Hiệu quả một số các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng đô thị sinh thái trên địa bàn thành phố Thái Nguyên

Việc hình thành nên 5 nhóm hộ sản xuất trên địa bàn thành phố có mục đích trước hết là nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ vào việc khai thác các tiềm năng sẵn có, hiệu quả các mô hình đạt được khá cao: mô hình hoa, cây cảnh là 66.800 nghìn đồng, mô hình rau an toàn 46.444,9 nghìn đồng, mô hình cây ăn quả 42.510 nghìn đồng, mô hình thủy sản 108.537 nghìn đồng và mô hình kinh doanh tổng hợp là 228.38 nghìn đồng. Bên cạnh đó các mô hình này cũng có những tác động rất quan trọng về tái tạo các nguồn lực, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Đây thực sự là các mô hình điển hình, cốt lõi trong xu hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái của thành phố trong thời gian tới.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 72 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả một số các mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng đô thị sinh thái trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Văn Thơ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 119 - 123 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 73% 24% 3% 0% Đất sản xuất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Đất nuôi trồng thuỷ sản Đất nông nghiệp khác HIỆU QUẢ MỘT SỐ CÁC MÔ HÌNH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG ĐÔ THỊ SINH THÁI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN Lê Văn Thơ1*, Nguyễn Ngọc Nông1, Hà Anh Tuấn2, Nguyễn Xuân Thành3, Nguyễn Khắc Đạt4 1Trường ĐH Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên, 3Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội,4UBND TX Phú Thọ TÓM TẮT Để có cơ sở định hướng phát triển nông nghiệp Thái Nguyên theo hướng sinh thái, đề tài tiến hành điều tra và đánh giá hiệu quả các mô hình nông nghiệp sinh thái trên địa bàn thành phố phân theo các vùng nội đô, ven đô và xa đô thị. Kết quả cho thấy: Quá trình phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố thời gian qua đã hình thành nên 5 nhóm hộ cơ bản, tương ứng với 5 mô hình chuyên môn hóa kết hợp phát triển tổng hợp với các cơ cấu cụ thể là (1) nhóm hộ trồng hoa, cây cảnh (2) nhóm hộ trồng rau (3) nhóm hộ cây ăn quả (4) nhóm hộ nuôi trồng thủy sản và (5) nhóm hộ kinh doanh tổng hợp. Từ khóa: Hiệu quả, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị sinh thái. ĐẶT VẤN ĐỀ* Cùng với sự phát triển chung của ngành nông nghiệp, thời gian qua trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất theo hướng nông nghiệp sinh thái. Một số các mô hình bước đầu đã mang lại hiệu quả cao cả về kinh tế lẫn sinh thái môi trường, trong đó rõ nét nhất là sự chuyển đổi và phát triển của ngành sản xuất rau sạch, hoa, cây ăn quả, chè an toàn và nuôi trồng thủy sản. Việc đánh giá hiệu quả các mô hình này là cần thiết, trên cơ sở đó tiến hành xây dựng các vùng sản xuất tập trung kết hợp du lịch, sinh thái được xác định là một trong các hướng phát triển của nền nông nghiệp thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới. * Nội dung nghiên cứu: (i) hiện trạng các nhóm hộ sản xuất theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái (ii) đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình. * Phương pháp tiến hành: (i) phương pháp điều tra thu thập tài liệu số liệu, (2) phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế (iii) phương pháp thống kê, xử lý số liệu và viết báo cáo tổng hợp. * Tel: 0912003756; levantho.tuaf@gmail.com KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hiện trạng sử dụng đất năm 2010 Theo kết quả Tổng kiểm kê đất đai năm 2010, thành phố Thái Nguyên có tổng diện tích đất nông nghiệp là 12.266,51 ha chiếm 65,27% tổng diện tích tự nhiên [1]. Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp thành phố năm 2010 thể hiện tại hình 1. Hình 1. Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp năm 2010 Hiện trạng các nhóm hộ sản xuất theo hướng sinh thái Quá trình phát triển cơ cấu kinh tế thời gian qua đã hình thành nên 5 nhóm hộ cơ bản (bảng 1) tương ứng với 5 mô hình chuyên môn hóa kết hợp phát triển tổng hợp với các cơ cấu cụ thể là : (1) Mô hình sản xuất nhóm hộ trồng hoa, cây cảnh: với hoa là sản phẩm chính kết hợp với một số các cây trồng khác. Mô hình hình này có quy mô cơ cấu đất đai và nguồn lực ở mức độ nhỏ nhất. Lê Văn Thơ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 119 - 123 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120 (2) Mô hình sản xuất nhóm hộ trồng rau: với rau là sản phẩm chính, kết hợp với chăn nuôi lợn và một số cây trồng khác. Mô hình này có quy mô cơ cấu đất đai và nguồn lực ở mức tương đối nhỏ. (3) Mô hình sản xuất nhóm hộ trồng cây ăn quả: với cây ăn quả là sản phẩm chính, kết hợp với chăn nuôi thủy sản, gà thả vườn, chăn nuôi lợn và một số cây trồng khác. Mô hình này có quy mô cơ cấu đất đai và nguồn lực ở mức độ tương đối lớn. (4) Mô hình sản xuất nhóm hộ nuôi trồng thủy sản: với thủy sản là sản phẩm chính, kết hợp với chăn nuôi lợn, gia cầm và một số loại cây trồng khác. Mô hình này có quy mô cơ cấu đất đai và nguồn lực ở mức độ khá lớn. (5) Mô hình sản xuất kinh doanh kết hợp: với các loại sản phẩm bao gồm rau, cây ãn quả, thủy sản kết hợp với làm dịch vụ nhý câu cá, kinh doanh dịch vụ, cho thuê các phương tiện vận tải Đánh giá hiệu quả sản xuất các mô hình 1. Mô hình sản xuất của các nhóm hộ trồng hoa, cây cảnh Phát triển sản xuất hoa ở bắt đầu xuất hiện từ năm 2000, một số tiền đề của nền nông nghiệp sinh thái đô thị. Sự phát triển đan xen các vườn hoa trong các khu dân cư, các khu phố vườn và các hoạt động tham quan, du lịch tới các vườn hoa cây cảnh là những tiền đề quan trọng của sản xuất nông nghiệp sinh thái trên địa bàn thành phố Thái Nguyên. Số liệu bảng 2 cho thấy: quy mô trung bình của mỗi hộ trồng hoa trên địa bàn thành phố bao gồm diện tích trồng hoa, cây cảnh: 1280m 2; diện tích trồng các loại cây khác 100m 2 . Số liệu trên cũng có sự thay đổi lớn giữa các hộ trong vùng nội đô, ven đô và vùng xa đô. Nếu như trong vùng nội đô các hộ chỉ có diện tích trung bình khoảng 200 – 300m2 để trồng hoa, cây cảnh, nhiều hộ còn tận dụng cả các khu vực như sân thượng, sân phơi, hành langlàm khu vực sản xuất thì ở khu vực ven đô và xa đô số lượng các hộ sản xuất có quy mô lớn hơn nhiều lần. Vùng ven đô bình quân mỗi hộ có khoảng 800 – 1000m2 đất trồng hoa, kết hợp chăn nuôi và vùng ven đô bình quân mỗi hộ có khoảng 1500m2. Tuy nhiên, ở mô hình hoa, cây cảnh số lượng các hộ tham gia vào sản xuất nhiều nhất lại tập trung ở vùng ven đô, nội đô và tập trung ít nhất ở vùng xa đô thị. Bảng 1. Hiện trạng các nhóm hộ sản xuất theo mô hình nông nghiệp sinh thái TT Các hoạt động sản xuất chính Tổng số hộ (hộ) Chia ra Nội đô Ven đô Xa đô 1 Nhóm hộ trồng hoa, cây cảnh 102 19 35 48 2 Nhóm hộ trồng rau 282 45 92 145 3 Nhóm hộ cây ăn quả 43 12 31 4 Nhóm hộ thủy sản 18 5 13 5 Nhóm hộ sản xuất kinh doanh kết hợp 22 7 15 Tổng 467 64 151 252 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Bảng 2. Mô hình sản xuất của nhóm hộ trồng hoa, cây cảnh TT Các hoạt động sản xuất chính ĐV tính Số lượng Giá trị (1000 đ) Cơ cấu (%) 1 Diện tích trồng hoa, cây cảnh m2 1280 64.000 95,81 2 Diện tích cây trồng khác m2 100 2.800 4,19 Tổng 66.800 100 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Lê Văn Thơ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 119 - 123 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121 2. Mô hình sản xuất của nhóm hộ trồng rau Mô hình phát triển sản xuất rau an toàn trong nhà lưới, sản xuất rau sinh học bằng các chế phẩm vi sinh không dùng hóa chất, sản xuất rau thủy canhđang là những tiền đề quan trọng cho phát triển các hoạt động sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn không gây ô nhiễm và tái tạo sự cân bằng môi trường sinh thái. Đây là phương hướng và mô hình cơ bản cho phát triển sản xuất rau quả ở thành phố Thái Nguyên trong những năm tới. Bên cạnh đó, mô hình sản xuất rau kết hợp phát triển chăn nuôi cũng tương đối phổ biến đối với hầu hết các hộ trồng rau trên địa bàn thành phố. Số liệu tại bảng 3 cho thấy bình quân mỗi hộ trồng rau trên địa bàn thành phố có 1520m2 trồng rau, 1155m2 để trồng các loại cây khác và bình quân mỗi hộ có 4,1 con lợn. Giá trị bình quân thu được từ trồng rau của các nhóm hộ là 41.180.000 đồng, chiếm 88,66% thu nhập của nhóm hộ này. Ngoài ra các nguồn thu nhập thêm của nhóm hộ là các loại cây trồng khác như hoa, cây màu và từ các hoạt động chăn nuôi khác. Nhìn chung, diện tích rau an toàn trên địa bàn thành phố còn chiếm tỷ lệ chưa cao, tập trung tại một số vùng như Túc Duyên, Đồng Bẩm, Cao Ngạn, Tích Lương, chưa cung cấp đủ số lượng rau cho địa bàn thành phố. Đặc biệt là các mô hình như trồng rau thủy canh, trồng trong nhà lưới, nhà kínhcòn ít. Hơn nữa thị trường và các kênh tiêu thụ các sản phẩm này còn chưa được quảng bá rộng rãi cho nên chưa đến được với người tiêu dùng mà chủ yếu vẫn để phục vụ cho các nhà hàng, khách sạn trên địa bàn thành phố. 3. Mô hình sản xuất của nhóm hộ trồng cây ăn quả Mô hình phát triển cây ăn quả, cây trồng lâu năm kết hợp với phát triển chăn nuôi gia cầm theo phương thức công nghiệp kết hợp chăn thả sinh thái cũng là một mô hình nông nghiệp sinh thái bắt đầu được xuất hiện ở vùng ven đô của Thái Nguyên (xã Tân Cương, Phúc Xuân, Lương Sơn, Cao Ngạn). Đây cũng là một mô hình có nhiều tiềm năng phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường tổng hợp. Mô hình này đang mở ra khả năng kết hợp giữa lĩnh vực sản xuất nông sản với các đơn vị làm công tác cung ứng tiêu thụ ở khu vực nội thành thông qua các phương thức liên kết sản xuất, đầu tư ứng trước, hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Bảng 3. Mô hình sản xuất của nhóm hộ trồng rau an toàn TT Các hoạt động sản xuất chính ĐV tính Số lượng Giá trị (1000 đ) Cơ cấu (%) 1 Diện tích trồng rau m2 1520 41.180 88,66 2 Diện tích cây trồng khác m2 1155 1.165 2,51 3 Chăn nuôi lợn Con 4,1 4.100 8,83 Tổng 46.444,9 100 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Bảng 4. Mô hình sản xuất của nhóm hộ trồng cây ăn quả TT Các hoạt động sản xuất chính ĐV tính Số lượng Giá trị (1000 đ) Cơ cấu (%) 1 Cây ăn quả các loại m2 3452 19.170 45,10 2 Cây trồng khác m2 2300 11.810 27,77 3 Nuôi trồng thủy sản m2 525 4.230 9,94 4 Chăn nuôi lợn Con 2.6 2.540 5,98 5 Nuôi gà thả vườn Con 145 4.760 11,21 Tông 42.510 100 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Lê Văn Thơ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 119 - 123 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122 Đối với mô hình này đòi hỏi phải có quỹ đất đai rộng, thời gian đầu tư lâu dài hơn các mô hình khác, yêu cầu chủ hộ phải có nguồn vốn tương đối lớn và trình độ áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Qua điều tra trên địa bàn cho thấy hầu hết các mô hình này đều tập trung ở vùng ven đô, nơi có quỹ đất đai rộng, và các điều kiện thuận lợi khác cho phát triển các mô hình này theo hướng trang trại kết hợp. Các hoạt động sản xuất của nhóm hộ này tương đối đa dạng bao gồm cây ăn quả là chủ đạo, các loại cây trồng khác, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi lợn và chăn nuôi gà thả vườn. 4. Mô hình sản xuất của nhóm hộ nuôi thủy sản Mô hình phát triển chăn nuôi thủy sản theo hướng nông nghiệp sinh thái cũng đã bắt đầu hình thành và phát triển ở một số nơi trên địa bàn thành phố (Thịnh Đức, Phúc Xuân, Lương Sơn) nơi có hệ thống ao hồ và chân ruộng trũng thuận lợi cho phát triển nuôi thả cá. Đặc biệt trong những năm gần đây tại một số xã đã có chương trình khuyến khích nông dân chuyển đổi chân ruộng trũng sang nuôi thả cá, cấy lúa 1 vụ và trồng cây ăn quả kết hợp chăn nuôi. Hạn chế lớn nhất trong các mô hình chăn nuôi thủy sản hiện nay là nguồn nước sạch cho chăn nuôi thủy sản chưa đảm bảo. Phương thức kết hợp giữa nuôi thả cá với phát triển dịch vụ trên các hồ đầm nuôi cá chưa có điều kiện phát triển do sự không đồng bộ của hệ thống cơ sở hạ tầng và yếu tố môi trường chưa được giải quyết. 5. Mô hình kinh doanh tổng hợp Một số mô hình phát triển sản xuất theo hướng nông nghiệp sinh thái ven đô thị đã bắt đầu xuất hiện và mang lại những kết quả tích cực. Mô hình phát triển vườn cây ăn quả và dịch vụ tại xã Thịnh Đức, Tân Cương là một trong các mô hình kết hợp hài hòa giữa phát triển các hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền thống với nuôi thả cá và kinh doanh dịch vụ du lịch. Giá trị sản xuất của mô hình này thu được khá cao 228.380.000 đồng/năm, trong đó thu nhập từ cây ăn quả chiếm 32,07%, chăn nuôi chiếm 31,59%, dịch vụ chiếm 19,92%, còn lại là các hoạt động khác. Mô hình này trong tương lai sẽ được mở rộng phát triển sang khu vực kinh tế hộ gia đình, kết hợp chăn nuôi thủy sản, trồng cây ăn quả và dịch vụ du lịch ở một số địa phương như Phúc Xuân, Tân Cương, Phúc Trìu.Mô hình phát triển nông nghiệp sinh thái kết hợp du lịch dịch vụ này đòi hỏi phải có sự tập trung về quy mô diện tích đất đai nhất định và ở nhưng nơi có điều kiện thuận lợi. Bảng 5. Mô hình sản xuất của nhóm hộ nuôi thủy sản TT Các hoạt động sản xuất chính ĐV tính Số lượng Giá trị (1000 đ) Cơ cấu (%) 1 Nuôi trồng thủy sản M2 3700 83.750 77,16 2 Cây trồng khác M2 1380 10.902 10,04 3 Chăn nuôi lợn Con 15 9.825 9,05 4 Chăn nuôi gia cầm Con 145 4.060 3,74 Tổng 108.537 100 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Bảng 6. Mô hình sản xuất của nhóm hộ kinh doanh tổng hợp TT Các hoạt động sản xuất chính ĐV tính Số lượng Giá trị (1000 đ) Cơ cấu (%) 1 Cây ăn quả M2 6420 73.25 32,07 2 Cây trồng khác M2 2035 15.54 6,80 3 Chăn nuôi lợn Con 9 72.14 31,59 4 Chăn nuôi gia cầm Con 120 4.15 1,82 5 Thủy sản M2 500 17.8 7,79 6 Dịch vụ 45.5 19,92 Tổng 228.38 100 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra Lê Văn Thơ và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 119 - 123 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123 KẾT LUẬN Việc hình thành nên 5 nhóm hộ sản xuất trên địa bàn thành phố có mục đích trước hết là nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ vào việc khai thác các tiềm năng sẵn có, hiệu quả các mô hình đạt được khá cao: mô hình hoa, cây cảnh là 66.800 nghìn đồng, mô hình rau an toàn 46.444,9 nghìn đồng, mô hình cây ăn quả 42.510 nghìn đồng, mô hình thủy sản 108.537 nghìn đồng và mô hình kinh doanh tổng hợp là 228.38 nghìn đồng. Bên cạnh đó các mô hình này cũng có những tác động rất quan trọng về tái tạo các nguồn lực, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Đây thực sự là các mô hình điển hình, cốt lõi trong xu hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái của thành phố trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Báo cáo kết quả kiểm kê đất đai năm 2020, Thái Nguyên, 2010 [2]. Báo cáo Quy hoạch ngành nông nghiệp TPTN đến năm 2020, Thái Nguyên, 2009. [3]. Báo cáo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế TPTN đến năm 2020. [4]. Số liệu thống kê của phòng Thống kê thành phố Thái Nguyên các năm 2005 – 2009. SUMMARY EFFICIENCY OF SOME MODELS FOR AGRICULTURAL PRODUCTION BY ECOLOGICAL URBAN IN THAI NGUYEN CITY Le Van Tho 1* , Nguyen Ngoc Nong 1 , Ha Anh Tuan 2 , Nguyen Xuan Thanh 3 , Nguyen Khac Dat 4 College of Agriculture and Forestry - TNU, 2Thai Nguyen University, 3Ha Noi University of Agriculture, 4Committee of Phu Tho town For agricultural development in Thai Nguyen in the ecological direction. The researchers investigated and evaluated the effectiveness of models of ecological agriculture on the city by theinner-city areas, suburban and a way from urban. The results showed that: Development process of agricultural economic struture the cityrecently formed five basic grops, corresponding to fives pecialization model combined with the development process of structures in particular (1) group of flowers, ornamenttal plants (2) groups ofvegetables (3) groups of fruit trees (4) groups and aquaculture (5)integrated business groups. Key words: Efficient, ecological agriculture, ecological urban agriculture. * Tel: 0912003756; Email: levantho.tuaf@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_mot_so_cac_mo_hinh_san_xuat_nong_nghiep_theo_huong.pdf