Mô hình ngân hàng Trung Ương liên hệ với Việt Nam

Mô hình ngân hàng trung ương liên hệ với Việt Nam : Lọi ích và hạn chế A. Mô hình ngân hàng trung ương: I. Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ: 1. Khái niệm Mô hình NHTW độc lập với chính phủ là mô hình trong đó NHTW không chịu sự chỉ đạo của chính phủ mà là quốc hội. Quan hệ giữa NHTW và chính phủ là quan hệ hợp tác 2. Ưu điểm NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác NHTW do có vai trò hết sức quan trọng tới đời sống kinh tế nên không thể đặt dưới quyền chính phủ được mà phải do quốc hội kiểm soát.

pdf9 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5713 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình ngân hàng Trung Ương liên hệ với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài thuyết trình số 7: mô hình ngân hàng trung ương liên hệ với Việt Nam Nhóm thuyết trình: 1. Bùi Việt Cường 2. Trịnh Minh Huy 3. Mai Phạm Luân 4. Dư Ngọc Anh 5. Thiều Ngọc Anh Nội dung: A. Mô hình ngân hàng trung ương: I. Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ: 1. Khái niệm Mô hình NHTW độc lập với chính phủ là mô hình trong đó NHTW không chịu sự chỉ đạo của chính phủ mà là quốc hội. Quan hệ giữa NHTW và chính phủ là quan hệ hợp tác 2. Ưu điểm NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ mà không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác NHTW do có vai trò hết sức quan trọng tới đời sống kinh tế nên không thể đặt dưới quyền chính phủ được mà phải do quốc hội kiểm soát. - Tăng hiệu quả các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài chính. - Được trao quyền lựa chọn mục tiêu mà không chịu sự can thiệp, chỉ đạo từ Chính phủ hay cơ quan liên quan khác: rõ ràng, cụ thể và thống nhất - Quyết định trong việc thực thi các chính sách tiền tệ, nên: tăng tính chủ động và giảm độ trễ của CSTT - Có thể từ chối trong mục tiêu thâm hụt ngân sách - Tự chủ về tổ chức và cơ chế tài chính, nhân sự - Trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch 3. Nhược điểm Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó có sự kết hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ - do NHTW thực hiện và chính sách tài khoá - do chính phủ chi phối để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả. 4. Ví dụ thực tiễn Các NHTW theo mô hình này là Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ, NHTW Thụy sĩ, Anh, Pháp, Đức, Nhật bản và gần đây là NHTW châu Âu (ECB). Xu hướng tổ chức ngân hàng trung ương theo mô hình này đang càng ngày càng tăng lên ở các nước phát triển. Lý do nhtw độc lập có thể hoạt động ở các nước nêu trên Đầu tiên, một ngân hàng được xem là độc lập hơn nếu được bổ nhiệm giám đốc điều hành của hội đồng quản trị ngân hàng trung ương chứ không phải do thủ tướng hoặc bộ trưởng tài chính, không chịu sa thải, và có một lâu dài của văn phòng. Những khía cạnh này giúp cách nhiệt các ngân hàng trung ương từ áp lực chính trị. Thứ hai, độc lập cao lớn hơn mức độ mà quyết định chính sách được thực hiện độc lập với sự tham gia của chính phủ. Thứ ba, một ngân hàng trung ương độc lập hơn nếu các trạng thái điều lệ của nó mà giá cả ổn định là mục tiêu duy nhất hoặc chủ yếu của chính sách tiền tệ. Thứ tư, độc lập là lớn hơn nếu có những hạn chế về khả năng của chính phủ để vay từ các ngân hàng trung ương. Đầu tiên, các nghiên cứu của ngân hàng trung ương độc lập và lạm phát thường không kiểm soát đầy đủ các yếu tố khác có thể tài khoản cho đất nước qua sự khác biệt trong kinh nghiệm của lạm phát. Các nước với các ngân hàng trung ương độc lập có thể khác nhau theo những cách mà hệ thống có liên quan đến lạm phát trung bình. Sau khi kiểm soát các yếu tố quyết định tiềm năng khác của lạm phát, Campillo và Miron (1997) thấy vai trò nhỏ cho NHTW độc lập. Thứ hai, mức độ xử lý của một quốc gia độc lập của ngân hàng trung ương là ngoại sinh có thể có vấn đề. Posen (1993) đã lập luận mạnh mẽ rằng cả lạm phát thấp và độc lập của ngân hàng trung ương phản ánh sự hiện diện của một cử tri mạnh mẽ đối với lạm phát thấp. Lạm phát trung bình và mức độ độc lập của ngân hàng trung ương đang cùng nhau xác định bởi sức mạnh của cử tri chính trị trái ngược với lạm phát, trong sự vắng mặt của các cử tri, chỉ cần tăng một ngân hàng trung ương độc lập sẽ không gây ra lạm phát trung bình giảm. 5. Khó khăn cho mô hình nhtw độc lập:  nhtw khó có thể tránh được sự chi phối chính trị  khó thực hiện hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ II. Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ: 1) Khái niệm: Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ là mô hình trong đó NHTW nằm trong nội các chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân sự, về tài chính và đặc biệt về các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Theo mô hình này, Ngân hàng trung ương là một bộ máy của Chính phủ, là một cơ quan chức năng của Chính phủ, chịu sự kiểm soát toàn diện của Chính phủ và thực hiện mọi chính sách thể chế của chính phủ. Sự đề xuất ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ xuất phát từ quan điểm cho rằng tiền tệ là một bộ phận của chính sách cai trị về tài chính, tiền tệ là phương tiện của chính quyền. 2) Ưu điểm: Theo mô hình này, chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liều lượng tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển. 3) Nhược điểm: Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. 4) Các nước đang sử dụng mô hình này: phần lớn là các nước Đông Á (Hàn quốc, Đài loan, Singapore, Indonesia, Việt nam ...) hoặc các nước thuộc khối XHCN trước đây. ở Việt Nam cũng được áp dụng mô hình tổ chức Ngân hàng trung ương như trên. Điều 1 của pháp lệnh Nhà nước đã khẳng định: “Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính Phủ)…”. Sự lớn mạnh nhanh chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như Singapore, Hàn quốc, Đài loan...nơi NHTW là một bộ phận trong guồng máy chính phủ là một bằng chứng có sức thuyết phục về sự phù hợp của mô hình tổ chức này đối với truyền thống văn hoá Á đông. B. Ngân hàng trung ương Việt Nam: Nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì Ngân hàng Trung ương (NHTW) chính là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khicó một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế. Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, NHTW cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. 1) Lịch sử hình thành ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1951 – 1954: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên: Phát hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính, Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước, Phát triển tín dụng ngân hàng. 1955-1975: cả nước kháng chiến chống Mỹ, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: Củng cố thị trường tiền tệ, Phát triển công tác tín dụng 1875 -1985: Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. 1986 đến nay: Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân hàng ( Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp, trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng trung ương; các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật. 2) Mô hình hiện nay của NHTW: NEWS: Ngày 16/6/2010 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân lựa chọn mô hình: Xét về bản chất của NHTW: NHTW vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành giấy bạc Ngân hàng vào lưu thông, vừa thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tính dụng – ngân hàng. Tức mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, điều hòa lưu thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhàm đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm và kiểm soát lạm phát. Dựa vào chức năng của NHTW ta thấy ở bất cứ mô hình nào NHTW cũng có chứ năng độc quyền phát hành tiền giấy, nên tiêu thức phát hành độc quyền giấy bạc Ngân hàng bị loại trừ. Dựa vào chức năng điều hành lưu thông tiền tệ, quản lý hệ thống Ngân hàng, ổn định kinh tế vĩ mô hay vấn đề được bàn luận sôi nổi hiện nay là kiềm chế lạm phát thì ở mỗi mô hình lại cho một kết quả khác nhau. Về tiêu thức phân biệt giữa các mô hình tựu chung lại chính là sự độc lập của NHTW với chính phủ Chúng ta sẽ dựa trên hai tiêu thức trên nhằm liên hệ với mô hình NHTW tại Việt Nam. Mối liên hệ của hai tiêu thức trên là gì, đó chính là sự độc lập của NHTW sẽ ảnh hưởng đến khả năng quản lý ổn định kinh tế vĩ mô của NHTW. Thật vậy, điều này đã được chứng minh bằng thực tiễn và có nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập tới vấn đề này. Không nói đâu xa, ngay trong sách giáo trình Tài chính tiền tệ - chủ biên: Pgs.ts Sử Đình Thành+pgs.ts Vũ Thị Minh Hằng đã nêu 1 công trình nghiên cứu đáng giá, đó là công trình của Alberto Allesina và Lawrence Summers. (nói 1 chút về công trình này). Và công trình của Pollard Nhưng độc lập không có nghĩa là tách ra khỏi Chính phủ, mà nó thể hiện bởi 3 tiêu thức cơ bản là mức độ quyết định của NHTW trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, mức độ tự chủ về ngân sách, ảnh hưởng của áp lực chính trị tác động vào các vấn đề tổ chức và hoạt động của NHTW. Tính độc lập sẽ khác với việc hiểu đơn giản là độc lập về mặt vị thế. (Nêu ví dụ về áp lực chính trị mà hiện nay NHTW phải đảm nhận, nhừ phát nhanh nhưng bền vững, giảm lạm phát đồng thời hạ lãi suất …) Việc lựa chọn mô hình nào, NHTW độc lập như thế thào ko những chỉ dựa vào những tiêu thức trên mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của từng nước. Nước ta có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Kinh tế thụi trường” mang tính khách quan, “định hướng xã hội chủ nghĩa” mang tính chủ quan, để đưa một sự việc khách quan thành chủ quan cần có sự tác động của một chủ thể bên ngoài và đó không ai khác chính là chính phủ, điều này càng xác định rõ hơn việc lựa chọn mô hình NHTW của nước ta. Để đạt được mục tiêu chiến lược của quốc gia thì việc NHTW trực thuộc chính phủ là … hợp lý! Tuy nhiên không vì lựa chọn mô hình này ma ta làm lơ với sự độc lập của NHTW, nếu không chúng ta sẽ phải chịu hậu quả nặng nề trước sự biến động không ngừng của thị trường tài chính nói riêng hay cả nền kinh tế toàn cầu nói chung. Để tồn tại trước những chấn động không ngừng này bắt buộc NHTW phải có phản ứng nhanh nhạy trước những biến động đó, mà sự nhanh nhạy, linh hoạt này lại gắn liền với sự độc lập của NHTW. Do đó dù lựa chọn mô hình NHTW trực thuộc chính phủ thì cũng rất cần thiết nâng cao tối đa tính độc lập của NHTW, bởi có thế NHTW mới đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô hiệu quả, đặc biệt trong giai đoạn kiềm chế lạm phát hiện nay. Thực sự đề tài chỉ giới hạn ở việc liên hệ với VIệt Nam nên nhóm không đi sâu vào phân tích sự độc lập của Ngân hàng trung ương nhưng nhóm cũng cung cấp một số thông tin nhỏ về vấn đề này. Theo một nghiên cứu được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố vào tháng 12/2004, về cơ bản, các NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ độc lập tự chủ gồm: (i) Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động; (ii) Độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động; (iii) Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành; và (iv) Độc lập tự chủ hạn chế. Sau đây là một số nhận xét cũng như đề xuất của nhóm về việc tăng tính độc lập của NHTW: Một trong những lý do ảnh hưởng lớn đến tính độc lập của NHTW chính là mục tiêu của chính phủ về chính sách tiền tệ - tài chính – ngân hàng. Ý kiến ở đây không phải về mục tiêu là gì và mục tiêu phù hợp không mà ý kiến của nhóm muốn nói về mục tiêu như thế nào. Có nghĩ là việc đưa ra mục tiêu thiếu tính cụ thể, nhất quán, gây xung đột nhiều. (Nêu ví dụ về giảm lạm phát, tăng trưởng ổn định). Về việc nâng sự độc lập của NHTW tới mức tách bạch khỏi chính phủ có lẽ nước ta vẫn chưa đủ điều kiên về khả năng quản lý cũng như cơ sở hạ tầng. Và cũng không đảm bảo việc tách bạch khỏi chính phủ có mang lại hiệu quả cao đối với các mục tiêu do chính phủ đề ra không. Lợi ích từ việc sử dụng mô hình NHTW trực thuộc chính phủ của Việt Nam:  Tạo được sự đồng bộ trong mục tiêu phát triển kinh tế với chính phủ  Tương lai để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN với tư cách là một NHTW trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết do đó việc sử dụng mô hình này chính là nền tảng cho những thay đổi mang tính độc lập hơn của NHTW sau này.  Giúp chính phủ thuận lợi trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra, giảm thâm hụt ngân sách cho chính phủ.  Tạo niềm tin vào hệ thống ngân hàng Hạn chế từ việc sử dụng mô hình:  Điểm hạn chế chủ yếu của mô hình là NHTW sẽ mất đi sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính phủ có thể làm cho NHTW xa rời mục tiêu dài hạn của mình là ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ.  Về lí thuyết khi áp dụng mô hình NHTW trực thuộc chính phủ thì tỷ lệ lạm pháp khó duy trì ở tỷ lệ thấp hơn là mô hình độc lập với chính phủ vì chính phủ có thể lợi dụng NHTW để bù đắp thâm hụt ngân sách.  Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Làm giảm tính linh hoạt trong việc điều hành thực hiện CSTT quốc gia, thậm chí đôi khi gây ra sự chậm trễ trong chính sách phản ứng trước các diễn biến khó lường trên thị trường tài chính tiền tệ ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền  Vì là cơ quan của Chính phủ nên có khi NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT, chẳng hạn như tái cấp vốn để khoanh, xoá nợ các khoản vay của NHTM Nhà nước... như vậy NHNN Việt Nam chỉ được coi là cơ quan quản lý hành chính nhà nươc, giống như các bộ khác chứ không phải là thiết chế đặc biệt dù tổ chức, hoạt động của NHNN ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của 1 quốc gia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfMô hình ngân hàng trung ương liên hệ với Việt Nam - Lọi ích và hạn chế.pdf