on the ecological environment.

pdf11 trang | Chia sẻ: huongnt365 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các tai biến thiên nhiên ở dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 03(19)/2011: tr. 27-37 NGHIÊN CỨU CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN THỪA THIÊN HUẾ NGUYỄN THÁM Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế PHAN ANH HẰNG Trường Đại học Phú Xuân, Huế Tóm tắt: Dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế là nơi rất nhạy cảm với thiên tai và các tác động của biến đổi khí hậu. Hàng năm, tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và dải đồng bằng ven biển nói riêng phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do thiên tai gây ra. Đặc biệt trong những năm gần đây, các tai biến thiên nhiên như bão lớn, lũ lụt, xói lở bờ sông, xói lở bờ biển, hạn hán, xâm nhập mặn, mực nước biển dâng xảy ra với cường độ và tần suất tăng lên đáng kể, gây tổn thất lớn về tính mạng và tài sản của người dân, xâm hại đến Quần thể Di tích Cố đô đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế chiếm khoảng 16% diện tích toàn tỉnh, phân bố thành dải hẹp dọc theo ven biển và được hình thành do quá trình bồi đắp của sông và biển. Độ cao tuyệt đối từ 15-10m trở xuống, bao gồm bộ phận đồng bằng đồi Hương Thủy, Phú Vang, Hương Trà, Phú Lộc; đồng bằng tích tụ nhiều nguồn gốc; các trảng cát nội đồng Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang; các dạng địa hình đầm phá và các cồn đụn cát ven biển. Do địa hình thấp, là hạ lưu của các sông ngắn dốc, với lưu lượng nước lớn, đồng bằng dễ bị ngập lụt về mùa mưa, hạn hán và xâm nhập mặn vào thời điểm ít mưa. Ngoài ra, hoạt động xâm thực, xói lở bờ sông, bờ biển thường xảy ra. Đặc biệt liên tiếp trong những năm gần đây, do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, các tai biến thiên nhiên đã xảy ra với quy mô và cường độ rất lớn với sức tàn phá ngày càng ác liệt đã gây nên những hậu quả nặng nề đối với sự phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và dải đồng bằng ven biển nói riêng. Bài viết nhằm tìm hiểu hiện trạng các tai biến thiên nhiên ở dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế (lũ lụt, xói lở bờ sông, xói lở bờ biển, hạn hán, xâm nhập mặn, mực nước biển dâng), các nhân tố tác động gây tai biến thiên nhiên và đề xuất một số giải pháp hạn chế tác hại do các tai biến thiên nhiên gây ra ở dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế. NGUYỄN THÁM – PHAN ANH HẰNG 28 2. HIỆN TRẠNG CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN THỪA THIÊN HUẾ 2.1. Lũ, lụt Lũ lụt là một trong những tai biến thiên nhiên xảy ra phổ biến và gây nhiều thiệt hại nhất ở đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế. Trong lịch sử, đã ghi lại những năm lũ cực lớn như: năm 1404 (mở cửa Hòa Duân lần đầu), năm 1498 (mở cửa Hòa Duân lần hai), năm 1811 (mở cửa Vinh Hiền), các năm 1822, 1844, 1950, 1953 (mở lại cửa Vinh Hiền), các năm 1964, 1975, 1983, 1990, 1995, 1996, 1998, 1999 (mở cửa Hòa Duân lần ba) [5]. Trong vòng 50 năm trở lại đây, lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn nửa đầu thế kỷ trước. Theo số liệu quan trắc từ năm 1977 đến năm 2010 trên sông Hương, trung bình hàng năm có 3,5 trận lũ lớn hơn hoặc bằng mức báo động II, năm nhiều nhất có 9 trận, năm ít nhất có 1 trận, trong đó có 36% lũ lớn và đặc biệt lớn. Số đợt lũ và đỉnh lũ hàng năm có liên hệ khá chặt chẽ với hiện tượng ENSO. Những năm chịu ảnh hưởng của El Nino như 1982, 1987, 1991, 1994 và 1997 có đỉnh lũ thấp; những năm chịu ảnh hưởng của La Nina số đợt lũ và đỉnh lũ lớn hơn rõ rệt như năm 1995, 1998 và 1999. Số liệu quan trắc cho thấy, sự biến đổi mực nước đỉnh lũ cao nhất diễn ra theo một chu kỳ nhất định: khoảng 4 - 6 năm có lũ vừa và nhỏ thì có 2 năm lũ lớn liên tiếp như: 1983-1984; 1988- 1989; 1995-1996; 1998-1999. Một số trận lũ tiêu biểu có đỉnh lũ cao nhất ở sông Hương tại Kim Long như sau: 1953: 5.48m; 1975: 4.72m; 1983: 4.88m; 1990: 4.56m; 1995: 4.64m; 1996: 4.55m; 1999: 5.81m; năm 2009: 4,57m. Hầu như năm nào mực nước ở các sông chính cũng đều lên báo động III, vì vậy toàn bộ các thôn xã đều bị chia cắt. Nếu như ở miền núi với đặc điểm lũ lên nhanh và rút nhanh, ở đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế, lũ thường xuất hiện sau nhưng thời gian ngập lụt kéo dài, trầm trọng hơn nhiều so với khu vực đồi núi. 2.2. Xói lở bờ sông Xói lở bờ sông chỉ xảy ra ở phía bờ lõm của các đoạn sông cong hay tại các vị trí bờ sông chịu tác động trực diện của dòng chủ lưu và xảy ra chủ yếu trong những thời kỳ lũ lớn. Trên hệ thống sông Hương: Theo kết quả khảo sát, trên hệ thống sông Hương hiện nay có 31 điểm xói lở, trong đó đoạn sông chảy qua vùng đồng bằng ven biển có 21 điểm xói lở chiếm 67,7% tổng số điểm xói lở. Trên dòng chính sông Hương: Xói lở phía bờ phải sông gồm các vị trí: thôn Lương Quán - Thuỷ Biều - TP Huế (500 m); Đông Phước - Thuỷ Biều - TP Huế (500m); phường Vĩ Dạ - TP Huế, dọc theo hai bên cồn Hến (3.300m); phường Vĩ Dạ - TP Huế, dọc đường Nguyễn Sinh Cung (2.100m); Thanh Tiên - Lại Ân - Phú Mậu - Phú Vang (1.500m); Hoà An - Phú Thanh - Phú Vang (dài 500m). Xói lở phía bờ trái sông gồm các vị trí tại thôn Long Hồ Thượng - Hương Hồ - Hương NGHIÊN CỨU CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TT HUẾ 29 Trà (150m); Xước Dũ - Hương Hồ - Hương Trà (dài 3.000m); chùa Thiên Mụ - Hương Long - TP Huế (600m); thượng lưu cầu Bạch Hổ - Phường Kim Long (1.500m); Bến Me (300m); phường Phú Cát và phường Phú Hiệp - TP Huế (2.300m); Thanh Phước - Thuận Hoà - Hương Phong - Hương Trà (1.900m). Xói lở đầu cồn Triều Sơn, thuộc Hương Vinh - Hương Trà, dài 750m. Trên sông Bồ: Xói lở phía bờ phải sông gồm các vị trí tại thôn Liêu Cốc Hạ - Hương Cần - Hương Trà (700m); Thanh Xuân - Hương Việt - Hương Trà (200m). Xói lở phía bờ trái sông gồm các vị trí tại thôn La Vân Thương - Quảng Thọ - Quảng Điền (2.000m); Dương Sơn - Quảng Thọ - Quảng Điền (350m); Phong An - Phong Điền (3.000m). Vị trí xói lở cả hai bên bờ sông thuộc Ấp Phò Nam - Quảng Thọ (600m). Xói lở ở đầu cồn Hà Lan thuộc Bác Vọng Tây - Quảng Phú - Quảng Điền, dài 150m. Trên sông Ô Lâu: Phong Thu - Phong Điền, nhiều nơi xói lở sâu đến 15-20m, dài 2.000m. Trên sông Truồi: Đồng Xuân - Lộc Điền - Phú Lộc, nạn khai thác cát sạn ngày càng gia tăng khiến nguy cơ xói lở càng trở nên nghiêm trọng, chiều dài đoạn xói lở 200m. Trên sông Bù Lu: Cảnh Dương, Đông An, Phú Hải - Lộc Vĩnh - Phú Lộc, có nơi bờ sông bị khoét sâu 60-70m, chiều dài đoạn sạt lở 300m. 2.3. Xói lở bờ biển Hiện nay, hiện tượng xói lở bờ biển Thừa Thiên Huế xảy ra thường xuyên, phức tạp và ngày càng gia tăng, nhất là đoạn bờ từ Hải Dương đến Phú Thuận. Xói lở bờ biển thường xảy ra vào mùa đông (từ tháng 8 đến tháng 3). Từ tháng 9-12, tốc độ xói lở xảy ra mạnh nhất, đặc biệt trong thời điểm có gió mùa Đông Bắc hoặc áp thấp nhiệt đới hoạt động. Tốc độ xói lở lấn sâu vào đất liền trung bình năm khá lớn và được chia làm 4 cấp [1]: + Yếu: có tốc độ lấn sâu vào bờ trung bình dưới 5m/năm (Điền Hòa, Phong Hải thuộc huyện Phong Điền; Quảng Công - Quảng Điền; Phú Thuận, Phú Diễn - Phú Vang; Vinh Hải, Vinh Mỹ - Phú Lộc). + Trung bình: có tốc độ lấn sâu vào bờ trung bình 5 - 15 m/năm (Thuận An - Phú Vang; Lộc Hải - Phú Lộc). + Nhanh: có tốc độ lấn sâu vào bờ trung bình dưới 15-30m/năm (Quảng Ngạn - Quảng Điền; cửa Thuận An - Hương Trà; Phú Hải, Vinh An, cửa Thuận An - Phú Vang; Lộc Vĩnh - Phú Lộc). + Rất nhanh: có tốc độ lấn sâu vào bờ trung bình trên 30m/năm (Hải Dương - Hương Trà, Vinh Hiền - Phú Lộc). NGUYỄN THÁM – PHAN ANH HẰNG 30 2.4. Hạn hán Trong quá khứ, có những đợt hạn nặng như 1977 (nắng hạn 41 ngày từ 25/05 đến 04/07), 1993-1994, 1997-1998, 2002. Đợt hạn năm 1993-1994, lượng mưa đo được từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1993 chỉ bằng 58% lượng mưa trung bình năm cùng thời kỳ, năm 1994 chỉ bằng 49%; nhiệt độ cao nhất trong hai năm 1993-1994 là 39 đến 400C. Năm 1998, hạn hán lại xảy ra khá nghiêm trọng, nhiệt độ cao nhất tuyệt đối đo được trong các đợt nắng nóng ở Huế là 39,50C, mực nước trên các sông tháng 7, tháng 8 thấp hơn trung bình nhiều năm từ 0,2 đến 0,3m. Năm này có số ngày gió Tây khô nóng lớn nhất, liên quan đến sự xuất hiện El Nino. Trong đợt hạn 2002, nước mặn vượt quá Vạn Niên lên tới phà Tuần làm nhiều nhà máy, xí nghiệp phải đóng cửa nhiều ngày, ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế của tỉnh. Gần đây, Thừa Thiên Huế lại phải đối mặt với những thách thức lớn, bởi nguồn nước ngày càng có những biểu hiện suy giảm trong khi dân số tăng nhanh, nhu cầu sử dụng nước cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện... ngày càng cao. Có một thực tế là, các dự án thủy điện, thủy lợi đều chặn dòng vào mùa khô, dễ làm cho vùng hạ lưu bị thiếu nước. Điển hình là nhà máy thủy điện Hương Điền (tại Hương Vân, Hương Trà) ngăn dòng từ ngày 27/12/2009, do tích nước sớm trong tháng 12 nên ở hạ du đã xảy ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp cho hạ lưu sông Bồ. 2.5. Xâm nhập mặn Độ mặn trong các sông và tình hình xâm nhập mặn vào các cửa sông ở Thừa Thiên Huế dao động tùy theo mùa khí hậu, tình hình đóng mở cửa biển, vị trí xa gần cửa sông và cửa biển, độ sâu đầm phá cũng như chu kì triều. Độ mặn lớn nhất vào mùa khô, ở nơi gần cửa biển và thấp nhất khi mùa lũ, nơi cửa sông đổ vào đầm phá. Độ mặn vào mùa khô ở phá Tam Giang 10- 29‰, đầm Thủy Tú 20-32‰, đầm Cầu Hai 20-33‰, đầm An Cư 30-35‰. Những năm hạn hán nặng, mặn lấn sâu về phía thượng lưu của sông (ở Vạn Niên trên sông Hương, gần cầu An Lỗ trên sông Bồ và ở Vân Trình trên sông Ô Lâu). Độ mặn bình quân vùng cửa sông Hương trên 20‰, độ mặn lớn nhất xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8 trên 33‰. Trong 1 tháng có 2 thời kỳ mặn tương ứng với 2 thời kỳ triều, vào những ngày đầu tháng và giữa tháng âm lịch (độ mặn đo được khoảng 20,5‰). Trong ngày, do vùng cửa sông Hương thủy triều thuộc bán nhật triều không đều nên mỗi ngày có 2 kỳ nước lên và 2 kỳ nước ròng, do đó mặn xuất hiện 1 đến 2 giờ sau đỉnh triều và 2 đến 3 giờ sau chân triều. Từ năm 2006, đập ngăn mặn Thảo Long trên sông Hương được đưa vào sử dụng đã giải quyết được tình trạng nhiễm mặn trên sông, còn lại các con sông trên địa bàn đều ở trong tình trạng nhiễm mặn thường xuyên. NGHIÊN CỨU CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TT HUẾ 31 2.6. Nước dâng Nước dâng là hiện tượng mực nước biển dâng cao hơn mực nước trung bình do hệ quả nhiệt độ Trái đất gia tăng và khi có bão ảnh hưởng. Ở khu vực Thừa Thiên Huế, nước dâng đã quan sát trong cơn bão CECIL 1985 ở Thuận An 1,9m, ở Lăng Cô 1,7m. Nước dâng kết hợp triều cường làm mực nước biển cao 3-4m, tràn vào đất liền 2-3km. Theo tính toán, trong chu kỳ khoảng 100 năm có khả năng xảy ra nước dâng ở khu vực ven biển Thừa Thiên Huế với độ cao 2,0m. Hiện tượng nước dâng sẽ gây tác động tiêu cực đối với các cùng đất thấp đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế có độ cao từ 3,5-4m trở xuống do hiện tượng biển lấn, xói lở, nhiễm mặn và ngập lụt tăng cường. 3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG GÂY TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN THỪA THIÊN HUẾ 3.1. Địa chất, địa hình, địa mạo - Địa chất: Ở vùng núi, lớp vỏ phong hóa ferosialit có bề dày mỏng, ít thấm nước, vùng hạ lưu các bề mặt đồng bằng tích tụ sông, sông - biển, biển được cấu tạo chủ yếu bởi sét bột có bề dày mỏng, khả năng thấm nước yếu làm tăng tỷ lệ nước chảy tràn trên mặt dẫn đến sự gia tăng tính chất nghiêm trọng của lũ lụt. Đoạn sông chảy qua vùng đồng bằng với địa hình tương đối bằng phẳng, bờ sông cấu tạo chủ yếu từ đất cát, bột, sét mềm yếu, nguy cơ xói lở bờ sông rất lớn. Bờ biển Thừa Thiên Huế cấu tạo từ các trầm tích bở rời có độ gắn kết kém, không chống đỡ được tác động của sóng vỗ trực tiếp với áp lực dòng chảy lớn. Đây chính là một trong những yếu tố góp phần gây xói lở bờ biển tỉnh Thừa Thiên Huế. - Địa hình: Phía Tây, Tây Nam và Nam lãnh thổ là vùng núi với độ cao dao động từ 750 đến 1.800m. Về mùa đông, tác dụng chắn gió mùa Đông Bắc của các dãy núi gây ra mưa lớn với các tâm mưa lớn ở A Lưới, Bạch Mã. Mặt khác, các dãy núi cao gây ra hiệu ứng phơn là nguyên nhân của thời tiết khô nóng và hạn hán trong mùa hè. Vùng đồng bằng ven biển với địa hình thấp trũng, có hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai án ngữ ở phía đông. Đây là nguyên nhân làm giảm khả năng thoát lũ mỗi khi có lũ lớn gây nên hiện tượng úng lụt kéo dài và ngập sâu của khu vực đồng bằng thấp. Các dải cát, cồn cát, đụn cát do gió cao 5-20m kéo dài dọc theo bờ biển với bề rộng 300 - 800 m đã trở thành những đê chắn tự nhiên gây bồi lắng, xói lở, bồi lấp cửa sông, bờ biển, phá hoại đê điều, tác động nghiêm trọng đến khả năng tiêu thoát lũ ra biển, làm trầm trọng thêm tác hại của lũ lụt. NGUYỄN THÁM – PHAN ANH HẰNG 32 3.2. Nhân tố khí tượng, khí hậu - Mưa: Sự phân hóa lượng mưa theo thời gian: Thừa Thiên Huế chủ yếu mưa vào mùa Thu Đông. Mùa mưa diễn ra trong 4 tháng (từ tháng 9 đến tháng 12) chiếm 74,4% lượng mưa năm. Ngược lại, trong mùa ít mưa (kéo dài trong 8 tháng), lượng mưa chỉ chiếm 25,6% lượng mưa năm, lượng nước bốc hơi lớn, gây nên hiện tượng hạn hán và xâm nhập mặn. Biến trình của lượng mưa năm ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và dải đồng bằng ven biển nói riêng có hai cực đại. Một cực đại vào tháng 5, 6 có thể gây lũ tiểu mãn. Cực đại thứ hai từ tháng 8 đến tháng 12 hoặc tháng 1, gây ra một mùa lũ chính. Tháng mưa lớn nhất trong năm là tháng 10, tổng lượng mưa tháng dao động trong khoảng từ 600 mm đến trên 1000 mm. Sự tập trung của lượng mưa cũng như số ngày mưa lớn làm cho khả năng xảy ra lũ lụt, xói lở bờ sông trong các tháng này rất cao. Số ngày mưa: Hàng năm có khoảng 150-170 ngày mưa ở đồng bằng ven biển. Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16-24 ngày mưa. Những đợt mưa kéo dài nhiều ngày (4-6 ngày) trên diện rộng thường gây lũ lụt, xói lở bờ sông nghiêm trọng. Ngược lại, trong mùa ít mưa chỉ có 8 đến 15 ngày mưa/tháng. Những đợt không mưa kéo dài liên tục từ 6-7 ngày đến 19-31 ngày, gây hạn hán và xâm nhập mặn [2], [5]. Cường độ mưa: Theo số liệu quan trắc, lượng mưa lớn nhất ngày tại Huế có thể lên tới 500 đến 900 mm. Ở Thừa Thiên Huế đã từng xảy ra những trận mưa với cường độ rất lớn và đi kèm với nó là các tai biến thiên nhiên trong đó có lũ lụt, xói lở bờ sông. - Nhiệt độ không khí: Về mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là 200C. Trong mùa hè, vào các tháng nóng nhất (tháng 6 và tháng 7), nhiệt độ trung bình có thể lên đến 28-290C [3], khi có gió mùa Tây Nam khô nóng, nhiệt độ cao nhất có thể lên tới 400C, thời điểm này thường xảy ra hạn hán và xâm nhập mặn. - Độ ẩm tương đối của không khí, lượng nước bốc hơi, chỉ số khô hạn: Khí hậu Thừa Thiên Huế rất khắc nghiệt và khác biệt nhau giữa các vùng, các mùa. Vào thời gian bốc hơi lớn (tháng 5-8 lượng nước bốc hơi lên tới 87-150mm/tháng), độ ẩm trong không khí thấp (từ tháng 4 đến 8 - trùng với thời kỳ hoạt động gió mùa Tây Nam khô nóng, độ ẩm tương đối không khí hạ thấp đến 73-79%), mưa ít, nhiệt độ cao thường xảy ra hạn hán và xâm nhập mặn ở đồng bằng ven biển [4]. - Các hiện tượng thời tiết đặc biệt: Thừa Thiên Huế là một trong những khu vực có lượng mưa trung bình năm lớn nhất cả nước. Mưa lớn ở đây thường do các hình thế thời tiết như bão, áp thấp nhiệt đới, dải hội tụ nhiệt đới, không khí lạnh gây ra. Các hình thế thời tiết này khi có sự kết hợp với nhau sẽ gây ra mưa đặc biệt lớn. NGHIÊN CỨU CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TT HUẾ 33 3.3. Chế độ thủy văn, hải văn - Nhân tố thủy văn + Hình thái sông ngòi: Thừa Thiên Huế là một trong những khu vực có mật độ sông suối cao. Do đó, tần suất ngập lụt ở khu vực này rất lớn. Đa số các hệ thống sông trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có chiều dài ngắn, lòng sông dốc và lưu vực hẹp. Đại bộ phận sông suối chính bắt nguồn từ vùng núi cao, ở thượng nguồn lòng sông sâu hình chữ V với các vách núi dốc đứng; ở đồng bằng dòng sông uốn khúc, có sự đổi hướng liên tục và đổ vào phá Tam Giang - Cầu Hai trước khi chảy ra biển. Những đặc trưng hình thái kết hợp với địa hình lưu vực các sông đã hình thành một chế độ thủy văn phức tạp gây lũ lớn vào mùa mưa và thiếu nước trong mùa ít mưa. + Chế độ thủy văn: Lượng dòng chảy, đặc biệt là dòng chảy lũ cũng tăng rất cao. Modun dòng chảy năm và dòng chảy lũ ở đây lớn nhất lãnh thổ nước ta. Hệ số điều tiết tự nhiên (ϕ) (quan hệ giữa nước mặt và nước ngầm) của lưu vực sông trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế dao động từ 0,35-0,45 thuộc loại kém, đây là một trong những yếu tố tác động sinh lũ và nguy cơ xảy ra lũ lớn ở khu vực này rất cao. Sự đóng mở cửa biển không theo quy luật cụ thể mà chủ yếu phụ thuộc động lực dòng chảy của sông vào các mùa bão lũ. Do đó, đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thoát lũ của sông, đồng thời làm biến động lòng dẫn gây nên hiện tượng xói lở bờ sông. - Nhân tố hải văn: + Sóng: Ở vùng bờ biển Thừa Thiên Huế, khi có bão, gió mùa Đông Bắc tác động mạnh có thể phát sinh sóng lớn cao tới 4 - 5 m, thậm chí lớn hơn; sóng cao, tác động gần như vuông góc với bờ biển gây ra hiện tượng xói lở. + Chế độ thủy triều: vùng biển ven bờ chỉ kéo dài xấp xỉ 127km nhưng chế độ thủy triều biến đổi khá phức tạp. Từ Điền Hương đến cửa Thuận An, thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều với hầu hết số ngày trong tháng là bán nhật triều. Chế độ thủy triều có ảnh hưởng đến tai biến xói lở bờ biển, mực nước biển dâng và xâm nhập mặn. 3.4. Lớp phủ thổ nhưỡng Năm nhóm đất chủ yếu ở đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế là đất cồn cát và đất cát biển, đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất lầy và than bùn. Trừ loại đất cát, các loại đất khác ở vùng đồng bằng có khả năng trữ nước từ khá đến lớn. Do việc sử dụng đất không hợp lý, việc phá rừng đầu nguồn dẫn đến việc hình thành các dải đất bạc màu, kém dinh dưỡng, không có khả năng thấm giữ nước ở vùng đồi núi NGUYỄN THÁM – PHAN ANH HẰNG 34 phía tây đồng bằng. Nước mưa tự do chảy về vùng đồng bằng, dồn ứ lại ven chân các cồn cát ở phía đông, tạo lũ lụt cục bộ. Trên đồng bằng tồn tại các hố trũng, đầm phá, đặc biệt các cồn cát ven biển trở thành những gờ đê tự nhiên ngăn đường thoát lũ của đồng bằng. Thêm việc cát bồi lấp cửa sông làm cho nước lũ khó thoát được ra biển. 3.5. Lớp phủ thực vật Rừng tự nhiên bị tàn phá trong chiến tranh và khai thác bừa bãi sau này. Diện tích rừng giảm đi nhanh chóng, rừng giàu giảm 5951 ha mà chủ yếu là ở vành đai nhiệt đới (ở độ cao dưới 800m), diện tích rừng trung bình và rừng nghèo cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Trong 4 năm 2006-2009, diện tích rừng bị cháy bình quân 33,4 ha/năm. Năm 2009, có 14 vụ cháy rừng, diện tích rừng bị thiệt hại 15,5 ha. Việc suy giảm nghiêm trọng lớp phủ rừng là một tác nhân quan trọng làm giảm khả năng điều tiết nước và khiến nguy cơ các tai biến thiên nhiên xảy ra ngày càng trầm trọng hơn. 3.6. Các hoạt động nhân sinh Các hoạt động của con người như xây dựng các công trình điều tiết, sử dụng nước trên sông; khai thác rừng bừa bãi; sử dụng đất không hợp lý như khai thác đất dốc vào mục đích làm nương, rẫy, sự bùng nổ về nhà ở, đất ở, đất xây dựng hiện xâm phạm vào cả vùng canh tác lúa nước, vùng đất có chức năng chậm lũ; việc ngăn bờ nuôi trồng thuỷ sản làm thu hẹp lòng dẫn, cửa thoát lũ, vi phạm vào hành lang thoát lũ, khẩu độ cầu, cống trên tuyến giao thông... đã tác động trực tiếp đến sự gia tăng của thiên tai lũ lụt, xói lở bờ sông... Việc xây dựng hệ thống đường xá giao thông, đặc biệt là quốc lộ số 1 và tuyến đường sắt Bắc - Nam, thực sự đang là những vật cản lớn cho việc thoát lũ và gây ngập lụt nghiêm trọng ở vùng đồng bằng. 4. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TÁC HẠI CỦA CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN THỪA THIÊN HUẾ 4.1. Các giải pháp công trình * Các giải pháp công trình phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại do tai biến lũ lụt gây ra: - Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các hồ chứa, đập thượng nguồn đa mục tiêu. - Củng cố và duy trì hệ thống đê điều, kiên cố hóa kênh mương đảm bảo đáp ứng phòng lũ với tần suất 10%. - Tạo hành lang thoát lũ an toàn bằng cách nắn thẳng khúc sông cong, xác định hành lang ổn định trên sông, tạo các cống và khẩu độ tiêu thoát. - Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật tại các vùng trọng yếu, phát triển, xây dựng công trình công cộng và nhà ở kiên cố để vượt lũ. - Cần có các giải pháp chống bồi lấp cửa sông, nạo vét lòng dẫn, khơi dòng các kênh, hói, tăng cường khả năng thoát lũ, kết hợp giao thông thủy. NGHIÊN CỨU CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TT HUẾ 35 - Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn để giảm thấp cường độ lũ lụt, trồng cây chắn sóng khu vực cửa sông, ven biển. * Các giải pháp công trình phòng tránh thiên tai xói lở bờ sông Tại một số khu vực đang có nguy cơ xói lở cao, cần khẩn trương xây dựng các công trình kè bờ: Tiến hành nạo vét ở Cư Chánh - Thuỷ Xuân - TP Huế, xây kè lát mái ở bờ trái sông Hương (tại Xước Dũ - Hương Hồ - Hương Trà, Long Hồ Hạ - Hương Hồ - Hương Trà, gần Chùa Linh Mụ, Địa Linh - Hương Vinh - Hương Trà, Thanh Phước - Hương Phong - Hương Trà, Thuận Hòa A - Hương Phong - Hương Trà), ở bờ phải sông Hương (tại Phường Kim Long - TP Huế, Tiên Nộn - Phú Mậu - Phú Vang), ở hai bờ sông Hương (Vỹ Dạ - TP Huế), ở bờ trái sông Bồ (Liêu Cốc Hạ - Quảng Thọ, Dương Sơn - Quảng Thọ), ở bờ phải sông Bồ (Thanh Xuân - Hương Việt). * Các giải pháp công trình phòng tránh thiên tai xói lở bờ biển Đối với đoạn bờ từ Hải Dương (Hương Trà) đến cửa Hoàn Duân (Phú Vang) với chiều dài đoạn bờ cần bảo vệ vào khoảng 5,2km, cần xây dựng khoảng 26 kè mỏ hàn hình chữ T. Đối với Cửa Thuận An, để ổn định, thông luồng và thoát lũ, cần có các giải pháp: Phía trong cửa sông cần xây kè áp mái bảo vệ bờ cửa ổn định theo tuyến luồng đã hình thành sau lũ cuối năm 1999. Phía ngoài cửa sông cần xây dựng 2 mỏ hàn song song với tuyến luồng nhằm ngăn cát vận chuyển từ phía Tây Bắc và Đông Nam vận chuyển vào bồi lấp luồng. Đoạn bờ từ cửa Thuận An đến Hòa Duân có thể áp dụng biện pháp nuôi bãi nhân tạo để chống xói lở, tức là bổ sung cát vào vùng bờ đang bị xói lở. * Các giải pháp công trình phòng tránh hạn hán, xâm nhập mặn, mực nước biển dâng - Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các hồ chứa, đập thượng nguồn đa mục tiêu. Các hồ chứa bên cạnh nhiệm vụ chống lũ cho vùng hạ du, còn có vai trò đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất vào mùa khô, giảm bớt thiệt hại do tai biến hạn hán, xâm nhập mặn. - Việc đắp đê sông, biển là một biện pháp công trình phổ biến trong phòng tránh hạn hán, ngăn mặn và hiện tượng nước biển dâng. - Các địa phương nhanh chóng tiến hành nạo vét, khơi thông dòng chảy, lắp thêm ống dẫn nước công suất lớn, tải nước về các trạm bơm. - Duy tu bảo dưỡng các trạm bơm thuyền để có kế hoạch bơm chuyền nước cho một số vùng khi mực nước sông xuống thấp. - Vận hành tốt công trình Thảo Long, Cửa Lác. 4.2. Giải pháp phi công trình - Xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất về thiên tai ở Thừa Thiên Huế. NGUYỄN THÁM – PHAN ANH HẰNG 36 - Xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đồng bộ từ tỉnh đến xã. - Xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới quan trắc khí tượng, thủy văn, hải văn và các hiện tượng khí tượng thủy văn nguy hiểm như: bão, lũ, xói lở bờ sông, xói lở bờ biển. - Quản lý, tăng cường chức năng của lớp phủ thực vật nhằm hạn chế dòng chảy mặt, tăng dòng thấm, hạn chế tác hại của lũ. - Tăng cường chức năng điều tiết dòng chảy của lớp vỏ phong hóa, thổ nhưỡng. - Ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. - Qui hoạch và điều chỉnh các điểm định cư, các điểm dân cư. - Duy trì tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. - Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, nhất là ở vùng nông thôn. - Để phòng ngừa tai biến lũ lụt, xói lở bờ sông, thường xuyên kiểm tra, đánh giá khả năng chứa nước và mức độ an toàn của hệ thống hồ đã có. - Cần tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác, vận chuyển và kinh doanh cát, sỏi trên địa bàn tỉnh. - Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ thuật và sử dụng vật liệu mới vào phục vụ công tác phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra. - Tăng cường hợp tác quốc tế và trong nước trong lĩnh vực phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. 5. KẾT LUẬN Đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế là nơi hứng chịu nhiều tai biến thiên nhiên như lũ lụt, xói lở bờ sông, bờ biển, hạn hán, xâm nhập mặn, mực nước biển dâng. Dưới tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, các tai biến thiên nhiên diễn ra với quy mô, cường độ và tần suất ngày càng lớn. Các nhân tố tác động gây tai biến thiên nhiên ở dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế bao gồm: nhân tố khí tượng, khí hậu; điều kiện địa chất, địa hình, địa mạo; nhân tố chế độ thủy văn, hải văn; lớp phủ thổ nhưỡng; lớp phủ thực vật; các hoạt động nhân sinh. Từ việc xác định được các nguyên nhân chính gây ra các tai biến thiên nhiên ở dải đồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế, đề xuất các giải pháp thuộc hai nhóm công trình và phi công trình nhằm giảm thiểu thiệt hại do tai biến thiên nhiên gây ra với mục tiêu lâu dài là chủ động phòng, tránh, thích nghi để phát triển. NGHIÊN CỨU CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở DẢI ĐỒNG BẰNG VEN BIỂN TT HUẾ 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Cư, Phạm Huy Tiến (2003). Sạt lở bờ biển miền Trung Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [2] Đài KTTV khu vực Trung Trung Bộ (1998-2008). Đặc điểm KTTV môi trường khu vực Trung Trung Bộ năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008. Đà Nẵng. [3] Sở KHCN & MT Thừa Thiên Huế (2004). Đặc điểm khí hậu thủy văn Thừa Thiên Huế. NXB Thuận Hóa, Huế. [4] Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn tỉnh Thừa Thiên Huế (2001). Tập số liệu khí hậu tỉnh Thừa Thiên Huế. Huế. [5] Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2005). Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Tự nhiên. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. Title: A STUDY OF NATURAL CATASTROPHES IN RANGE OF THE COASTAL PLAIN IN THUA THIEN HUE PROVINCE Abstract: The range of the coastal plain of Thua Thien Hue is very sensitive to natural disasters and impacts of climate change alike. Every year, Thua Thien Hue province generally and the range of the coastal plain in particular have to bear severe consequences caused by natural disasters. Especially in recent years, the natural catastrophes such as typhoons, floods, riverbank erosion, coastal erosion, drought, salinization, rising sea, etc have occurred with a significantly increasing intensity and frequency, causing a great loss of residents' lives and property, harming the relics of the old capital which has been recognized as a UNESCO cultural heritage of humans, as well as having a bad influence on the ecological environment. TS. NGUYỄN THÁM Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế PHAN ANH HẰNG Khoa Địa lý, Trường Đại học dân lập Phú Xuân, Huế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf14_197_nguyentham_phananhhng_07_phan_anh_hang_8495_2020980.pdf
Tài liệu liên quan