Khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1 phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu tại Nghệ An

Như vậy chủng FNA1 có khả năng phát triển tốt và phân hủy DDT ở nồng độ rất cao trong thời gian ngắn. Còn rất nhiều chủng vi khuẩn và nấm khác đã được phát hiện có khả năng phân hủy DDT rất tốt với nồng độ rất thấp từ 0,1 – 2 ppm như loài Rhodotorula gracilis, Torulopsis utilis phân hủy lần lượt 97 %, 94 % DDT với nồng độ ban đầu là 2ppm, còn loài Blepharisma intermedium phân hủy 90 % DDT với nồng độ ban đầu là 1ppm. Bidlan và Manonmani đ ã ch ứng minh chủng Serratia marcescens DT-1P làm giảm 50% DDT sau 48 giờ với nồng độ ban đầu là 5ppm. Kanoknit phân lập được 167 chủng từ tỉnh Songkhla, Thái Lan có khả năng phát triển trên môi trường có chứa 25ppm DDT. Chỉ có năm chủng sinh trưởng và phát triển và tạo vòng phân hủy ở nồng độ 100ppm DDT, sau 10 ngày nuôi cấy năm chủng này có khả năng phân loại bỏ từ 20,3 % đến 37,4 % DDT với nồng độ ban đầu là 25 ppm. Chúng mình trên cho thấy khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1 cao hơn hẳn nhiều chủng đã được công bố [12].

pdf7 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1 phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu tại Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên KHẢ NĂNG PHÂN HỦY DDT CỦA CHỦNG NẤM SỢI FNA1 PHÂN LẬP TỪ ĐẤT Ô NHIỄM HỖN HỢP THUỐC TRỪ SÂU TẠI NGHỆ AN Đào Thị Ngọc Ánh1, Đặng Thị Cẩm Hà1* 1 Viện Công nghệ Sinh học – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam TÓM TẮT Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về khả năng của vi sinh vật có thể phân hủy thuốc diệt côn trùng DDT và các dẫn xuất là DDD và DDE .v.v, ở Việt Nam những công trình về vấn để này vẫn rất khiêm tốn. Kết quả nhận được trong bài báo này cho thấy, chủng FNA1 được phân lập từ đất ô nhiễm thuốc trừ sâu có khả năng phát triển mạnh trên môi trường chứa DDT (200 ppm). Khuẩn lạc FNA1 có dạng bông xốp, màu xanh lá mạ, viền ngoài màu trắ . Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1 sau 7 ngày nuôi cấy trên môi trường czapek nghèo có chứa 200 ppm DDT bằng phương pháp sắc ký khối phổ, kết quả cho thấy chủng này đã phân hủy 92,69 % DDE, 97,19 % DDD, 97,23 % DDT so với mẫu đối chứng. Từ khóa: DDT, phân hủy sinh học, FNA1. ∗ Ở nước ta, theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2007 thì hi ện nay nước ta còn 108 tấn hoá chất bảo vệ 1. MỞ ĐẦU DDT [1,1,1-trichloro-2,2-bis- (pchlorophenyl)ethan] là hợp chất hữu cơ bền vững khó phân huỷ, rất độc hại đối với con người và môi trường. Chúng được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới trong nhiều thập niên trước với mục đích trừ sâu và diệt muỗi truyền bệnh sốt rét. Hiện nay đã bị cấm sử dụng nhưng DDT vẫn còn tồn dư một lượng rất lớn trong tự nhiên gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, gây ra những hậu quả lâu dài đến sức khoẻ con người và môi trường. Do đó v iệc nghiên cứu để tìm ra giải pháp tẩy độc các vùng nhiễm độc là một nhiệm vụ hết sức cần thiết ở rất nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Mexico v.v. trong đó có cả ở Việt Nam. ∗ Đặng Thị Cẩm Hà, Tel: 04. 38360892, E-mail: dangcha80@gmail.com thực vật nguy hại, chiếm 8 trong 12 hợp chất hữu cơ khó phân huỷ (POPs) và 55.000m3 đất nhiễm hoặc lẫn các loại hoá chất này, trong đó có 1,1,1-trichloro- 2,2-bis (p-chlorophenyl) ethane (DDT) nằm rải rác ở 23 tỉnh, đặc biệt diện tích đất bị ô nhiễm nặng được tìm thấy tại các địa phương như Nghệ An (Kim Liên I và II, Nam Đàn). Tại Nghệ An DDT vẫn còn trong một nhà kho từ năm 1965 đến năm 1985. Nồng độ của DDT thay đổi từ 3,38 đến 960,6 mg/kg trong các mẫu đất và từ 0,00012 đến 0,00168 mg/l trong các mẫu nước. Trong nhiều năm liên tiếp, mùi thuốc DDT nồng nặc bay xa đến 600 mét. Đã có 25 người chết vì ung thư, và 22 trường hợp dị thai được ghi nhận [7]. Xử lý các chất ô nhiễm bằng phương pháp phân hủy sinh học hiện nay đang được xem là một hướng đi mới mẻ và nhiều triển vọng trong việc giải quyết các vấn đề ô nhiễm trong đó có ô nhiễm DDT. Phương pháp này dựa trên nguyên tắc Đào Thị Ngọc Ánh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 46 – 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên kích thích các tập đoàn vi sinh vật bản địa có khả năng phân hủy các chất ô nhiễm, nên công nghệ này rất an toàn, thân thiện với hệ sinh thái và môi trường. Phương pháp phân hủy sinh học là phương pháp ít phức tạp, không đòi hỏi các điều kiện môi trường quá khắt khe, chi phí thấp dó đó rất phù hợp với điều kiện nước ta. Cơ chế của quá trình phân hủy sinh học DDT và đồng phân của nó có thể là nhờ quá trình loại clo hoặc cắt vòng. Các vi sinh vật có khả năng chuyển hóa DDT và các đồng phân của nó (o,p,-DDT, p,p,-DDT) thành dạng bớt độc hơn, không độc hoặc khoáng hóa hoàn toàn thành CO2 và nước. Hiện nay, trên thế giới có nhiều tác giả đã phân lập được vi sinh vật có khả năng phân hủy DDT chủ yếu là vi khuẩn và nấm. Một số chủng nấm có khả năng phân hủy DDT được biết đến như Nocardia .sp, Phanerochaete chrysosporium, Trichoderma viridae v.v.[11]. ết quả nghiên cứu phân lập và khả năng phân huỷ DDT của nấm sợi phân lập từ đất ô nhiễm thuốc trừ sâu ở Nghệ An. Loài nấm này có khả năng phân hủy DDT và các đồng phân của nó ở mức độ cao so với các chủng đã đư ợc nghiên cứu và công bố. 2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Nguyên liệu Ba chủng nấm sợi được phân lập từ đất ô nhiễ ợp DDT, DDD, DDE, Hexachlorocyclorohexane (HCH), Heptachlor, Aldrin, Diendrin, Endrin ở nồng độ cao của Nam Đàn, Nghệ An. Các chủng nấm này đ ược đặt tên lần lượt là FNA1, FNA2, FNA3. Đây là 3 chủng nấm sợi trong bộ giống của phòng Công nghệ Sinh học Môi trường – Viện Công nghệ Sinh học, Viện KH&CN Việt Nam [9]. Hóa chất sử dụng để nghiên cứu là các hóa chất tinh khiết, đảm bảo chất lượng được nhập ngoại từ các công ty hóa chất có uy tín như Sigma, Merk .v.v. Thiết bị sử dụng có độ chính xác, tin cậy cao của Viện Công nghệ Sinh học và Viện Công nghệ Môi trường – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 2.2. Phương pháp Nghiên cứu hình thái khuẩn lạc và hình thái bào tử nấm sợi Để nghiên cứu hình thái của nấm các chủng nấm sạch được cấy trên môi trường Czapek nghèo, thành phần môi trường gồm có (g/lít): 2,4g KNO3, 0,42g MgSO4, 0,44g KH2PO4, 0,56g Na2HPO4, 1g NaCl, 0,4g NaNO3, 0,1g KCl, 0,001g FeSO4, 6g Saccharose. Trong môi trường nuôi cấy có bổ sung 100ppm hỗn hợp DDT, DDD và DDE, nuôi cấy ở 30oC. Sau 5 ngày nấm phát triển tốt, chúng được quan sát và chụp ảnh khuẩn lạc trên đĩa thạch. Hình thái bào tử của các chủng nấm được quan sát và chụp ảnh dưới kính hiển vi quang học (Nikon eclipse 50i, Nhật Bản) với độ phóng đại 40 lần. Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ DDT đến khả năng sinh trưởng của chủng nghiên cứu Với mục đích tìm n ồng độ thích hợp nhất cho sinh trưởng của chủng nấm được chọn thì nghiên cứu khảo sát nồng độ DDT cũng được tiến hành trên môi trường Czapek nghèo có bổ sung hỗn hợp DDT, DDD, DDE lần lượt là 50ppm, 100ppm, 200ppm, và 300ppm. Từ kết quả của nghiên cứu sẽ lựa chọn nồng độ thích hợp để tiến hành các khảo sát về khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi trên. Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi Khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1 được xác định sau 7 ngày nuôi lắc 180 vòng/phút ở 30oC trên môi trường Czapek nghèo có bổ sung nồng độ DDT thích hợp. Độ tồn lưu DDT, DDD, DDE sau 7 ngày nuôi cấy được tách chiết và phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp (HPLC), sử dụng máy GC/ECD 2010 của hãng Shimadzu Nhật Bản. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Đào Thị Ngọc Ánh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 46 – 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3.1. Các đặc điểm hình thái khuẩn lạc và cuống sinh bào tử của FNA1, FNA2, FNA3 Sau 5 ngày nuôi cấy trên môi trường Czapek nghèo có bổ sung DDT hình thái khuẩn lạc của 3 chủng nấm được quan sát và miêu tả ở hình 1. Chủng FNA1 có khuẩn lạc mọc lan rộng, đường kính 2 cm, khuẩn ty khí sinh màu xanh lá mạ viền ngoài màu xanh trắng, bông xốp. Khuẩn lạc chủ , đường kính 1,2 cm, bề mặt khuẩn ty khí sinh chắc, có múi, màu xanh rêu đậm, viền ngoài trắng, tâm có giọt tiết màu đen. Chủng FNA3 có khuẩn lạc tròn, rộng 1,5 cm, viền ngoài khẩn ty khí sinh có màu trắng hơi khứa, trong màu nâu, sinh giọt tiết màu nâu đậm. Khuẩn ty cơ chất của cả 3 chủng trên đều màu trắng. Cuống sinh bào tử (Hình 1). Với các đặc điểm về hình thái khuẩn lạc và bào tử n h ư trên có thể xếp 3 chủng nấm sợi này vào chi Aspergillus. Do chủng FNA1 phát triển nhanh nhất, tạo sinh khối lớn nên đã được chọn để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo. 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ DDT đến khả năng sinh trưởng của chủng FNA1 Để lựa chọn môi trường nuôi cấy với nồng độ DDT thích hợp môi trường Czapek nghèo vẫn tiếp tục được sử dụng và các nồng độ DDT khác nhau được bổ sung vào bình nuôi cấy. Sinh khối nấm được sấy khô đến khối lượng không đổi và cân bằng cân phân tích sau 7 ngày nuôi cấy. Kết quả cho thấy ở nồng độ 200 ppm chủng FNA1 phát triển tốt nhất (Hình 2, Hình 3). Tên chủn g Hình thái khuẩn lạc Hình thái cuống sinh bào tử FNA 1 FNA 2 FNA 3 Hình 1. Hình thái khuẩn lạc và cuống sinh bào tử chủng FNA1, FNA2, FNA3 Hình 2. Khả năng phát triển của chủng FNA1 trên môi trường czapek nghèo chứa DDT 3.3. Khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1 Sau khi xác định được ở nồng độ DDT là 200 ppm chủng FNA1 phát triển tốt nhất, nghiên cứu đánh giá khả năng phân hủy Đào Thị Ngọc Ánh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 46 – 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên DDT đã được tiến hành bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp để phân tích độ tồn lưu của DDT và các đồng phân của nó. Sau 7 ngày nuôi cấy mẫu không có vi sinh vật và có FNA1 đã đư ợc so sánh, kết quả phân tích được thể hiện trên sắc ký đồ ở hình 4 (A, B). Khả năng phân hủy DDE, DDD và DDT của chủng FNA1 đạt rất cao, các chất trên được loại bỏ lần lượt là 92,69 %, 97,19 % và 97,23 % (Bảng 1). Hình 3. Tỷ lệ phân trăm khối lượng khô sinh khối nấm Hình 4. Phổ sắc ký đồ của mẫu nuôi cấy không có vi sinh vật (A) và có vi sinh vật (B). Bảng 1. Khả năng phân hủy DDT, DDE, DDD bởi chủng FNA1 Chất ô Lượng thu hồi Lượng bị loại bỏ nhiễ m Khôn g có VSV (ppm) FNA 1 (ppm ) (ppm ) (%) DDE 4,271 0,312 3,959 92,69 DDD 10,23 8 0,287 9,951 97,1 9 DDT 162,8 4,5 158,3 97.2 3 Đã có nhiều công bố về khả năng phân hủy sinh học DDT của vi sinh vật. Các nhóm vi sinh vật tiềm năng cho quá trình phân hủy DDT phục vụ cho xây dựng qui trình công nghệ khử độc đất nhiễm hỗn hợp DDT, HCH và các chất ô nhiễm hữu cơ chứa clo khác được quan tâm là nấm, xạ khuẩn và vi khuẩn. Theo các nghiên cứu thì có tới hơn 300 chủng vi sinh vật có khả năng phân hủy DDT và các dẫn suất, một số vi sinh vật chuyển hoá DDT đã được công bố bao gồm Escheria coli, Enterobacter aerogenes, Enterobacter cloacae, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa, Pseudomonas putida, Bacillus sp. v.v. và một số nấm như Saccharomyces cerevisiae, Phanerochaete chrysosporium, Trichoderma [5]. Quá trình chuyển hoá DDT của các vi sinh vật đã được nghiên cứu phần lớn đều theo cơ chế đồng trao đổi chất. Cũng có thể chủng FNA1 được phân lập từ đất ô nhiễm DDT và các thuốc trừ sâu khác cũng phân h ủy DDT theo cơ chế đồng trao đổi chất. Các nghiên cứu trước đã sử dụng môi trường muối khoáng chứa DDT nhưng chủng FNA1 không phát triển, chủng này chỉ phát triển trên môi trường có bổ sung saccharose. Tuy nhiên cần rất nhiều nghiên cứu tiếp theo để làm sáng tỏ cơ chế chuyển hóa DDE, DDD, DDT của chủng nấm sợi này. Nồng độ DDT Tỷ lệ phần trăm Đào Thị Ngọc Ánh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 46 – 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Khả năng phân hủy hỗn hợp DDT của nấm FNA1 cao hơn hằn so với khả năng phân hủy của vi khuẩn được phân lập từ cùng mẫu nghiên cứu là BNA71 và BNA73 [9]. Hai chủng này phân hủy lần lượt là 12,53 % và 19,66 % DDT tổng sau 14 ngày nuôi cấy, trong khi chủng FNA1 phân hủy được 94,41 % sau 7 ngày. Điều này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy khả năng phân hủy DDT của nấm tốt hơn hẳn vi khuẩn và xạ khuẩn. Aislabie và cộng sự đã sử dụng chủng Terrabacter sp. DDE-1 để nghiên cứu khả năng phân huỷ sinh học của vi khuẩn. Nồng độ DDE đã giảm từ 0,1 mg/ml xuố n 0,062 mg/ml (48 %) sau 10 ngày nuôi cấy Terrabacter sp. - đị Aerobacter aerogenes Bacillus subtilis 5µg/ml [4]. Bumpus và Aust đã sử dụng nấm đả P. chrysosporium nghiên cứu xử lý DDT trong môi trường thiếu nitơ, sau 30 ngày nuôi cấy, khoảng 50 % DDT đã được chuyển hoá trong đ ó có 1 0 % đã được khoáng hoá hoàn toàn và thấy xuất hiện các sản phẩm của quá trình trao đổi chất như dicofol, FW-152 và DBP [2]. Fernando (1989) kiểm tra khả năng phân huỷ 14C-DDT trong hỗn hợp đất và lõi ngô bởi nấm P. chrysosporiumi cho thấy sau 60 ngày 10% 14C chuyển sang dạng 14C-CO2, 5% sang dạng hoà tan trong nước và 18% ở dạng không thể tách chiết. Con đường chuyển hóa DDT của vi khuẩn E. Aerogenes được công bố bởi Wedemeyer năm 1976 cũng t ạo ra sản phẩm trung gian là DDD và DDE [8]. Từ kết quả phân tích DDD và DDE cho thấy hàm lượng DDD và DDE của mẫu có bổ sung chủng FNA1 thấp hơn nhiều của mẫu đối chứng. Số liệu này chứng tỏ chủng FNA1 có khả năng phân hủy cả DDT, DDD và DDE. So sánh khả năng chuyển hóa DDT và các dẫn xuất với con đường chuyển hóa bởi hai chủng P. Chrysosporium, E. Aerogenes, chúng tôi nhận thấy kiểu phân hủy sinh học DDT của chủng FNA1 khá giống với các chủng nêu trên. Như vậy chủng FNA1 có khả năng phát triển tốt và phân hủy DDT ở nồng độ rất cao trong thời gian ngắn. Còn rất nhiều chủng vi khuẩn và nấm khác đã được phát hiện có khả năng phân hủy DDT rất tốt với nồng độ rất thấp từ 0,1 – 2 ppm như loài Rhodotorula gracilis, Torulopsis utilis phân hủy lần lượt 97 %, 94 % DDT với nồng độ ban đầu là 2ppm, còn loài Blepharisma intermedium phân hủy 90 % DDT với nồng độ ban đầu là 1ppm. Bidlan và Manonmani đã ch ứng minh chủng Serratia marcescens DT-1P làm giảm 50% DDT sau 48 giờ với nồng độ ban đầu là 5ppm. Kanoknit phân lập được 167 chủng từ tỉnh Songkhla, Thái Lan có khả năng phát triển trên môi trường có chứa 25ppm DDT. Chỉ có năm chủng sinh trưởng và phát triển và tạo vòng phân hủy ở nồng độ 100ppm DDT, sau 10 ngày nuôi cấy năm chủng này có khả năng phân loại bỏ từ 20,3 % đến 37,4 % DDT với nồng độ ban đầu là 25 ppm. Chúng mình trên cho thấy khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1 cao hơn hẳn nhiều chủng đã được công bố [12]. Theo các khảo sát bước đầu mà chúng tôi đã tiến hành cho thấy chủng FNA1 sinh enzyme ngoại bào trên môi trường chọn lọc đặc hiệu với chất cảm ứng là 100 ppm DDT. Đây có thể là một trong các lý do tại sao loài nấm sợi này phân hủy chuyển hóa DDE, DDD, DDT rất tốt so với các chủng vi sinh vật khác. Để tìm hiểu và ứng dụng chủng FNA1 như là một ứng cử viên cho phương pháp tăng cường sinh học xử lý đất nhiễm nặng hỗn hợp thuốc trừ sâu và côn trùng cần rất nhiều nghiên cứu khác. Theo các kết quả thu được từ rất nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới thì enzyme ngoại bào do nấm sợi sinh Đào Thị Ngọc Ánh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 46 – 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tổng hợp đang mở ra nhiều triển vọng rất lớn để xử lý loại bỏ POPs (persistent organic pollutants) trong đó có DDT và các dẫn xuất của nó [3]. IV. KẾT LUẬN Dựa trên các đặc điểm hình thái thì chủng FNA1 phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu tại Nghệ An có thể được xếp vào chi Aspergillus. Sau 7 ngày nuôi cấy trên môi trường Czapek nghèo có bổ sung 200 ppm DDT, chủng nấm sợi FNA1 đã phân hủy được 92,69 % DDE, 97,19 % DDD, 97,23 % DDT. LỜI CẢM ƠN Công trình được thực hiện nhờ nguồn kinh phí của đề tài “Nghiên cứu xử lý tẩy độc một số hợp chất hữu cơ chứa clo bằng các phương pháp hóa học, sinh học hiện đại, 2007-2008” do viện Công nghệ Sinh học Việt Nam cung cấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aislabie J, Davison A D, Boul H L, Franzmann P D, Jardine D R, and Karuso P (1999) Isolation of Terrabacter sp. Strain DDE-1, Which metabolizes 1,1-dichloro- 2,2-bis (4-chlorophenyl) ethylene when induced with biphenyl. Appl and Environ Microbiol 65: 5607-5611. [2]. Bumpus and Aust (1987) Biodegradation of DDT [1,1,1- trichloro - 2,2-bis (4-chlorophenyl) ethane] by the white rot fungus Phanerochaete chrysosporium. Appl Environ Microbiol. 1987 September; 53(9): 2001–2008. [3]. Hestbjerg Helle, Willumsen Pia Arentsen, Christensen Mette, Andersen Ole and Jacobsen Carsten Suhr (2003) Bioaugmentation of tar-contaminated soils under field conditions using Pleurotus ostreatus refuse from commercial mushroom production. Environmental Toxicology and Chemistry 22 (4): 692-98. [4]. Johnson B. Thomas and Jack O. Kennedy (1973) Biomagnification of p, p'-DDT and Methoxychlor by Bacteria. Appl Environ Microbiol, 26(1): 66-71. [5]. Jesus G.M. Silvia G.A., Ana I.A., Francisco R.V., (1999) Use of 16S-23S ribosomal genes spacer region in studies of prokaryotic diversity. Journal Microbiol Methods, vol 36: pp. 55-64. [6]. Kanoknit Sonkong, Poonsuk Prasertsan, and Vorasan Sobhon (2008) Screening and identification of p,p’-DDT degrading soil isolates. Songklanakarin J. Sci. Technol 30 (1): 103-110. [7]. Mai Thanh Truyết, Nguyễn Minh Quang. Phát triển và môi trường bền vững ở Việt Nam. [8]. Nadeau Lloyd J, Sayler Gary S and Spain J C (1998) Oxidation of 1,1,1- trichloro-2,2-bis(4-chlorophenyl)ethane (DDT) by Alcaligenes eutrophus A5. Archives of Microbiology 171 (1): 44-49. [9]. Nguyễn Nguyên Quang, Đặng Thị Cẩm Hà (đã nh ận in) Phân lập, phân loại và khả năng phân hủy DDT, DDD, DDE của một số chủng vi sinh vật. Tạp chí công nghệ sinh học. [10].Reddy C A and Mathew Z (2001) Bioremediation potential of white rot fungi. Fungi in bioremediation. G. M. Gadd Cambridge, U.K.: Cambridge University Press. [11].Subba-Rao R V and Alexander M (1985) Bacterial and fungal cometabolism of 1,1,1 -trichloro-2,2-bis(pchlorophenyl) ethane (DDT) and its breakdown products. Appl Environ Microbiol 49: 509-516. [12].Yi Huang, Xi Zhao and Shengji Luan (2007) Uptake and biodegradation of DDT by 4 ectomycorrhizal fungi. Sicence of the total enviroment 385 (1-3): 235- 241. Đào Thị Ngọc Ánh và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 57(9): 46 – 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ∗ ∗ Đang Thi Cam Ha; Tel: 04. 38360892, SUMMARY DDT DEGRADING CAPABILITY OF FUNGAL STRAIN ISOLATED FROM PESTICIDES CONTAMINATED SOIL IN NGHE AN Dao Thi Ngoc Anh1, Dang Thi Cam Ha1* 1 Institute of biotechnology Researches on degradation of DTT pesticide and its derivatives: DDD, DDE, etc by microorganisms have been carried out widely in the world but publications about this topic are relatively rare in Vietnam . Obtained results presented in this paper showed that fungal strain FNA1 isolated from pesticide contaminated site in Nghe An could grow vigorously in medium containing 200 ppm DDT. The colonies of FNA1 has grass-green colour, spongy surface, white-green exterior border. Spore was sphere or ellipse, young spore was even, mature spore was barbed. Study of DDT degradation by FNA1 using HPLC demonstrated that after 7 days of cultivation in modified Czapek medium supplemented with 200 ppm DDT, this strain could degrade 92.69% DDE, 97.17% DDD and 97.23% DDT. Key word: 1,1,1-trichloro-2,2-bis-(p-chlorophenyl)ethan (DDT), FNA1, biodegradation. E-mail: dangcha80@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_1738_9639_khanangphanhuyddtcuachungnamsoifnalphanlaptudatonhiemhonhopthuoctrusautainghean_4727.pdf