Nghiên cứu sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của chính phủ Việt Nam đến nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Khánh Hòa

Nghiên cứu sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu ảnh hưởng đến nghề câu cá ngừ đại dương đã cho thấy rằng, nhờ có khoản trợ cấp cuả Chính phủ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của nghề câu xa bờ của tỉnh Khánh Hòa năm 2008 là cao hơn 3,01% khi không có nhận trợ cấp. Bên cạnh đó, tỷ số lợi nhuận trên vốn đầu tư của nghề câu cá ngừ đại dương khi có trơ cấp là cao hơn 7,49% khi so sánh với không có trợ cấp. Như vậy, với sự trợ cấp một phần chi phí xăng dầu của Chính phủ không những giúp ngư dân tăng thêm thu nhập trong năm hoạt động của họ mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ tàu.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 99 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của chính phủ Việt Nam đến nghề câu cá ngừ đại dương tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC NGHIÊN CỨU SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XĂNG DẦU CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM ĐẾN NGHỀ CÂU CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG TỈNH KHÁNH HÒA A STUDY ON THE EFFECT OF THE VIETNAM GOVERMENT LUMP-SUM SUBSIDY ON THE OFFSHORE LONG LINE TUNA FISHERY IN KHANH HOA PROVINCE Cao Thị Hồng Nga1 Ngày nhận bài: 01/9/2014; Ngày phản biện thông qua: 18/11/2014; Ngày duyệt đăng: 10/2/2015 TÓM TẮT Nghiên cứu này cho thấy sự trợ cấp xăng dầu của Chính phủ Việt Nam không những giúp các chủ tàu tăng thêm thu nhập mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động đánh bắt trong năm 2008. Cụ thể, không có trợ cấp xăng dầu của Chính phủ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu trung bình của một tàu câu cá ngừ dương tại tỉnh Khánh Hòa vào năm 2008 là đạt 11,3% và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư trung bình của một tàu câu là 24,07%. Nếu cộng thêm khoảng trợ cấp xăng dầu thì hai tỷ số tương ứng này sẽ tăng lên và lần lượt đạt là 14,31% và 31,56%. Bài báo này cũng cho thấy sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu vào năm 2008 làm cho tàu câu cá ngừ đại dương đạt hiệu quả kinh tế hơn khi so sánh với năm 2004 khi chưa có trợ cấp của Chính phủ. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng cho thấy sự trợ cấp trực tiếp của Chính phủ để bù vào một phần chi phí xăng dầu cho các ngư dân hoạt động trong nghề cá xa bờ tại Nha Trang vào năm 2008 là cần thiết và trong tương lai Chính phủ nên có những chính sách hỗ trợ thiết thực hơn nữa để tạo điều kiện cho nghề cá xa bờ phát triển. Từ khóa: Nghề câu cá ngừ đại dương, trợ cấp xăng dầu ABSTRACT The study shows that the Vietnam Goverment fuel subsidy helped the owner of an average long-liner to increase not only in their income but only highly in business effi ciency in 2008. Specifi cally, the owner of an average long-liner earned a profi t margin of 7.5% and return on investment of 15.96% without goverment’s fuel subsidy in 2008. With subsidy, the two corresponding ratios both go up to 10.64% and 23.46% respectively. This study also indicates that the effect of fuel susidy on the tuna offshore fi shery made it more economically effi cient in 2008 when compared to that in 2004. Morover, this study confi rms that the direct subsidy to compensate partly for fuel costs for offshore fi sheries in 2008 was really necessary and Vietnam goverment should support offshore tuna fi shing to develop in the future. Keywords: Offshore longline fi shery, fuel subsidy 1 ThS. Cao Thị Hồng Nga: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ Khánh Hòa là một tỉnh thuộc Nam Trung Bộ với bờ biển dài 385 km, hơn 200 hòn đảo và diện tích hơn 5.197 km2 [1] vì vậy có nhiều tiềm năng để phát triển nghề khai thác hải sản. Tổng sản lượng khai thác những năm gần đây dao động trong khoảng 65 đến 75 ngàn tấn [9], với tổng số tàu thuyền đánh bắt toàn tỉnh là 10.535 chiếc (12/2010) [1]. Trong đó, số lượng tàu đánh bắt xa bờ (≥ 90 Hp) chỉ chiếm hõn 7% và có khoảng 92,8% tổng số tàu thuyền đánh bắt vừa và nhỏ hoạt động trong các khu vực ven bờ. Năm 2001, Khánh Hòa có khoảng 563 tàu câu, trong đó có 64 tàu hoạt động đánh bắt xa bờ nhưng con số này đã tăng lên 200 tàu vào năm 2004 [9]. Tuy nhiên, tổng số lượng tàu câu đánh bắt xa bờ chỉ còn có 107 tàu vào năm 2009 [1]. Điều này có thể cho thấy rằng, có một xu hướng giảm sút trong số lượng tàu đánh bắt xa bờ. Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là chi phí biến đổi trung bình cho một chuyến biển là rất cao vì giá xăng dầu Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG tăng đột biến và giá lương thực, thực phẩm thì cao. Trong khi đó, giá bán cá thì rất thấp. Hậu quả là nhiều chủ tàu đánh bắt đã thua lỗ trong khoảng thời gian qua, và một số chủ tàu đã rời bỏ nghề cá hoặc chuyển sang nghề cá khác [5]. Để giải quyết vấn đề trên, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chương trình trợ cấp xăng dầu cho các chủ tàu. Mục tiêu chính của chương trình này là đảm bảo công ăn việc làm và đảm bảo cho ngư dân có được mức thu nhập từ hoạt động đánh bắt [6]. Năm 2008, sự trợ cấp chí phi xăng dầu của Chính phủ cho các ngư dân được xem như là trợ cấp cho một chuyến đi biển, được trả trực tiếp cho các chủ tàu với tổng số chuyến đánh bắt được giới hạn trong một năm. Tàu có công suất từ 90 Hp trở lên thì được trợ cấp là 10 triệu đồng/chuyến, với số chuyến đánh bắt tối đa là ba chuyến trong một năm. Hay nói một cách khác, tổng số tiền mà chủ tàu này được nhận vào năm 2009 là 30 triệu đồng. Đối với tàu có công suất từ 40 đến 60 Hp thì số tiền được trợ cấp là 6,5 triệu đồng/chuyến, tối đa là 4 chuyến trong một năm. Như vậy, tổng số tiền mà Chính phủ trợ cấp cho tàu có công suất từ 40 hp đến 60 Hp là 26 triệu đồng. Cuối cùng, những tàu có công suất nhỏ hơn 40 Hp thì được nhận trợ cấp là 4 triệu đồng/chuyến, với số chuyến tối đa 5 chuyến trong một năm. Vậy, tổng số tiền mà các chủ tàu thuộc nhóm tàu này được nhận trợ cấp là 20 triệu đồng [2]. Tuy nhiên, đến giữa năm 2009, thì ngư dân mới nhận được tiền trợ cấp từ chính phủ. Có thể nói rằng, đây là lần đầu tiên ngư dân được nhận hỗ trợ của Chính phủ từ sự gia tăng của giá xăng dầu. Vì thế, nghiên cứu vào tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ Việt Nam cho các ngư dân là điều rất cần thiết bởi vì nó có ý nghĩa rất thiết thực về kinh tế xã hội cho ngư dân. Nghề câu cá ngừ đại dương một trong những nghề cá xa bờ có tiềm năng phát triển rất mạnh trong tương lai (hiện tại trữ lượng khai thác tại ngư trường xa bờ chỉ khoảng 54,5% tổng sản lượng tối đa khai thác) [7]. Bên cạnh đó, mục tiêu đánh bắt của các tàu câu này chủ yếu là cá ngừ đại dương, chiếm khoảng 80 đến 90% của tổng sản lượng đánh bắt của mỗi chuyến vào mùa vụ chính. Đây là loài có giá trị kinh tế cao, và thường được xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, và Nhật Bản. Vì thế cần có một cuộc nghiên cứu về sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu đến nghề câu cá ngừ đại dương là điều rất cần thiết bởi vì nó giúp cho các nhà làm chính sách đưa ra những chính sách hợp lý để quản lý nghề cá tốt hơn. Để góp phần thúc đẩy hoạt động đánh bắt xa bờ phát triển, bài báo tập trung đánh giá sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ Việt Nam đối với nghề câu cá ngừ đại dương thông qua việc so sánh hai phương án khi có trợ cấp và không có trợ cấp vào năm 2008. Đồng thời bài báo này cũng muốn so sánh tác động của chính sách xăng dầu vào năm 2008 và không có nhận trợ cấp vào năm 2004 của nghề câu cá ngừ đại dương để từ đó gợi lên những chính sách để giúp cho nghề cá xa bờ tiếp tục phát triển hơn. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ đối với nghề câu cá ngừ đại dương tại tỉnh Khánh Hòa năm 2008. 2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu Năm 2008 sự trợ cấp cho chi phí xăng dầu của Chính phủ cho các ngư dân [2] có thể được xem như là một sự trợ cấp cho mức nỗ lực đánh bắt, nhưng thực tế nó là sự trợ cấp về thu nhập cho các ngư dân, vì thế mức trợ cấp này được tính thêm vào doanh thu từ hoạt động đánh bắt thay vì trừ nó ra khỏi tổng chi phí hoạt động trong cuộc nghiên cứu này [7]. Do đó, sử dụng một số chỉ tiêu định lượng như: tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư để đo lường sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ Việt Nam vào nghề cá. Phương pháp sử dụng trong bài báo này là sử dụng phương pháp so sánh: So sánh tuyệt đối và so sánh tương đối: khi có trợ cấp xăng dầu và không có trợ cấp xăng dầu của các tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2008. Đồng thời, cuộc nghiên cứu này cũng so sánh sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2008 (khi có trợ cấp xăng dầu của Chính phủ) với năm 2004 (khi chưa có trợ cấp xăng dầu của Chính phủ). 2.2. Dữ liệu nghiên cứu Để phục vụ cho cuộc nghiên cứu tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp và được lấy từ các nguồn sau: Long et al, 2008 [9], và Nga, 2010 [10]. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Đặc điểm của nghề câu cá ngừ đại dương của Tỉnh Khánh Hòa Nghề câu cá ngừ đại dương của tỉnh Khánh Hòa được phát triển vào những năm 1990. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31 Các tàu câu cá ngừ đại dương ở tỉnh Khánh Hòa được đóng từ các mẫu dân gian truyền thống, vật liệu đóng tàu chủ yếu là gỗ. Ngư cụ đánh bắt cá ngừ đại dương mà ngư dân sử dụng là vàng câu. Câu là một ngư cụ rất đơn giản, nguyên tắc chung là dùng mồi để nhử cá ăn mồi và mắc câu. Tính đến năm 2009, tổng số lượng tàu câu là 1.299 chiếc, trong đó có 107 tàu câu đánh bắt xa bờ (chiếm 8,2%) chủ yếu tập trung ở thành phố Nha Trang. Mục tiêu đánh bắt của các loại tàu câu này là cá ngừ đại dương, mực, cá mập và cá chuồn. Trong đó, cá ngừ đại dương là mục tiêu quan trọng nhất. Cá ngừ đại dương gồm có hai loại đó là cá ngừ đại dương vây vàng và cá ngừ đại dương mắt to. Thị trường xuất khẩu cho hai loại này là Mỹ và Nhật Bản. Ngư dân thường đánh bắt cá ngừ đại dương ở các ngư trường xa bờ và thường tập trung đánh bắt ở vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và vùng biển quốc tế. Các tàu thường mất khoảng từ 50 giờ đến 70 giờ để đến được ngư trường này. Tàu câu xa bờ thường hoạt động từ tháng 12 của năm này đến tháng tám (hay tháng chín) của năm sau. Từ tháng 12 đến tháng tư, đây được gọi là mùa cá vụ Bắc. Vào mùa cá này, ngư dân thường đánh bắt ở vùng phía Tây bắc của quần đảo Hoàng Sa và gần vùng biển quốc tế của Philipin. Vụ mùa thứ hai là vụ cá Nam. Nó thường kéo dài từ tháng năm đến tháng 9, và hoạt động đánh bắt diễn ra tại các vùng lân cận của quần đảo Trường Sa đến vùng biển của Malaysia. Sau mỗi chuyến đánh bắt, ngư dân thường nghỉ ở nhà từ 5 đến 7 ngày để chuẩn bị cho chuyến đi biển tiếp theo. Tàu đánh bắt xa bờ thường có chi phí đầu tư rất lớn. Những thiết bị được trang bị trên tàu như la bàn, máy định vị toàn tàu và thiết bị đài, radio. Chiều dài của câu là khoảng 35 đến 60 kilomet với 900 đến 1400 lưỡi câu. Tổng sản lượng đánh bắt trên một chuyến là khoảng từ 1000 đến 1500 kg, trong đó cá ngừ đại dương chiếm khoảng 80 đến 90%. Mặc dù cá ngừ đại dương có giá trị kinh tế cao, ngư dân vẫn thay đổi mục tiêu loài đánh bắt theo mùa vụ. Ví du, có một số ngư dân vẫn đánh bắt cá ngừ đại dương cả năm, nhưng vẫn có ngư dân đánh mắt cá chuồn hay câu mực vào mùa phụ. 2. Sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của chính phủ Việt Nam cho đội tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2008 Bảng 1. Các chỉ tiêu kinh tế của 37 tàu câu cá ngừ đại dương ở Khánh Hòa năm 2008 khi tính cả hai phương án: trợ cấp và không có trợ cấp chi phí xăng dầu của chính phủ (ĐVT: triệu đồng) STT Các chỉ tiêu Tàu câu cá ngừ đại dương Không có trợ cấp Có trợ cấp 1. Doanh thu thuần 845,123 845,123 2. Trợ cấp 0,000 29,748 3. Tổng doanh thu (3)=(1)+(2) 845,123 874,871 4. Tổng chi phí hoạt động 749,592 749,592 5. Lợi nhuận (5)=(3)-(4) 95,531 125,279 6. Giá trị tính theo tổng tài sản 396,92 396,92 7. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (7)=(5)/(3)*100 11,3% 14,31% 8. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (8)=(5)/(6)*100 24,07% 31,56% Nguồn dữ liệu: Nga, 2010 [10] Bảng 3 chỉ cho thấy năm 2008 tổng doanh thu trung bình của một tàu câu cá ngừ đại dương tại tỉnh Khánh Hòa khi chưa tính trợ cấp là 845,123 triệu đồng, và con số này sẽ tăng thêm 29,748 triệu đồng khi tính thêm khoản trợ cấp của Chính phủ - tương đương với tốc độ tăng là 3,51%. Bên cạnh đó, tổng chi phí hoạt động trung bình trong năm của một con tàu là 749,592 triệu đồng. Như vậ y, lợi nhuận trung bình của một con tàu đều mang số dương khi tính cả hai phương án đó là có trợ cấp và không trợ cấp. Điều này được thể hiện cụ thể như sau: với 95,531 triệu đồng là lợi nhuận khi không có khoản trợ cấp và 125,279 triệu đồng bao gồm cả trợ cấp. Hơn thế nữa, bảng 1 cũng thể hiện một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng khác như tỷ suất giữa lợi nhuận trên doanh thu, và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư tính trung bình cho một con tàu vào năm 2008. Cụ thể, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là11,3% khi chưa có trợ cấp của Chính phủ và tỷ số này đã tăng lên đến 14,31% khi tính thêm khoản trợ cấp của Chính phủ. Loại bỏ khoản trợ cấp, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư trung bình cho một con tàu là 24,07% và con số này đã tăng lên đến 31,56% nếu bao gồm khoản trợ cấp trên. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Bảng 2 so sánh về các chỉ tiêu kinh tế quan trọng giữa ba nhóm tàu câu cá ngừ đại dương tỉnh Khánh Hòa năm 2008 bao gồm có và không có trợ cấp chi phí xăng dầu của Chính phủ. Chúng ta có thể thấy rằng tổng doanh thu trung bình của một con tàu đại diện cho nhóm tàu có công suất dưới 90 hp là 702,14 triệu đồng khi chưa có trợ cấp của chính phủ, và cộng với khoản trợ cấp cho nhóm tàu này là 26 triệu đồng thì con số này đã tăng lên đến 728,14 triệu đồng. Nếu lấy tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí trong một năm hoạt động thì nhóm tàu thuộc công suất dưới 90Hp có lợi nhuận bình quân là 67,349 triệu đồng, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 9,59%, và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư là 39,47% khi chưa bao gồm trợ cấp. Nhờ sự trợ cấp trực tiếp từ phía Chính phủ đã giúp cho lợi nhuận tính bình quân cho một tàu thuộc nhóm tàu này tăng thêm là 26 triệu đồng, tương ứng với tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất thu hồi vốn lần lượt tăng thêm 3,24% và 15,25%. Tương tự, kết quả nghiên cứu cũng chỉ cho thấy rằng, nếu không có sự trợ cấp này, bình quân một con tàu thuộc nhóm tàu với công suất từ 90Hp đến 150Hp đạt lợi nhuận là 97,69 triệu đồng, tương ứng với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 11,69% và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư là 27,69%. Nhờ vào sự trợ cấp xăng dầu của Chính phủ, lợi nhuận trung bình của nhóm tàu này đã tăng lên đến 127,69 triệu đồng - với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư lần lượt tăng lên và đạt tương ứng lần lượt là 14,75% và 34,44%. Cuối cùng, tính đến khoản trợ cấp, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu bình quân dành cho một chủ tàu thuộc nhóm tàu cuối cùng là 12,36% và tỷ suất trên vốn đầu tư là 18,62%. Cộng với khoản trợ cấp của Chính phủ, hai tỷ số này lần lượt đạt tới 14,97% và 23,23% dành cho nhóm tàu có công suất trên 150Hp. 3. So sánh sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ Việt nam cho nghề câu cá ngừ đại dương khi có trợ cấp xăng dầu vào năm 2008 với không có trợ cấp xăng dầu vào năm 2004 Năm 2004, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của một tàu câu cá ngừ đại dương trung bình là 12,1% khi không có trợ cấp xăng dầu của Chính phủ [9]. Tuy nhiên, tỷ số này vào năm 2008 khi có cả trợ cấp thì đạt là 14,31%. Điều đó cho thấy rằng sự hỗ trợ chính sách xăng dầu của Chính phủ có tác động đến hiệu quả đánh bắt của tàu câu cá ngừ đại dương, làm cho hiệu quả đánh bắt trung bình của một tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2008 cao hơn năm 2004. Bên cạnh đó, chúng ta cũng so sánh sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ cho từng nhóm tàu được phân chia theo công suất khi có nhận trợ cấp vào năm 2008 và không có sự trợ cấp vào năm 2004. Kết quả này được thể hiện như sau: năm 2004 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của một tàu thuộc nhóm tàu có công suất từ 90Hp đến 150Hp là cao nhất (15,312%), tiếp đến là nhóm tàu Bảng 2. Một số chỉ tiêu kinh tế của ba nhóm tàu câu cá ngừ đại dương tỉnh Khánh Hòa năm 2008 khi tính cả trợ cấp và không trợ cấp chi phí xăng dầu của Chính phủ ĐVT: triệu đồng STT Các chỉ tiêu Các nhóm tàu câu cá ngừ đại dương Hp 150 Không trợ cấp Có trợ cấp Không trợ cấp Có trợ cấp Không trợ cấp Có trợ cấp 1 Doanh thu thuần 702,140 702,140 835,522 835,522 981,543 981,543 2 Trợ cấp 0,000 26,000 30,000 30,000 30,000 30,000 3 Tổng doanh thu(3)=(1)+(2) 702,140 728,140 835,522 865,522 981,543 1011,543 4 Tổng chi phí hoạt động 634,791 634,791 737,832 737,832 860,138 860,138 5 Lợi nhuận (5)=(3)-(4) 67,349 93,349 97,69 127,69 121,408 151,408 6 Giá trị của tổng tài sản 170,630 170,630 370,79 370,79 651,87 651,87 7 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (7)=(5)/(3)*100 9,59% 12,83% 11,69% 14,75% 12,36% 14,97% 8 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (8)=(5)/(6)*100 39,47% 54,79% 27,96% 34,44% 18,62% 23,23% Nguồn dữ liệu: Nga, 2010 [10] Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33 có công suất dưới 90Hp là 12,85%, và nhóm tàu có công suất lớn 150Hp thì có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là thấp nhất (8,8%) (bảng 3). Tuy nhiên, nhờ có sự trợ cấp xăng dầu của chính phủ vào năm 2008, tỷ số này dành cho nhóm tàu trên 150 hp có sự thay đổi đáng kể. Cụ thể, nhờ có sự trợ cấp xăng dầu của Chính phủ mà tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2008 (14,97%) của nhóm tàu câu cá ngừ đại dương có công suất trên 150Hp cao gần hai lần so với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2004 (8,8%) khi không có trợ cấp và là nhóm tàu câu cá ngừ đại dương đạt hiệu quả đánh bắt cao nhất vào năm 2008 khi có trợ cấp. Ngược lại, nhóm tàu có công suất dưới 90Hp và từ 90Hp đến 150Hp thì có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2008 giảm so với năm 2004. Ví dụ, năm 2008 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của nhóm tàu dưới 90 hp là 12,83%, thấp hơn 0,02% khi so sánh với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2004, và nhóm tàu có công suất từ 90Hp đến 150Hp thì có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2008 thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2004 là 0,56%. Điều đó cho thấy rằng, mặc dù sự trợ cấp chi phí xăng dầu của Chính phủ không nhiều (từ 20 triệu đến 30 triệu đồng) cho các ngư dân, nhưng nó cũng giúp ngư dân tiếp tục hoạt động đánh bắt của mình. Điều này không những giúp ngư dân có thêm thu nhập mà còn tạo công ăn việc làm cho ngư dân. Bảng 3. So sánh sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ Việt Nam cho nghề câu cá ngừ đại dương khi có trợ cấp xăng dầu vào năm 2008 và không có trợ cấp xăng dầu vào năm 2004 Năm Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (%) cho các nhóm tàu câu cá ngừ đại dương 150Hp Năm 2004 (*) 12,85 15,31 8,80 Năm 2008(**) 12,83 14,75 14,97 Nguồn dữ liệu (*) Long et al, 2008 [9], và (**) Nga, 2010[10] IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Nghiên cứu sự tác động của chính sách hỗ trợ xăng dầu ảnh hưởng đến nghề câu cá ngừ đại dương đã cho thấy rằng, nhờ có khoản trợ cấp cuả Chính phủ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của nghề câu xa bờ của tỉnh Khánh Hòa năm 2008 là cao hơn 3,01% khi không có nhận trợ cấp. Bên cạnh đó, tỷ số lợi nhuận trên vốn đầu tư của nghề câu cá ngừ đại dương khi có trơ cấp là cao hơn 7,49% khi so sánh với không có trợ cấp. Như vậy, với sự trợ cấp một phần chi phí xăng dầu của Chính phủ không những giúp ngư dân tăng thêm thu nhập trong năm hoạt động của họ mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ tàu. Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu của một tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2008 khi có cả trợ cấp (14,31%) là cao hơn tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của một tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2004 khi chưa có trợ cấp của Chính phủ (12,1%). Điều đó cho thấy rằng sự hỗ trợ chính sách xăng dầu của chính phủ có tác động đến hiệu quả đánh bắt của tàu câu cá ngừ đại dương, làm cho hiệu quả đánh bắt trung bình của một tàu câu cá ngừ đại dương vào năm 2008 cao hơn năm 2004. Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách hỗ trợ xăng dầu của Chính phủ đã có tác động đến nghề cá xa bờ nói chung và nghề câu cá ngừ đại dương nói riêng. Năm 2004 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của một tàu thuộc nhóm tàu có công suất từ 90Hp đến 150 hp là cao nhất (15,312%), tiếp đến là nhóm tàu có công suất dưới 90Hp là 12,85%, và nhóm tàu có công suất lớn 150Hp thì có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là thấp nhất (8,8%). Tuy nhiên, nhờ có sự trợ cấp xăng dầu của Chính phủ vào năm 2008, tỷ số này dành cho nhóm tàu trên 150Hp cao gần hai lần so với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2004 khi không có trợ cấp và là nhóm tàu câu cá ngừ đại dương đạt hiệu quả đánh bắt cao nhất vào năm 2008 khi có trợ cấp. Ngược lại, nhóm tàu có công suất dưới 90Hp và từ 90Hp đến 150Hp thì có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu vào năm 2008 giảm so với năm 2004. Điều này có thể nói lên rằng sự trợ cấp của Chính phủ không chỉ dừng lại ở trợ cấp xăng dầu mà còn thể hiện những chính sách hỗ trợ thiết thực hơn nữa cho ngư dân hoạt động trong nghề cá xa bờ trong tương lai như cho vay với mức lãi suất thấp để ngư dân có điều kiện đầu tư tàu có công suất lớn, máy móc thiết bị đánh bắt mới để ngư dân tiếp tục bám biển cũng như đảm bảo an toàn khi đánh bắt ở ngư trường xa bờ. Trong tương lai, Chính phủ Việt Nam nên có thêm nhiều chính sách hỗ trợ để giúp cho nghề cá xa bờ phát triển hơn nữa vì theo thống kê của FAO (2005) [8], tổng trữ lượng cá đánh bắt xa bờ là 1,93 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác chỉ mới hơn 0,77 triệu tấn. Điều này đã chỉ cho thấy nghề cá xa bờ có tiềm năng phát triển rất lớn đối với Việt Nam nói chung và Khánh Hòa nói riêng mà còn bảo vệ Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2015 34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG an ninh quốc phòng của Việt Nam sau khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 tại biển Đông gần quàn đảo Trường Sa của Việt Nam vào ngày 1 tháng 5 năm 2014 vừa qua. Những nghiên cứu tiếp theo nên thu nhập thêm dữ liệu từ “gói hỗ trợ” cho ngư dân bám biển của Chính phủ Việt Nam vào năm 2014 [4] để phân tích hiệu quả của việc thực hiện “gói hỗ trợ này”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Chi cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản tỉnh Khánh Hòa, 2010. Số liệu thống kê và báo cáo thường niên. 2. Quy định, 2008b. quy định 965/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủViệt Nam vào ngày 21/7/2008, quy định về sửa chữa và nâng cấp 289/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ Việt Nam vào 18/3/2008. Truy cập tại: lawdocs/QD965TTG.DOC?id=73996 3. 8B5B34725712900278458&id=8143466D6A28B5B34725712900278458&Start=0 4. 5. 6. Tiếng Anh 7. Duy, N.N, 2012. Open access fi shing rent and effi ciency. The case of gillnet vessels in Nha Trang, VietNam. Fisheries research 127-128: 98-108 8. FAO, 2005. Report of the conference on the national strategy for marine fi sheries managements and development in Vietnam. FAO/FishCode Review No.16, Food and Agricultural Organisation of the United Nations, Rome, Italy. 9. Long, K.L., Flaaten, O., Kim Anh, T.N., 2008. Economic Performance of Open-Access Fisheries- The Case of Vietnamese Longliners in the South China Sea. Fisheries research 93: 296-304. 10. Nga, 2010. Study on the economic effi ciency of the offshore longline fi shhery in Khanh Hoa province, Vietnam. Tromso College, Norway. 11. Vietsea, 2009. General developed project of Khanh Hoa fi shery during 2015 -2020. The department of Khanh Hoa Agriculture and Rural development, Vietnam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_su_tac_dong_cua_chinh_sach_ho_tro_xang_dau_cua_ch.pdf
Tài liệu liên quan