Sinh kế cộng đồng và hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản tại hồ Tây và hồ Đăk R’tang, tỉnh Đăk Nông

1. Kết luận - Hồ Tây và hồ Đăk R’Tang là 2 hồ chứa nhỏ có nhiệm vụ chính là bảo đảm cảnh quan môi trường khu vực và cung cấp nước tưới tiêu nông nghiệp. Bên cạnh đó hồ Tây còn có nhiêmh vụ cung cấp nước sinh hoạt cho thị trấn Đăk Mil. - Hiện nay khai thác thủy sản vẫn là sinh kế quan trọng đối với một số hộ ở hai khu vực. - Hoạt động khai thác bằng các công cụ bị cấm và khai thác vào mùa vụ sinh sản vẫn còn xảy ra ở cả hai hồ. - Nguồn lợi thủy sản ở hai hồ đang giảm sút đáng kể do thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ. 2. Kiến nghị - Thiết lập cơ chế quản lý dựa vào cộng đồng và tuyên truyền cho người dân địa phương về việc bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản vùng hồ Tây và hồ Đăk R’Tang. - Tập huấn và phát triển các mô hình nuôi thủy sản để tận dụng mặt nước, đa dạng hóa sinh kế, giải quyết việc làm cho lao động địa phương và giảm áp lực đối với hoạt động khai thác nguồn lợi tại 2 hồ kể trên.

pdf7 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 90 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sinh kế cộng đồng và hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản tại hồ Tây và hồ Đăk R’tang, tỉnh Đăk Nông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 49 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC SINH KẾ CỘNG ĐỒNG VÀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC NGUỒN LỢI THỦY SẢN TẠI HỒ TÂY VÀ HỒ ĐĂK R’TANG, TỈNH ĐĂK NÔNG GENERAL LIVELIHOODS OF COMMUNITIES AND FISHING ACTIVITIES AT TAY AND DAK R’TANG RESERVOIRS, DAK NONG PROVINCE Trần Văn Phước1, Nguyễn Văn Quỳnh Bôi2, Lê Việt Phương3 Ngày nhận bài: 27/8/2014; Ngày phản biện thông qua: 19/09/2014; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015 TÓM TẮT Áp dụng phương pháp điều tra xã hội, nghiên cứu được thực hiện tại hồ Tây và hồ Đăk R’Tang tỉnh Đăk Nông từ 1/2014 đến 6/2014. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy nguồn lợi thủy sản tại hai hồ không được quan tâm đúng mức. Sinh kế chính của cộng đồng cư dân ven hồ Tây và hồ Đăk R’Tang là canh tác rẫy café, lần lượt chiếm tỷ lệ 55% và 70,1% số hộ. Chỉ có 6,7% số hộ ở cộng đồng ven hồ Tây và 4,5% số hộ ở cộng đồng ven hồ Đăk R’Tang có sinh kế chính là khai thác thủy sản. Hoạt động khai thác thủy sản tại hai hồ bao gồm nhiều phương thức như đâm lao, câu giăng, thả ống trúm, thả lưới (lưới bén), rọ tôm, vó đènvới sản lượng và thu nhập không cao. Việc khai thác bằng các công cụ bị cấm và khai thác vào mùa vụ sinh sản vẫn còn xảy ra. Hiện tại, nguồn lợi thủy sản ở cả hai hồ đã giảm sút đáng kể do thiếu cơ chế quản lý phù hợp. Từ khóa: Hồ chứa, sinh kế, nguồn lợi thủy sản ABSTRACT Applying social survey method, this study was conducted at Tay and Dak R’Tang reservoirs, Dak Nong province from January to June 2014. The study results showed that fi sh resources at two reservoirs was not paid enough attention. Main livelihood of resident communities around Tay and Dak R’Tang reservoirs was coffee plantation, taking ratio of 55% and 70,1% of households respectively. Fishing was main livelihood for only 6.7% of households around Tay reservoir and 4.5% of households bordering Dak R’Tang one. Fishing activities at two reservoirs included many measures such as spearing, long-line fi shing, eel-pod placing, netting (gill net), shrimp caging, light lift netting getting low yield and income. Fishing using forbidden gears and fi shing in time of reproduction still occurred. At the present, fi sh resource at two reservoirs has been decreased considerably due to lack of suitable management mechanism. Keywords: Reservoir, livelihoods, fi sh resource 1 ThS. Trần Văn Phước, 2 ThS. Nguyễn Văn Quỳnh Bôi: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 3 Lê Việt Phương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2013 - Trường Đại học Nha Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, trong bối cảnh suy thoái môi trường và nguồn tài nguyên sinh vật nói chung, thủy sinh vật nói riêng, quan hệ qua lại giữa nguồn lợi thủy sinh vật đối với cộng đồng ngày càng được chú trọng. Bên cạnh giá trị đối với hệ sinh thái và cảnh quan - môi trường, nguồn lợi thủy sinh vật còn góp phần tạo công việc cho cư dân địa phương, tăng thu nhập cho các hộ và cộng đồng. Do đó, phát triển kinh tế địa phương đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản là những vấn đề luôn được các quốc gia đang phát triển quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa tìm thấy nhiều nghiên cứu tập trung cụ thể vào vấn đề liên quan giữa nuôi trồng và bảo tồn nguồn lợi thủy sản với sinh kế cộng đồng dân cư khu vực quanh các hồ chứa. Ở phạm vi quốc tế, theo khía cạnh nuôi trồng và quản lý nguồn lợi thủy sản, công bố của Phounsavath năm 1998 về một nghiên cứu điển hình đối với hai cộng đồng nghề cá tại hồ chứa Nam Ngum, Lao P.D.R nhấn mạnh đến vai trò quản lý dựa trên cộng đồng đối với nghề cá hồ chứa. Chuyên khảo của Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 50 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Mạng lưới trung tâm nuôi trồng thủy sản Châu Á - Thái Bình dương (Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacifi c - NACA) về tình trạng nghề cá hồ chứa tại 5 quốc gia Châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka và Thái Lan (De Silva and Amarasinghe, 2009) cũng phần nào cho thấy ý nghĩa của vấn đề kinh tế - xã hội (bao gồm thu nhập và sinh kế) trong việc quản lý và khai thác các nguồn lợi của hồ chứa. Ở Việt Nam, không nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào vấn đề này, đặc biệt ở khu vực Tây Nguyên. Gần đây, một công bố của Lê Ngọc Châu và cộng sự (2011) về hiện trạng khai thác cá ở một số hồ chứa nhỏ (<1.000 ha) thuộc tỉnh Đồng Nai và Bình Phước đề cập đến công cụ và năng suất khai thác giữa hai nhóm hồ có và không có tổ chức quản lý khai thác. Tập trung cho khía cạnh sinh kế, đặc biệt sinh kế cộng đồng nghèo vùng nông thôn, có công bố của Ho Manh Tuan và cộng sự năm 2008 về một nghiên cứu điển hình ở hai hồ chứa nhỏ thuộc tỉnh Bình Phước. Ngoài công bố trên, gần như không tìm thấy nghiên cứu nào đề cập đến sinh kế của những cộng đồng sống lân cận các hồ chứa. Trong bối cảnh hiện nay, để xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường và khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên, cần thiết phải hiểu rõ hiện trạng kinh tế - xã hội địa phương, đặc biệt là sinh kế của cộng đồng. Theo đó, việc nghiên cứu sinh kế cộng đồng ven hồ Tây và hồ Đăk R’Tang có thể coi như là trường hợp điển hình mô tả hoạt động kinh tế của người dân ven hồ chứa và mối liên quan đến nguồn lợi thủy sản vùng hồ. Các kết quả của nghiên cứu sẽ giúp định hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn nguồn lợi thủy sản địa phương. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2014 tại hồ Tây, huyện Đăk Mil và hồ Đắk R’Tang, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông theo phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA - Rapid Rural Appraisal) và phương pháp điều tra xã hội sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc. Số liệu được tổng hợp dựa trên quá trình phỏng vấn các hộ dân địa phương thông qua bộ câu hỏi điều tra. Các hộ được phỏng vấn ngẫu nhiên tập trung vào các hộ sống lân cận vùng hồ với số mẫu được tính theo công thức: n = N/(1 + N.e2) Với: - n: kích cỡ mẫu - N: tổng số hộ - e: xác suất có khả năng gặp sai số loại 2 (thông thường 10%) (Bhujel, 2007) Dựa theo công thức, tỷ lệ phân bố ở các tổ/ thôn, số hộ được điều tra được trình bày qua bảng 1. Ngoài ra, để hiểu rõ hơn hiện trạng kinh tế – xã hội, tình hình quản lý và sử dụng tài nguyên ở địa phương, các cán bộ quản lý cấp huyện, thị trấn, xã và tổ dân phố cũng như cán bộ quản lý hồ chứa được phỏng vấn với tính chất là người am hiểu (key informant). Hình 1. Bản đồ 2 hồ nghiên cứu (Nguồn: truy cập ngày 11/9/2014) Ghi chú: Hồ Đăk Mil trong hình phía trên bên phải là hồ Tây Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 51 Số liệu được tổng hợp, phân tích và thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel (Version 2007). Thông tin được xử lý theo từng nội dung dựa trên phiếu điều tra. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Khái quát về hồ Tây và hồ Đăk R’Tang 1.1. Hồ Tây Hồ Tây thuộc địa bàn hành chính huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, dọc theo quốc lộ 14 về phía Nam cách thị xã Gia Nghĩa khoảng 65 km. Theo các cán bộ huyện Đăk Mil, hồ Tây nằm trên địa bàn 3 xã/thị trấn Thuận An, Đăk Lao và Đăk Mil có diện tích 116 ha chia làm 3 ngăn. Theo các cán bộ của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khai thác các công trình thủy lợi tỉnh Đăk Nông - Chi nhánh Đăk Mil, hồ Tây hiện nay được xây dựng năm 1982 theo sự mở rộng hồ có trước năm 1975 với độ sâu tối đa 15 m, trung bình khoảng 6 m và lưu vực ước tính khoảng 5 - 7km2. Riêng phần hồ Tây thuộc thị trấn Đăk Mil có diện tích 80 ha với lưu lượng nước khoảng 6,5 triệu m3/năm. Hồ Tây có 3 chức năng chính là bảo đảm cảnh quang - môi trường, cấp nước sinh hoạt cho thị trấn Đăk Mil (20.000 m3/ tháng) và phục vụ nước sản xuất nông nghiệp cho một số hộ dân cư thuộc thị trấn Đăk Mil, xã Đức Minh, xã Thuận An và 2 công ty café Đức Minh (57,3 ha - xã Đức Minh) và Đức Lập (126 ha - xã Thuận An) với lượng nước 3 triệu m3/năm. Chỉ riêng về sản xuất nông nghiệp, có khoảng 800 hộ phụ thuộc vào nguồn nước hồ Tây. Trước đây, hồ Tây thuộc sự quản lý của Công ty thủy sản huyện Đăk Lăk (đã giải thể). Khoảng những năm 1995 - 1997 trở lại đây, nguồn lợi thủy sản hồ được khai thác tự do (cấm sử dụng chất nổ). Hiện nay, cùng với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác các công trình thủy lợi tỉnh Đăk Nông - Chi nhánh Đăk Mil chịu trách nhiệm quản lý về mặt thủy lợi, các cơ quan có trách nhiệm liên quan là Ủy ban Nhân dân thị trấn Đăk Mil, Ủy ban Nhân dân huyện Đăk Mil với các phòng ban trực thuộc. Do vậy, khía cạnh thủy sản không được quan tâm nhiều. Xem xét về khả năng nuôi trồng thủy sản, ý kiến khảo sát chỉ ra rằng các dự án thí điểm trước đây không hiệu quả có thể do mô hình nuôi và phương thức quản lý không phù hợp với điều kiện thực tế. 1.2. Hồ Đăk R’Tang Hồ nằm ở khu vực tiếp giáp giữa thị trấn Kiến Đức và xã Kiến Thành, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông, dọc theo quốc lộ 26 cách thị xã Gia Nghĩa khoảng 25km. Theo Giám đốc Chi nhánh Đăk R’Lấp thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác các công trình thủy lợi tỉnh Đăk Nông, hồ Đăk R’Tang được xây dựng năm 1992 và nâng cấp năm 2002 với mục đích trữ nước phục vụ tưới tiêu và phát điện. Tuy nhiên, hiện nay hồ chỉ có chức năng phục vụ tưới tiêu cho khoảng 180 ha café với 133 hộ phụ thuộc. Hồ Đăk R’Tang là một hồ nhỏ có diện tích 46ha với độ sâu tối đa từ 7 - 9m, trung bình 5m và lưu lượng nước khoảng 1,4m3 triệu/năm. Theo văn bản, Ủy ban Nhân dân xã Kiến Thành và Phòng Nông nghiệp huyện Đăk R’Lấp là các cơ quan liên quan đến việc quản lý hồ bên cạnh Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khai thác các công trình thủy lợi tỉnh Đăk Nông - Chí nhánh Đăk R’Lấp chịu trách nhiệm quản lý đập. Tương tự trường hợp hồ Tây, huyện Đăk Mil, công ty chỉ có trách nhiệm vận hành, duy tu và bảo dưỡng đập để bảo đảm việc cấp nước. Theo đó, vấn đề thủy sản vẫn chưa được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, theo các ý kiến khảo sát, hồ Đăk R’Tang có tiềm năng để Bảng 1. Số phiếu điều tra Hồ chứa Tổ dân phố/thôn Ước tính số hộ quanh hồ Số phiếu Hồ Tây Tổ 5 – TT Dak-Mil 50 26 Tổ 7– TT Dak-Mil 25 9 Tổ 13– TT Dak-Mil 70 25 Tổng 145 60 Hồ Đăk R’Tang Tổ 2 – TT Kiến Đức 30 11 Tổ 3 – TT Kiến Đức 50 28 Tổ 5 – TT Kiến Đức 50 9 Thôn 5 – xã Kiến Thành 15 8 Thôn 8 – xã Kiến Thành 20 11 Tổng 165 67 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 52 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG phát triển nuôi trồng thủy sản nhưng cần có mô hình nuôi phù hợp. 2. Khái quát về sinh kế cộng đồng cư dân ven hồ Tây và hồ Đak R’Tang Kết quả khảo sát được trình bày qua bảng 2 và 3 chỉ ra rằng hoạt động sinh kế của cả hai cộng đồng cư dân ven hồ Tây và hồ Đăk R’Tang khá đa dạng với nhiều nguồn thu khác nhau. Tuy nhiên, nguồn thu từ canh tác rẫy vẫn là nguồn thu quan trọng nhất đối với đa số hộ ở cả hai cộng đồng, chiếm tỷ lệ 55% số hộ (33 hộ) ở cộng đồng ven hồ Tây và 70,1% số hộ (47 hộ) khu vực ven hồ Đăk R’Tang. Đối với cộng đồng cư dân ven hồ Tây, chỉ có 6,7% số hộ (4 hộ) có sinh kế chính là khai thác thủy sản trong đó 3,3% (2 hộ) có thêm nguồn thu nhập thứ hai là làm rẫy. Trong số 40% tổng số hộ có nguồn thu nhập thứ hai (24 trường hợp), chỉ có 37,5% số này (9 hộ) hoạt động khai thác thủy sản. Gần 6,7% tổng số hộ (4 hộ) xem khai thác thủy sản là nguồn thu nhập thứ ba. Xem xét theo khía cạnh nhân lực, trong tổng số 162 lao động, chỉ có 2,5% (4 lao động) xem khai thác thủy sản là nguồn thu nhập chính, 6,2% (10 trường hợp) xem là nguồn thu nhập phụ thứ nhất và 2,5% (4 lao động) cân nhắc khai thác thủy sản là nguồn thu nhập thứ ba. Mức độ đầu tư của người khai thác cũng khác nhau, thay đổi trong khoảng 2,5-14 triệu/năm. Với giá bán sản phẩm khai thác thay đổi từ 50.000- 100.000 đồng/kg tùy theo đối tượng, hoạt động này có thể đem lại cho người lao động thu nhập từ 50.000 đến 200.000 đồng/ngày, phổ biến trong khoảng 75.000-100.000 đồng/ngày. Bảng 2. Các hoạt động tạo thu nhập và số nhân lực tham gia (% tổng dân số) của cộng đồng ven hồ Tây Hoạt động Nguồn thu thập chính Nguồn thu thập phụ I Nguồn thu thập phụ II Ghi chú Làm rẫy 60 (23,8%) 6 (2,4%) - Chủ yếu là café, ngoài ra còn có cacao, ngô (bắp) Nguồn thu ổn định 25 (9,9%) - - Giáo viên, Công An, nhân viên các công ty hoặc cán bộ các cơ quan Nhà nước và lương hưu Kinh doanh - buôn bán 16 (6,3%) 1 (0,4%) - Phụ gia đình 13 (5,2%) - - Không có việc làm chính thức Trồng rau 7 (2,8%) 7 (2,8%) 1 (0,4%) Khai thác thủy sản 4 (1,6%) 10 (4,0%) 4 (1,6%) Lao động tự do 4 (1,6%) 2 (0,8%) - Thu nhập không ổn định Đi làm xa nhà 3 (1,2%) - - (tại thành phố Hồ Chí Minh) Làm bánh 2 (0,8%) - - Hoạt động nhà nghỉ 2 (0,8%) 1 (0,4%) - Tài xế 1 (0,4%) - - Thợ may 1 (0,4%) - - Thợ cơ khí 1 (0,4%) - - Thợ hồ - 1 (0,4%) - Làm đậu khuôn - 2 (0,8%) - Chăn nuôi (heo, gà) - 2 (0,8%) 1 (0,4%) Tổng 136 (54,0%) 32 (12,7%) 6 (2,4%) Ghi chú: Phụ gia đình trong các hoạt động sinh kế được xem là hoạt động tạo thu nhập -: Không có trường hợp nào (tỷ lệ 0%) Tương tự trường hợp cộng đồng cư dân ven hồ Tây, liên quan đến nguồn lợi thủy sản hồ Đăk R’Tang, kết quả khảo sát cho thấy có gần 9% số hộ (6 hộ) có hoạt động sinh kế gắn liền với nguồn lợi này. Trong đó, gần 3% số hộ (2 hộ) xem khai thác thủy sản là nguồn thu nhập chính, xấp xỉ 3% (2 hộ) xem là nguồn thu nhập thứ hai và gần 3% còn lại (2 hộ) cân nhắc khai thác thủy sản là nguồn thu nhập thứ ba. Trong tổng số 184 lao động của cộng đồng, chỉ có 1,6% số lao động Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 53 (3 lao động) xem khai thác thủy sản là nguồn thu nhập chính, gần 1,1% lao động (2 trường hợp) xem là nguồn thu nhập phụ thứ nhất và 1,1% lao động (2 trường hợp) xem là nguồn thu nhập phụ thứ hai. Với mức đầu tư thay đổi từ 1 triệu đến 5 triệu/năm, hoạt động này mang lại thu nhập trung bình 100.000 đồng/ngày/người, cá biệt có thể lên đến 500.000 đồng/ngày. Bảng 3. Các hoạt động tạo thu nhập và số nhân lực tham gia (% tổng dân số) của cộng đồng ven hồ Đăk R’Tang Hoạt động Nguồn thu thập chính Nguồn thu thập phụ I Nguồn thu thập phụ II Ghi chú Làm rẫy 91 (34,5%) 18 (6,8%) - Chủ yếu là café, ngoài ra còn có cao su, điều và tiêu ) Nguồn thu ổn định 38 (14,4%) 5 (1,9%) 2 (0,8%) Giáo viên, công an, bộ đội, nhân viên các công ty hoặc cán bộ các cơ quan Nhà nước hoặc lương hưu Kinh doanh - buôn bán 20 (7,6%) 3 (1,1%) 1 (0,4%) Phụ gia đình 11 (4,2%) 3 (1,1%) - Không có việc làm chính thức Thợ gia công cơ khí, nhôm-kính, cắt đá . 4 (1,5%) 2 (0,8%) - Khai thác thủy sản 3 (1,1%) 2 (0,8%) 2 (0,8%) Giữ trẻ tại gia 1 (0,4%) - - Thu nhập không ổn định Đi làm xa nhà (tại thành phố Hồ Chí Minh) 1 (0,4%) - - Tãi xế - 1 (0,4%) - Làm bánh, nấu rượu - 1 (0,4%) 1 (0,4%) Lao động tự do - 5 (1,9%) - Bảo vệ - 2 (0,8%) - Làm đậu khuôn 1(0,4%) - - Chăn nuôi (heo, gà) 1 (0,4%) 4 (1,5%) - Cho thuê nhà trọ - 2 (0,8%) - Phụ cấp công tác - - 2 (0,8%) Phụ cấp trưởng thôn, phụ cấp cộng tác viên khuyến nông Tổng 171 (64,8%) 48 (18,1%) 8 (3,0%) Ghi chú: Phụ gia đình trong các hoạt động sinh kế được xem là hoạt động tạo thu nhập -: Không có trường hợp nào (tỷ lệ 0%) Tương tự với những kết quả nghiên cứu của Tuan và cộng sự (2008) tại hai hồ chứa nhỏ tỉnh Bình Phước, những kết quả nêu trên cho thấy, dù chiếm tỷ lệ không lớn, khai thác thủy sản vẫn là sinh kế quan trọng đối với một bộ phận của cộng đồng cư dân ven hai hồ Tây và Đăk R’Tang. Theo đó, việc bảo tồn và phát triển nguồn lợi hai hồ là việc làm không những cần thiết về sinh thái - mặt môi trường, đa dạng sinh học mà còn có ý nghĩa về mặt sinh kế cộng đồng. 3. Hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản hồ Tây và hồ Đak R’Tang 3.1. Hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản tại hồ Tây Theo những người am hiểu, nguồn lợi thủy sản hồ Tây gồm 3 nguồn là các loài cá bản địa (rô, lúi, trê, lóc, lươn...), cá từ các “ao cá Bác Hồ” của bộ đội được nuôi trước năm 1990, cá được thả bởi Công ty thủy sản Đăk Lăk khoảng những năm 1980 - 1985 (mè, trôi, trắm, chép, rô phi...) và gần đây là cá thả phóng sinh hàng năm của cư dân địa phương (lăng đuôi đỏ, chép đỏ...). Để bổ sung nguồn lợi, trong giai đoạn những năm 1990, bộ phận phụ trách thủy sản huyện Đăk Mil cũng thường xuyên thả cá giống vào hồ. Theo khía cạnh khai thác, một ý kiến đánh giá rằng trong giai đoạn từ 1976 đến 1980, khai thác thủy sản là sinh kế chính của cư dân quanh khu vực hồ Tây. Trong giai đoạn tiếp theo đến trước những năm 1995 - 1997, Công ty thủy sản tỉnh Đăk Lăk quản lý và khai thác nguồn lợi thủy sản hồ Tây. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 54 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tuy nhiên, sau đó hồ được khai thác tự do (cấm sử dụng chất nổ). Một cư dân địa phương cho biết vào khoảng những năm 1997 - 2000, khai thác là nguồn thu nhập hàng ngày của nhiều hộ dân ven hồ. Những kết quả này cho thấy, trong quá khứ, nguồn lợi thủy sản hồ luôn đóng vai trò quan trọng đối với cộng đồng cả về sinh kế lẫn thực phẩm. Hiện nay, đánh giá về số lượng người tham gia khai thác nguồn lợi thủy sản hồ Tây không thống nhất, tập trung nhiều nhất trong khoảng 15 đến 20 người. Kết quả khảo sát bắt gặp 11,1% tổng số lao động của cộng đồng (9 lao động ở tổ dân phố 5 và 9 trường hợp ở tổ dân phố 13) thực hiện khai thác thủy sản tại hồ Tây (bảng 2). Bên cạnh đó, còn có 1,9% (3 trường hợp) đã ngưng khai thác do không có thời gian và sản lượng khai thác giảm sút. Rõ ràng rằng bên cạnh sự thay đổi cơ cấu sinh kế, suy giảm nguồn lợi cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Hiện tại, hoạt động khai thác thủy sản hồ Tây bao gồm nhiều phương thức như đâm lao, câu giăng, thả ống trúm, thả lưới (lưới bén), rọ tôm, vó đèn... Trong đó, các hình thức bắt gặp nhiều nhất là lưới bén (52,9% số hộ tham gia khai thác), vó đèn (47,1%) và rọ tôm (35,3%). Phạm vi hoạt động của người khai thác thay đổi tùy theo phương thức, phổ biến trong khoảng 500 m dọc theo hồ thuộc khu vực cư trú với phương tiện là thuyền chèo tay. Số ngày khai thác cũng thay đổi, từ khoảng 150 đến 320 ngày/năm tùy theo phương thức khai thác. Đối tượng được khai thác tại hồ Tây trước đây là các loài cá nước ngọt như mè, trắm, lúi, trôi, lóc, lươn, tép rong Hiện nay, đối tượng khai thác chủ yếu bao gồm cá rô-phi, tôm nước ngọt và tép rong. Sự thu hẹp đối tượng khai thác chỉ ra rằng trữ lượng các đối tượng truyền thống đã bị suy giảm. Kết quả khảo sát đã chứng minh điều này với một thống nhất chung của tất cả các ý kiến rằng nguồn lợi thủy sản hồ Tây đã giảm sút đáng kể, lên đến 70% đến 80%, so với 5 năm trước đây. Đánh giá về vấn đề này, nguyên nhân được chỉ ra là do khai thác quá mức (sử dụng vó đèn với mắt lưới quá nhỏ) hay khai thác bằng phương thức hủy diệt (kích điện) được nhận định xảy ra thường xuyên. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này được thống nhất là do quản lý không chặt chẽ. 3.2. Hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản tại hồ Đăk R’Tang Tương tự trường hợp hồ Tây, theo các cư dân địa phương, nguồn lợi thủy sản hồ Đăk R’Tang bao gồm nguồn cá tự nhiên (không đáng kể) và nguồn cá được thả bởi đơn vị hợp đồng nuôi thủy sản trước đây (trắm, chép, mè, thác lác, rô phi, lóc, lươn...). Trong thời gian gần đây, theo một số ý kiến khảo sát, nguồn lợi thủy sản của hồ còn được bổ sung bởi các đợt thả cá giống từ một số đơn vị. Đối với cộng đồng cư dân ven hồ Đăk R’Tang, khai thác thủy sản là một nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ trong giai đoạn 1995 - 2000. Tuy nhiên số liệu điều tra chỉ ra rằng hiện nay khai thác thủy sản đã không còn là sinh kế quan trọng đối với cộng đồng địa phương chỉ với 3,8% tổng số lao động tham gia vào hoạt động này như đã trình bày trên đây (bảng 3). Khảo sát cho thấy sản lượng khai thác không đáng kể, thay đổi từ 1-2 kg, cá biệt đến 10 kg/ngày tùy theo quy mô, đối tượng khai thác... Trong thực tế, tương tự trường hợp hồ Tây, hoạt động này được thực hiện với nhiều phương thức và công cụ khác nhau như câu cắm, câu giăng, đâm lao, chích điện, vó đèn, rọ tôm... với tỷ lệ bắt gặp không lớn. Trong đó hai hình thức khai thác bắt gặp cao nhất là rọ tôm (50% số hộ tham gia khai thác), lưới bén (66,7%). Phạm vi khai thác thay đổi trong khoảng 0,5 - 1 km gần nhà cũng với xuồng chèo tay. Các đối tượng khai thác chủ yếu là cá lóc, rô phi, tôm tép nước ngọt với số ngày khai thác thay đổi từ 150 đến 300 ngày/năm. Theo ý kiến đánh giá chung của cư dân địa phương và cán bộ quản lý, số lượng lao động tham gia khai thác hiện nay chỉ khoảng từ 10 - 15 người và nguồn lợi thủy sản hồ đã giảm từ 50% đến 80% cùng với môi trường vùng hồ đã bắt đầu có hiện tượng ô nhiễm do rác thải và nước tưới tiêu chảy tràn tùy theo khu vực. Kết quả này chỉ ra rằng suy giảm nguồn lợi thủy sản hồ Đăk R’Tang là một vấn đề cần được xem xét. Đa số ý kiến khảo sát cho thấy thỉnh thoảng cũng còn bắt gặp hình thức khai thác hủy diệt là chích điện. Tuy nhiên, vẫn có một ý kiến cho rằng chích điện xảy ra thường xuyên. Theo đánh giá chung của cả cán bộ quản lý hồ và cư dân địa phương, nguyên nhân của vấn đề này được thống nhất là thiếu cơ chế quản lý phù hợp. Nhìn chung, tình hình khai thác thủy sản tại hồ Tây và hồ Đăk R’Tang tương tự tình khai thác tại một số hồ chứa không nuôi cá và không được quản lý thuộc tỉnh Bình Phước trong những năm trước đây với nhiều loại ngư cụ thô sơ bao gồm cả các ngư cụ mang tính hủy diệt nguồn lợi cao, khai thác tất cả cả các loài có giá trị kinh tế (Châu và cộng sự, 2011). Xem xét theo khía cạnh nguồn lợi, kết quả khảo sát ở cả hai hồ đều bắt gặp cá con và cá mang trứng trong sản phẩm khai thác đã lý giải phần nào hiện trạng nêu trên. Kết quả này cho thấy vấn đề bảo vệ nguồn lợi theo Công văn số 291/SNN-TS của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55 tỉnh Đăk Nông tại hồ Tây và hồ Đăk R’Tang không được thực hiện triệt để. Khảo sát chỉ ra rằng người tham gia khai thác không nắm rõ về các ngư cụ, thời gian khai thác và kích thước tối thiểu đối với các đối tượng được cho phép đánh bắt theo phụ lục kèm theo Công văn nêu trên. Về vấn đề nuôi trồng thủy sản, đối với nhiều hộ dân ở cả hai khu vực, hạn chế lớn nhất là kỹ thuật nuôi. Theo đó, chính quyền và các phòng ban chức năng địa phương cần có chiến lược phát triển nuôi trồng và biện pháp bảo vệ nguồn lợi thủy sản vùng hồ. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Dựa trên các kết quả khảo sát, có thể đưa đến các kết luận và khuyến nghị sau: 1. Kết luận - Hồ Tây và hồ Đăk R’Tang là 2 hồ chứa nhỏ có nhiệm vụ chính là bảo đảm cảnh quan môi trường khu vực và cung cấp nước tưới tiêu nông nghiệp. Bên cạnh đó hồ Tây còn có nhiêmh vụ cung cấp nước sinh hoạt cho thị trấn Đăk Mil. - Hiện nay khai thác thủy sản vẫn là sinh kế quan trọng đối với một số hộ ở hai khu vực. - Hoạt động khai thác bằng các công cụ bị cấm và khai thác vào mùa vụ sinh sản vẫn còn xảy ra ở cả hai hồ. - Nguồn lợi thủy sản ở hai hồ đang giảm sút đáng kể do thiếu cơ chế quản lý chặt chẽ. 2. Kiến nghị - Thiết lập cơ chế quản lý dựa vào cộng đồng và tuyên truyền cho người dân địa phương về việc bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản vùng hồ Tây và hồ Đăk R’Tang. - Tập huấn và phát triển các mô hình nuôi thủy sản để tận dụng mặt nước, đa dạng hóa sinh kế, giải quyết việc làm cho lao động địa phương và giảm áp lực đối với hoạt động khai thác nguồn lợi tại 2 hồ kể trên. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Lê Ngọc Châu, Nguyễn Phú Hòa, Lê Thanh Hùng, Vũ Cẩm Lương; 2011. Hiện trạng khai thác cá ở một số hồ chứa nhỏ thuộc tỉnh Đồng Nai và Bình Phước. Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh. (fi le/40; truy cập ngày 27/04/2013) 2. Dự án IMOLA-Huế (dịch), 2006. Cẩm nang: Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn và phân tích sinh kế bền vững (Mạng lưới các trung tâm nuôi trồng thủy sản châu Á - Thái Bình Dương - NACA). UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế. 3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đăk Nông, 2013. Phụ lục 2, 3, 4 và 5 (Công văn số 291/SNN-TS), 27/03/2013. Tiếng Anh 4. Ram C.Bhujel, 2007. Statistics for aquaculture, Asian Institure of Technology (AIT). Wiley-Blackwell. 5. De Silva, S.S. and Amarasinghe, U.S. (eds.); 2009. Status of reservoir fi sheries in fi ve Asian countries. NACA Monograph No. 2. Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacifi c, Bangkok, Thailand. 6. Sommano Phounsavath, 1998. Community-based fi sheries management as an approach to participatory management of reservoir fi sheries – A case study of two fi shing villages at the Nam Ngum reservoir, Lao P.D.R. 7. A thesis submitted in partial fulfi llment of the requirements for the degree of Master of Science. Asian Institute of Technology. 8. Ho Manh Tuan, Harvey Demain and Amararatne Yakupitiyage, 2008. Strategies to improveove livelihood of the rural poor: A case study in two small reservoirs in Binh Phuoc province, Viet Nam. Aquaculture Asia Magazine Vol. XIII, No. 1 January-March.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsinh_ke_cong_dong_va_hoat_dong_khai_thac_nguon_loi_thuy_san.pdf
Tài liệu liên quan