Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii Brandt, 1833) giai đoạn cá hương lên cá giống

Cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho tốc độ sinh trưởng tương đối và tuyệt đối cao hơn công thức CT2 (1,76 g/con/ngày; 48,92% so với 1,1 g/con/ngày; 36,69%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về 2 chỉ tiêu này giữa công thức CT1 (1,38 g/con/ngày; 42,31%) và công thức CT2 và CT3. Cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho khối lượng cuối cao nhất (26,83 g/con), tiếp theo là công thức CT1 (23,12 g/con) và thấp nhất là công thức CT2 (20,45 g/con). Tỷ lệ sống của cá đạt được ở công thức thức ăn CT3 và CT1 cao hơn so với công thức CT2 (82,83; 82,17 so với 67,17%). Cần nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng của các công thức thức ăn lên hiệu quả sử dụng thức ăn, thành phần sinh hóa và hiệu quả kinh tế của cá tầm Nga giai đoạn cá bột lên cá giống.

pdf6 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 175 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii Brandt, 1833) giai đoạn cá hương lên cá giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Thị Lê Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 107(07): 25 - 30 25 NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN LÊN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ TẦM NGA (Acipenser gueldenstaedtii Brandt, 1833) GIAI ĐOẠN CÁ HƯƠNG LÊN CÁ GIỐNG Trần Thị Lê Trang1*, Nguyễn Viết Thùy2 1Trường Đại học Nha Trang 2Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3 TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện trong 4 tuần nhằm đánh giá ảnh hưởng của một số công thức thức ăn (CT1 – Thức ăn chế biến; CT2 – Thức ăn công nghiệp và CT3 – Thức ăn công nghiệp kết hợp với trùn chỉ) lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho tốc độ sinh trưởng tương đối và tuyệt đối cao hơn công thức CT2 (1,76 g/con/ngày; 48,92% so với 1,1 g/con/ngày; 36,69%; P < 0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về 2 chỉ tiêu này giữa công thức CT1 (1,38 g/con/ngày; 42,31%) và công thức CT2 và CT3 (P > 0,05). Tương tự, cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho khối lượng cuối cao nhất (26,83 g/con), tiếp theo là công thức CT1 (23,12 g/con) và thấp nhất là công thức CT2 (20,45 g/con) (P < 0,05). Tỷ lệ sống của cá đạt được ở công thức thức ăn CT3 và CT1 cao hơn so với công thức CT2 (82,83; 82,17 so với 67,17%; P < 0,05). Từ nghiên cứu này có thể nhận thấy, công thức thức ăn CT3 là thích hợp cho ương cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Từ khóa: Acipenser gueldenstaedtii, cá giống, cá hương, cá tầm Nga, tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống. MỞ ĐẦU* Cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii) là loài cá sụn, có giá trị kinh tế cao, thịt thơm ngon và được thị trường ưa chuộng. Trứng cá tầm Nga (caviar) có giá rất cao trên thị trường thế giới (trên 5.000 USD/kg) trong khi thịt cá chỉ khoảng 20 USD/kg [1, 2]. Cá tầm Nga phân bố tự nhiên ở các vùng ôn đới (Nga, Ukraina, Bulgari,...), tuy nhiên, chúng có khả năng thích ứng tốt với môi trường, đặc biệt là nhiệt độ (2 – 30oC) và độ mặn (0 – 35‰) [4, 9, 15]. Chính vì vậy, cá tầm Nga đã được di nhập và nuôi ở nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ và châu Á trong đó có Việt Nam [4]. Thực tiễn cho thấy, cá tầm Nga có khả năng thích ứng tốt với các điều kiện nuôi ở nước ta, đặc biệt là các vùng nước lạnh thuộc Tây Bác và Tây Nguyên [1, 9]. Sự phát triển của nghề nuôi cá tầm đã đưa Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước sản xuất cá tầm lớn nhất thế giới [9]. Việc phát triển nghề nuôi cá tầm nói riêng và cá nước lạnh nói chung tại các vùng * Tel. 0973533710;Email: letrangntu@gmail.com Tây Bắc và Tây Nguyên là một trong những chiến lược quan trọng của ngành Thủy sản giai đoạn 2010 đến 2020 nhằm phát triển kinh tế xã hội ở các vùng cao nguyên. Tuy nhiên, nghề nuôi cá tầm ở nước ta hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn do phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn giống và thức ăn nhập khẩu từ các nước Châu Âu. Trong ương giống cá nói chung và cá tầm nói riêng, tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: nguồn giống, chất lượng thức ăn, các yếu tố môi trường, mật độ ương, thiết bị ương, kỹ thuật chăm sóc quản lý, [10, 13, 18]. Trong đó, thức ăn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế và kỹ thuật. Việc tận dụng các loại thức ăn sẵn có tại địa phương, kết hợp thức ăn tổng hợp và thức ăn tươi sống là một trong những giải pháp tích cực nhằm chủ động nguồn thức ăn và giảm chi phí sản xuất cho nghề ương giống cá tầm. Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định công thức thức ăn thích hợp góp phần nâng cao tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả ương cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Thị Lê Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 107(07): 25 - 30 26 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vật liệu và phương pháp bố trí thí nghiệm Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm nghiên cứu Cá nước lạnh Tây Nguyên (Lâm Đồng) từ tháng 8 – 11 năm 2011 trên đối tượng cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii Brandt, 1833). Nguồn cá thí nghiệm: Cá bột sau khi nở 7 – 9 ngày được tiến hành bố trí vào các bể thí nghiệm với mật độ 2.000 con/m2. Cá đưa vào thí nghiệm là những cá thể khỏe mạnh, đều cỡ, vận động linh hoạt và màu sắc tự nhiên. Thời gian thí nghiệm khoảng 4 tuần tương ứng với giai đoạn cá hương lên cá giống (3 – 5 g/con). Cá được bố trí trong các bể composite hình tròn, diện tích đáy 3 m2, mực nước 0,2 – 0,3 m. Bể ương được lắp đặt hệ thống nước chảy tự động với lưu tốc 10 – 15 L/phút. Thức ăn và chế độ cho ăn: Trong nghiên cứu này, 3 công thức thức ăn được thử nghiệm nhằm xác định loại thức ăn thích hợp cho ương giống cá tầm Nga: Công thức 1 (CT1): Thức ăn chế biến (lách bò 20%, trùn quế tươi (Perionyx excavatus) 10%, thức ăn công nghiệp (TACN) của cá mú 70%). Cá được cho ăn với khẩu phần 5 – 7% khối lượng thân/ngày, chia làm 8 lần/ngày. Công thức 2 (CT2): 100% TACN Skerting (protein 35%). Cá được cho ăn với khẩu phần 5 – 7% khối lượng thân/ngày, chia làm 8 lần/ngày. Công thức 3 (CT3): TACN Skerting và trùn chỉ (Tubifex sp.). Cá được cho ăn xen kẽ 1 lần trùn chỉ và 2 lần TACN. Khẩu phần cho ăn là 5 – 7% khối lượng thân/ngày, chia làm 8 lần/ngày. Thí nghiệm được thực hiện với 3 lần lặp cùng thời điểm trong thời gian 4 tuần. Quản lý các yếu tố môi trường: Các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước, hàm lượng oxy hòa tan (đo 1 ngày/lần), pH, hàm lượng NH3 và H2S (đo 1 tuần/lần) được kiểm tra định kỳ bằng các dụng cụ (nhiệt kế, test oxy, pH, NH3 và H2S) và duy trì trong phạm vi thích hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cá. Hàng ngày, bể ương được tiến hành vệ sinh, loại bỏ thức ăn thừa, chất thải và cá chết. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của cá được xác định định kỳ (7 ngày/lần) bằng cách thu ngẫu nhiên 30 con trong mỗi bể ương. Khối lượng cá được xác định bằng cân điện tử có độ chính xác 0,01 g. Tỷ lệ sống của cá được xác định bằng cách đếm tất cả số lượng cá tại thời điểm kết thúc thí nghiệm. Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối AGR (g/con/ngày) và tương đối RGR (%) [16]: 2 1 (g/con/ngày) 2 1 W WAGR t t − = − 2 1 x 100% 1 W WRGR W − = Trong đó: - W1, W2 – Khối lượng cá ở thời điểm t1, t2 (g); - t1, t2 – Thời điểm cân cá lần trước và sau (ngày). Tỷ lệ sống: (Số cá khi kết thúc thí nghiệm/ Số cá ban đầu) x 100% Các số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng phương pháp phân tích phương sai một yếu tố (oneway – ANOVA) và phép kiểm định Duncan để so sánh sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) về tốc độ sinh trưởng tuyệt đối, tương đối và tỷ lệ sống của cá giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Toàn bộ số liệu được trình bày dưới dạng giá trị trung bình (TB) ± sai số chuẩn (SE). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Diễn biến các yếu tố môi trường Nhìn chung các yếu tố môi trường như nhiệt độ nước (16,4 ± 1,2oC), hàm lượng oxy hòa tan (7,1 ± 0,5 mg O2/L), pH (6,8 – 7,3), hàm lượng NH3 (< 0,15 mg/L) và H2S (< 0,02 mg/L) đều nằm trong phạm vi thích hợp cho sinh trưởng, phát triển và tỷ lệ sống của cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Thị Lê Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 107(07): 25 - 30 27 Ảnh hưởng của thức ăn lên tỷ lệ sống của cá tầm Nga Kết quả nghiên cứu cho thấy, thức ăn cũng ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống của cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Sau 4 tuần thí nghiệm, cá được cho ăn công thức thức ăn CT1 và CT3 cho tỷ lệ sống cao hơn so với công thức CT2 (82,17 ± 3,76% và 82,83 ± 4,16% so với 67,17 ± 3,44%; P < 0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về tỷ lệ sống giữa cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 (và công thức CT1 (P > 0,05) (Hình 1). Hình 1. Ảnh hưởng của thức ăn lên tỷ lệ sống của cá tầm Nga Các ký tự chữ cái khác nhau trên hình thể hiện sự khác biệt thống kê (P < 0,05) Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của cá tầm Nga Hình 2. Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng tuyệt đối Thức ăn có ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ sinh trưởng tuyệt đối (AGR) của cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Sau 4 tuần ương, cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho tốc độ sinh trưởng tuyệt đối cao hơn so với công thức CT2 (1,76 ± 0,14 g/con/ngày so với 1,10 ± 0,09 g/con/ngày) (P < 0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về chỉ tiêu này giữa cá được cho ăn công thức CT1 (1,38 ± 0,11 g/con/ngày) so với công thức CT3 hay CT2 (P > 0,05) (Hình 2). Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng tương đối của cá tầm Nga Hình 3. Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng tương đối Tương tự, thức ăn cũng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng tương đối (RGR). Cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho tốc độ sinh trưởng tương đối cao hơn so với công thức CT2 (48,92 ± 4,36% so với 36,69 ± 1,62%) (P < 0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về tốc độ sinh trưởng tương đối giữa cá được cho ăn công thức thức ăn CT1 (42,31 ± 2,45%) so với công thức CT2 và CT3 (P > 0,05) (Hình 3). Ảnh hưởng của thức ăn lên khối lượng cá tầm Nga cuối thí nghiệm Khối lượng cá cuối thí nghiệm cũng phụ thuộc chặt chẽ vào loại thức ăn sử dụng. Trong đó, cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 (26,83 ± 0,88 g/con) cho khối lượng cuối cao nhất, tiếp theo là công thức CT1 (23,12 ± 1,01 g/con), thấp nhất là công thức CT2 (20,45 ± 1,03 g/con) (P < 0,05) (Hình 4). a b a Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Thị Lê Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 107(07): 25 - 30 28 Hình 4. Ảnh hưởng của thức ăn lên khối lượng cá tầm Nga cuối thí nghiệm Các ký tự chữ cái khác nhau trên hình thể hiện sự khác biệt thống kê (P < 0,05) Thảo luận chung Thức ăn là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả ương của nhiều loài cá trong đó có cá tầm [3, 6, 17]. Giai đoạn đầu của cá, thành phần thức ăn tốt nhất là các loại thức ăn sống như: luân trùng, Copepoda, Artemia, Moina, Daphnia, trùn chỉ, trùn quế,... Đây là các loại thức ăn ưa thích của cá, giàu dinh dưỡng, phù hợp với cỡ miệng cá, giúp kích thích bắt mồi, hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường bể ương [11, 17]. Cho đến nay, các loại thức ăn sống vẫn được coi là tốt nhất cho ương ấu trùng động vật thủy sản. Tuy nhiên, việc kết hợp thức ăn sống, thức ăn chế biến và công nghiệp được áp dụng phổ biến nhằm khắc phục nhược điểm của mỗi loại thức ăn. Trong nghiên cứu hiện tại, cá tầm Nga được cho ăn công thức thức ăn CT3 (TACN và trùn chỉ) cho tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống cao hơn công thức CT1 (Thức ăn chế biến) và CT2 (TACN). Điều này đã cho thấy vai trò của trùn chỉ đối với cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống. Trùn chỉ là loại thức ăn sống giàu dinh dưỡng (protein 56,7%, lipid 5%), kích thích ấu trùng cá bắt mồi và tiêu hóa thức ăn. Kết quả này tương tự với các nghiên cứu trước khi cho rằng giun trắng (Enchytraeus sp., đối tượng tương tự như trùn chỉ) là tốt nhất cho giai đoạn đầu của cá tầm [3, 10, 11, 12]. Cá được cho ăn thức ăn chế biến (CT1) và thức ăn công nghiệp (CT2) cho tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống hạn chế có thể là do hàm lượng protein thấp (35 – 40%), kém hấp dẫn cá bắt mồi, ngoài ra còn làm gia tăng nguy cơ suy giảm chất lượng nước. Hiệu quả sử dụng thức ăn hạn chế là nguyên nhân làm giảm sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá ở hai nghiệm thức này. Sự kết hợp các loại thức ăn khác nhau thường mang lại hiệu quả cao hơn so với việc sử dụng đơn lẻ một loại [7, 8, 14]. Thực tiễn ương giống cá tầm tại Nga và một số nước Đông Âu cho thấy, việc kết hợp thức ăn sống (trùn chỉ, giun trắng, Moina, Daphnia) và thức ăn công nghiệp giúp cải thiện đáng kể tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá tầm Nga giai đoạn cá hương lên cá giống [5, 7, 8]. Các nghiên cứu tiếp theo nên tập trung vào việc nâng cao chất lượng dinh dưỡng, bổ sung các chất dẫn dụ kích thích cá bắt mồi vào thức ăn nhân tạo nhằm cải thiện kết quả ương giống ca tầm. KẾT LUẬN Cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho tốc độ sinh trưởng tương đối và tuyệt đối cao hơn công thức CT2 (1,76 g/con/ngày; 48,92% so với 1,1 g/con/ngày; 36,69%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt thống kê về 2 chỉ tiêu này giữa công thức CT1 (1,38 g/con/ngày; 42,31%) và công thức CT2 và CT3. Cá được cho ăn công thức thức ăn CT3 cho khối lượng cuối cao nhất (26,83 g/con), tiếp theo là công thức CT1 (23,12 g/con) và thấp nhất là công thức CT2 (20,45 g/con). Tỷ lệ sống của cá đạt được ở công thức thức ăn CT3 và CT1 cao hơn so với công thức CT2 (82,83; 82,17 so với 67,17%). Cần nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng của các công thức thức ăn lên hiệu quả sử dụng thức ăn, thành phần sinh hóa và hiệu quả kinh tế của cá tầm Nga giai đoạn cá bột lên cá giống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Thị Lê Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 107(07): 25 - 30 29 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Quốc Ân, (2008), Báo cáo tình hình nghiên cứu, công nghệ nuôi cá tầm, cá hồi, bào ngư trên thế giới, Phân tích và lựa chọn công nghệ nuôi phù hợp với điều kiện Việt Nam, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III. Nha Trang – Khánh Hòa. 2. Chebanov, M., Rosenthal, H., Gessner, J., Van Anrooy, R., Doukakis, P., Pourkazemi, M., Williot, P., (2011), Sturgeon hatchery practices and management for release. Guidelines FAO Fisheries and Aquaculture Technical Paper No 570. Ankara, FAO. 2011. 110 pp. 3. Dabrowski, K., Kaushik, S.J. and Fauconneau, В., 1985. Rearing of sturgeon (Acipencser baerii) larvae. I. Feeding trial. Aquaculture, 47:185-192. 4. FAO, (2006), Cultured aquatic species information programme. Cultured aquaculture species - Siberian sturgeon In: FAO Fisheries and Aquaculture Department. Rome. 5. Gisbert, E. and P. Williot, (2002), Advances in the larval rearing of Siberian sturgeon, Journal of Fish Biology, 60: 1071-1092. 6. Kaushik, S.J., Breque, J., Blanc, D., (1991), Requirements of protein and essential amino acids and their utilization by Siberian sturgeon (Acipenser baeri). In: Acipenser, P. Williot, ed. Cemagreff Publ. 25-39. 7. Lindberg, J.C., Doroshov S.I., (1986), Effect of diet switch between natural and prepared foods on growth and survival of white sturgeon juveniles. Transactions of the American Fisheries Society, 115:166-171. 8. Lorena, D., Marilena, M., Victor, C., Dumitru, M., 2011. Effect of formulated diet versus live food on growth and survival of Russian sturgeon (Acipenser guldenstaedti) larvae starting exogenous feeding. Bulletin UASVM Animal Science and Biotechnologies, 68(1-2)/2011. 9. Trần Đình Luân, 2012. Hiện trạng sản xuất giống và nuôi cá tầm ở Việt Nam. Tạp chí Thương mại Thủy sản, số 154, trang 83 – 89. 10. Memis, D., Ercan, E., Celikkale, M. S., Timur, M., Zarkua, Z., 2009. Growth and survival rate of russian sturgeon (Acipenser gueldenstaedtii) larvae from fertilized eggs to artificial feeding. Turkish Journal of Fisheries and Aquatic Sciences 9: 47-52. 11. Mohseni M., Pourkazemi M., Hassani S.H., Okorie O.E., Min, T.S., Bai S.C., 2012. Effects of different three live foods on growth performance and survival rates in Beluga (Huso huso) larvae. Iranian Journal of Fisheries Sciences, 11(1) 118 – 131. 12. Oprea, D., Oprea L., 2008. Research concerning feeding of Russian sturgeon fry (Acipenser guldenstaedti Brandt, 1833), reared in a superintensive system, Scientific works, UASVMB., Series A, Vol. LI: 1034 - 1040. 13. Ronayi, A., 1997. Effects of stocking density and feeding frequencies on growth, feed utilization and size structure in juvenile Siberian sturgeon. Halaszat, 2: 91-96. 14. Roozbehfar, R., Jamali, H. and Hematian, R., 2012. The potential of Russian sturgeon (Acipenser gueldenstaedtii) in exploitation of Artemia urmiana in comparison with Daphniasp. and its mixture. World Applied Sciences Journal 20 (6): 776-780. 15. Ruban, G.I., 2005. The Siberian Sturgeon Acipenser baerii Brandt. Species structure and Ecology. Rosental H.K. (ed). World Sturgeon Conservation Society. Special Publication Series. Special Publication No 1. Norderstedt. Germany. 203 p. 16. Schreck, C.B. and Moyle, P.B. editors., 1990. Methods for fish biology. American Fisheries Society, Bethesda, Maryland. 17. Støttrup, J.G. and McEvoy, L.A., 2003. Live feeds in marine aquaculture. Blackwell Publishing, 337 pp. 18. Yan, T., 2007. The study on physiological and biochemical responds of Acipenser schrenckii to the stresses of ambient salinity, pH and capture. Master thesis of Science. East China Normal University. 96 pp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trần Thị Lê Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 107(07): 25 - 30 30 SUMMARY EFFECT OF DIETS ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF RUSSIAN STURGEON (Acipenser gueldenstaedtii Brandt, 1833) FROM FRY TO FINGERLING Tran Thi Le Trang1*, Nguyen Viet Thuy2 1 Nha Trang University 2Institute of Aquaculture Research III A four – week experiment was carried out in order to evaluate the effect of three dietary formula (CT1 – Processed feed; CT2 – Pellet feed and CT3 – Commercial feed together with tubifex worm) on growth and survival rate of the Russian sturgeon from fingerling to juvenile. The results showed that the fish fed on the formula CT3 gave higher absolute and relative growth rates compared to those of the formula CT2 (1.76 g/ind./day; 48.92% as opposed to 1.1 g/ind./day; 36.69%; P < 0.05). However, there were no significant differences about these two parameters between the formula CT1 (1.38 g/ind./day; 42.31%) and those of the formula CT2 and CT3 (P > 0.05). Similarly, the fish fed with the formula CT3 obtained the highest final body weight (26.83 g/ind.), followed by the formula CT1 (23.12 g/ind.) and lowest at the formula CT2 (20.45 g/ind.) (P < 0.05). The survival rates of the fish fed by the formula CT3 and CT1 were higher than those of the formula CT2 (82.83; 82.17 as opposed to 67.17%; P < 0.05). From the results of this study, it can be suggested that the formula CT3 was the most appropriate diet for rearing the Russian sturgeon from fingerling to juvenile. Key words: Acipenser gueldenstaedtii, fingerling, juvenile, growth rate, Russian sturgeon, survival rate. Ngày nhận bài: 13/3/2013; Ngày phản biện:18/3/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013 Phản biện khoa học: GS.TS. Từ Quang Hiển – Đại học Thái Nguyên * Tel. 0973533710;Email: letrangntu@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_anh_huong_cua_cac_loai_thuc_an_len_sinh_truong_va.pdf
Tài liệu liên quan