Hiện trạng nuôi trồng thủy sản và một số giải pháp phát triển bền vững trên đầm Ô Loan huyện Tuy An, Phú Yên

Cần quy hoạch vùng nuôi một cách cụ thể tránh hiện tượng nuôi tự phát của người dân dẫn đến ô nhiễm môi trường và dịch bệnh nghiêm trọng trên các đối tượng nuôi. Cần có những chế tài nghiêm ngặt để nghiêm cấm sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là những loại kháng sinh trong danh mục thuốc kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản

pdf8 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 136 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng nuôi trồng thủy sản và một số giải pháp phát triển bền vững trên đầm Ô Loan huyện Tuy An, Phú Yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 3 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC HIỆN TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN ĐẦM Ô LOAN HUYỆN TUY AN, PHÚ YÊN AQUACULTURE STATUS AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT SOLUTIONS FOR O LOAN LAGOON -TUY AN DISTRICT, PHU YEN PROVINCE Phạm Thị Anh1, Nguyễn Thanh Sơn2 Ngày nhận bài: 16/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 29/4/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016 TÓM TẮT Kết quả điều tra tình hình nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên đầm Ô Loan huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên dựa trên việc phỏng vấn trực tiếp 100 hộ gia đình ở 5 xã: An Hải, An Cư, An Hiệp, An Ninh Đông và An Hòa. Nguồn lao động chính xung quanh hồ chủ yếu là nam giới (89,11%), tỷ lệ lao động trong nhóm tuổi từ 40 - 55 cao nhất chiếm 67,33%; hầu hết những người tham gia vào NTTS đều có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề với 93% có kinh nghiệm từ 5 năm trở lên, trình độ văn hóa của người tham gia NTTS trình độ 9/12 cao nhất chiếm 61,39%. Năm 2014, tổng sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan lần lượt là 1548,7 tấn và 541,5 trong đó chủ yếu là diện tích nuôi tôm chiếm 96,21% tổng diện tích nuôi, sản lượng nuôi chiếm 98,41% tổng sản lượng nuôi trồng xung quanh đầm. Tất cả số hộ NTTS nuôi tôm đều sử dụng thuốc kháng sinh và hóa chất để phòng trị bệnh cho tôm và xử lý môi trường ao nuôi. Từ khóa: đầm Ô Loan, nuôi trồng thủy sản, hiện trạng, đầm ABSTRACT A survey was conducted to evaluate the aquaculture status on O Loan lagoon. A total of 100 households were interviewed belong to the communes An Hai, An Cu, An Hiep, An Ninh Dong and An Hoa in O Loan lagoon. The results showed that the labors in the lagoon were mainly male (89.11%), the percentage of workers in the age from 40 to 55 years are highest, accounted for 67.33%. Most people who involved in aquaculture have at least 5 years of experience or higher (93%). They have low level of education with the highest percentage at 9/12 (61.39%). In 2014, the total area and production of aquaculture activities of O Loan lagoon were 541.5 hectares and 1548.7 tons, respectively. Especially, shrimp farming was dominant with the area and production accounted for 96.21 % and 98.41 % of the total, respectively. All shrimp farms used antibiotic and chemical products for disease preventing and water treatment. Keywords: O loan lagoon, aquaculture, penaeus vannamei, status, lagoon 1 Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 2 Viện Công nghệ Sinh học - Môi trường - Trường Đại học Nha Trang I. ĐẶT VẤN ĐỀ Khu vực Nam Trung Bộ từ lâu đã nổi tiếng với những đầm phá nổi như đầm Nại (Bình Thuận), đầm Ô Loan (Phú Yên), đầm Thị Nại (Bình Định), đầm Nha Phu (Khánh Hòa), đầm Môn (Khánh Hòa), đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa Thiên Huế), đầm Cù Mông (Phú Yên), vịnh Xuân Đài (Phú Yên) Các đầm đều có hình dạng và cấu tạo rất đa dạng, chủ yếu là các thủy vực nông sát biển, nhận nước từ một hoặc vài con sông và thải nước ra biển qua cửa riêng của mình, rộng hẹp tùy đầm. 4 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 Những sông trong vùng thường nhỏ, tổng lượng nước ít và chỉ chảy rất tập trung trong một vài tháng. Trong mùa khô kéo dài, sông lại rất cạn kiệt, nhiều nơi lòng sông trơ ra để lại hai bên bờ những dải cát, hay có những đầm bị khống chế hoàn toàn bởi nước biển, ở những đầm này độ muối thường cao, có trường hợp trở nên quá mặn, đạt giá trị 39 - 40‰ và khá ổn định [6]. Các hoạt động nuôi trồng thủy sản trên các đầm phá ngày càng phát triển với quy mô rộng với nhiều đối tượng nước lợ, nước mặn mang lại nhiều lợi ích kinh tế cao như: tôm sú, tôm chân trắng, tôm hùm, cua ghẹ, cá biển và một số loài nhuyễn thể, rong biển. Hiện nay hầu hết các đầm phá đều được sử dụng để phát triển nuôi trồng thủy sản, các hoạt động nuôi trồng thủy sản đang diễn biến hết sức phức tạp trên quy mô lớn, đặc biệt các ngành nghề nuôi tôm thâm canh, chuyên canh đã và đang mang lại những tác dụng tiêu cực cho môi trường các đầm phá ven biển [2,7]. Phú Yên là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, với lợi thế bờ biển dài gần 190 km cùng với nhiều eo, vịnh, đầm phá là nơi nuôi dưỡng, sinh trưởng của rất nhiều loài thủy hải sản khác nhau, có nhiều tiềm năng và lợi thế trong việc phát triển toàn diện ngành kinh tế thủy sản cũng như một số ngành kinh tế quan trọng khác [1]. Từ lâu đầm Ô Loan từ lâu đã nổi tiếng với nguồn lợi thủy sản đa dạng với rất nhiều các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như sò huyết, ghẹ xanh, cua và hàu, trong đó sò huyết đầm Ô Loan được coi là đặc sản của vùng [1]. Nghề nuôi trồng thủy sản xung quanh đầm Ô Loan đã góp phần nâng cao năng suất và sản lượng thủy sản, thúc đẩy nền kinh tế cho huyện Tuy An và tỉnh Phú Yên. Có thể khẳng định rằng đời sống của dân cư 5 xã vùng đầm phụ thuộc vào nguồn lợi thuỷ sản của đầm Ô Loan. Đầm Ô Loan vẫn đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế thuỷ sản của tỉnh Phú Yên cũng như phát triển kinh tế huyện Tuy An, nguồn lợi thủy sản từ đầm giúp nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh đầm. Năm 2013, diện tích nuôi trồng thủy sản trong đầm là 360,75 ha, trong số này diện tích nuôi cao triều là 20,5 ha (trong đó nuôi trên cát là 3,5 ha), diện tích hồ hở (hồ chất đá) là 125 ha [4]. Hoạt động nuôi trồng thủy sản của huyện Tuy An tập trung chủ yếu ở vùng đầm Ô Loan do người dân của 5 xã An Ninh Đông, An Hải, An Cư, An Hòa và An Hiệp tham gia nuôi trồng thủy sản, tổng diện tích nuôi xung quanh đầm là 420 ha, chiếm hơn 80% diện tích nuôi toàn huyện [8]. Tuy nhiên, do hoạt động nuôi trồng thuỷ sản quá mức, thiếu quy hoạch đã dẫn đến môi trường đầm suy thoái, tình hình dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản diễn biến phức tạp: Năm 2008 dịch bệnh trên tôm bùng phát ở đầm Ô Loan, 50/180 ha tôm sú bị mất trắng do bệnh, chủ yếu là bệnh đỏ thân và bệnh đốm trắng. Đầu năm 2009, có gần 70 ha tôm bị chết chủ yếu do bệnh taura và các bệnh có liên quan đến môi trường [3]. Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tuy An, những tháng đầu năm 2009, biên độ triều trong đầm Ô Loan thấp hơn trung bình từ 0,2-0,3m, độ mặn giảm so với trung bình nhiều năm từ 0,5 - 0,6 %. Đáng chú ý là kết quả tại điểm thu mẫu An Hải về chỉ tiêu ô nhiễm vi sinh đã vượt ngưỡng cho phép. Đầu năm 2010, 85 ha tôm chân trắng bị nhiễm bệnh chủ yếu tập trung ở 2 huyện Tuy An và Đông Hòa. Năm 2011 riêng khu vực đầm Ô Loan có gần 100 ha nuôi tôm bị dịch bệnh, tập trung chủ yếu ở các xã An Ninh Đông, An Ninh Tây và An Cư, ngoài ra đại đa số hồ ở đây chủ yếu là hồ hở nên việc lây lan dịch bệnh rất nhanh chóng [3]. Do đó việc đánh giá lại hiện trạng nuôi trồng thủy sản xung quanh đầm Ô Loan hiện nay là cần thiết để có những giải pháp kịp thời nhằm phát triển các hoạt động nuôi trồng thủy sản xung quanh đầm một cách bền vững và ít nguy hại nhất đến môi trường đầm. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 5 2. Phương pháp nghiên cứu - Số liệu thứ cấp được thu thập tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên, Phòng Nông nghiệp huyện Tuy An và các sách báo, tài liệu có liên quan. - Số liệu sơ cấp được tổng hợp dựa trên quá trình phỏng vấn trực tiếp các ngư dân nuôi trồng thủy sản xung quanh vùng đầm Ô Loan thuộc 5 xã ven đầm (xã An Hòa, An Hiệp, An Ninh Đông, An Hải và An Cư) và cán bộ quản lý khu vực nghiên cứu qua bộ câu hỏi điều tra với 101 phiếu. - Thông tin thu thập được xử lý theo từng nội dung riêng dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn và dữ liệu được xử lý trên phần mềm Excel. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Nguồn lao động nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan - Tỷ lệ giới tính: Trong 101 phiếu được khảo sát về tình hình NTTS xung quanh đầm Ô Loan cho thấy có số lượng nữ tham gia NTTS chiếm tỷ lệ 10,89% (11/101 phiếu), còn lại đều là nam giới chiếm tỷ lệ 89,11% (90/11 phiếu). Đây là một trong những thực tế hiện nay do tính chất của các công việc trong nuôi trồng thủy sản đòi hỏi nhiều sức lực cũng như thời gian làm việc nên nam giới tham gia có tỷ lệ chiếm rất cao. - Cơ cấu độ tuổi của những người tham gia NTTS: Những người tham gia NTTS có thể chia thành 3 nhóm độ tuổi khác nhau là dưới 40 tuổi, từ 40 đến 55 tuổi, trên 55 tuổi. Trong đó, tỷ lệ lao động trong nhóm tuổi từ 40 - 55 cao nhất chiếm 67,33% (68/101 phiếu), đây là nguồn lao động có sức khỏe tốt và nắm bắt các kĩ thuật nuôi, kinh nghiệm nuôi tốt hơn so với những nhóm tuổi khác. Nhóm tuổi trên 55 chiếm 13,86 % (14/101 phiếu), nhóm tuổi dưới 40 chiếm 18,81% (19/101 phiếu). - Số năm kinh nghiệm trong NTTS: Nguồn lao động có số năm kinh nghiệm tham gia vào NTTS khá cao, số chủ hộ có thâm niên NTTS từ 10 đến 15 năm chiếm tỷ lệ cao nhất đạt 40,59%, từ 5 đến 10 năm chiếm 32,67%, từ 15 - 20 năm chiếm 14,85%, các chủ hộ nuôi trên 20 năm chiếm 4,95%. - Trình độ văn hóa thấp: Kết quả điều tra cho thấy, đa số các chủ hộ có trình độ văn hóa (9/12) chiếm tỷ lệ 61,39%, tiếp theo đến trình độ 12/12 chiếm 20,79%, trình độ 8/12 chiếm 6,93%, trình độ tiểu học chiếm 4,95% và tỷ lệ người không biết chữ chiếm 5,94%. Khảo sát này cũng chỉ ra rằng trong tất cả các hộ được II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nội dung nghiên cứu tiến hành từ tháng 02/2014 đến hết tháng 12/2014 xung quanh đầm Ô Loan - Phú Yên. Đối tượng phỏng vấn là các hộ nuôi trồng thủy sản trên đầm ở 5 xã: xã An Hòa, An Hiệp, An Ninh Đông, An Hải và An Cư. Hình 1. Đầm Ô Loan và cửa đầm Tân Quy [12] 6 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 phỏng vấn không có chủ hộ nào đã qua lớp đào tạo chuyên môn có trình độ đại học, tất cả kinh nghiệm trong NTTS chủ yếu được học tập theo kiểu truyền miệng và kinh nghiệm của bản thân. - Thu nhập bình quân đầu người/năm: Năm 2010, thu nhập bình quân đầu người/năm đạt mức 12,1 triệu/năm, con số này ngày càng gia tăng và đến năm 2013 là 20,1 triệu/người/năm và năm 2014 là 22,6 triệu/người/năm, tăng gấp 1,86 lần so với năm 2010. 2. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan 2.1. Diện tích nuôi và sản lượng nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan Diện tích nuôi trồng thủy sản của 5 xã An Hải, An Hiệp, An Hòa, An Cư và An Ninh Đông năm 2014 có sự chênh lệch đáng kể: xã Ninh Đông và An Hòa có diện tích nuôi lớn nhất chiếm lần lượt là 133ha và 152ha, đây là hai xã có diện tích NTTS chiếm chủ lực xung quanh đầm Ô Loan. Tổng diện tích NTTS trong đầm Ô Loan năm 2014 là 541,5 ha, trong đó diện tích nuôi tôm công nghiệp là 521 ha (chiếm 96,21%). Tổng sản lượng NTTS năm 2014 đạt 1548,7 tấn, trong đó sản lượng tôm nuôi đạt 1524,1 chiếm 98,41% [8]. Hình 2. Diện tích và sản lượng NTTS của các xã trên đầm Ô Loan năm 2014 [7] Nhìn vào biểu đồ hình 2 cho thấy xã An Cư năm 2014 có diện tích nuôi đứng thứ 3 chỉ sau xã An Ninh Đông và An Hòa, tuy nhiên sản lượng nuôi lại thấp nhất so với các xã khác, chỉ đạt 137 tấn, điều này là do vấn đề dịch bệnh. Sáu tháng đầu năm 2014 toàn huyện Tuy An có 169,5 ha tôm bị bệnh, trong đó diện tích mất trắng là 67 ha (tôm chân trắng 61 ha, tôm sú 6 ha). Tôm bị dịch bệnh rải rác khắp các xã: An Ninh Đông 44 ha, An Cư 39 ha, An Hòa 45 ha, An Hiệp 15 ha và An Hải 0,5 ha. Tôm chủ yếu bị bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp tính, dịch bệnh xảy ra ở tôm nuôi 10 đến 20 ngày tuổi [3]. Theo Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản (Sở NN-PTNT 3/2014), qua lấy mẫu phân tích cho thấy, nước tại vùng nuôi cách xa cửa biển như An Cư, ngoài ra còn bị ảnh hưởng của nước ngọt từ sông Cái và sông Hà Yến đổ xuống nên độ mặn và độ kiềm tương đối thấp, độ mặn dưới 10‰, độ kiềm thấp từ 30 đến 40 ppm. Cũng theo Trung tâm này, ô nhiễm dinh dưỡng cũng được phát hiện ở vùng nuôi này: hàm lượng NH3-N hoặc NO2-N cao vượt ngưỡng cho phép, lần lượt dao động từ 0,5 đến 1ppm và 0,1 đến 0,3ppm. An Hải là xã có diện tích nuôi thấp nhất với 40ha, đây là xã nằm gần cửa biển nên mực nước ở khu vực này sâu, chế độ thủy lực không ổn định, nước mặn hơn phía trong đầm do thường xuyên trao đổi với nước biển, nên phù hợp với việc nuôi các loài ưa độ mặn cao như cá mú, cá hồng, hàu,... Diện tích nuôi cá biển của xã An Hải cũng chiếm nhiều nhất trong vùng với 12/23 ha (chiếm 52,17%)[1]. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 7 Đối tượng nuôi chính trên đầm Ô Loan chủ yếu là tôm he chân trắng (Penaeus vanamei) và tôm sú (Penaeus monodon), số lượng các hộ nuôi hai đối tượng này chiếm hầu hết diện tích nuôi trong đầm Ô Loan. Theo số liệu phỏng vấn người dân xung quanh các xã thì xã An Hòa có 100% số hộ nuôi tôm he chân trắng, tiếp đến là An Ninh Đông là 92,16%, An Hải 71,43% và An Cư là 33,33%. Các hộ nuôi cá (cá mú Epinephelus fuscoguttatus, cá hồng Lutjanus campechanus) và nhuyễn thể (hầu, sò huyết) rất ít chủ yếu nằm ở hai xã An Hải và An Cư. Kết quả điều tra khảo sát cho thấy diện tích xung quanh vùng đầm Ô Loan chủ yếu là nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm sú, các đối tượng nuôi truyền thống và nổi tiếng của vùng ít được quan tâm chú trọng như ghẹ xanh, sò huyết, cua, hàu, tôm đất v.v... Tuy nhiên các đối tượng này lại được khai thác một cách triệt để để phục vụ khách du lịch, đây cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm của địa phương trong quá trình phát triển nuôi trồng thủy sản một cách bền vững. Sò huyết đầm Ô Loan từ lâu đã nổi tiếng trên cả nước và đây cũng là một trong những lý do để đầm nước lợ Ô Loan được công nhận là danh lam thắng cảnh quốc gia, tuy nhiên hiện nay nguồn lợi này đang bị giảm sút nghiêm trọng. 2.3. Hình thức nuôi trồng thủy sản Nuôi trồng thủy sản trên đầm Ô Loan chủ yếu theo hai hình thức là nuôi tôm chuyên canh và nuôi ghép tôm với cua và cá biển. Diện tích nuôi các đối tượng như nhuyễn thể (hầu hoặc sò huyết) chủ yếu là nuôi theo hình thức bán thâm canh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2014 có xu hướng tăng hơn so với các năm trước, mặc dù chính quyền địa phương đã có thông báo cấm mở rộng diện tích nuôi trên đầm, tuy nhiên một số hộ nuôi vẫn tiến hành đào thêm các ao nuôi mới, điều này đang là mối đe dọa lớn đối với hệ sinh thái cũng như địa chất của đầm [10,12,13]. 2.2. Đối tượng nuôi xung quanh đầm Ô Loan Bảng 1. Một số đối tượng nuôi ở các xã xung quanh vùng đầm Ô Loan năm 2014 Đơn vị tính: % STT Hình thức nuôi An Ninh Đông An Hải An Cư An Hiệp An Hòa 1 Tôm he chân trắng 92,16 71,43 33,33 66,67 100 2 Tôm sú 7,84 19,05 50 33,33 0 3 Cá các loại 0 4,76 0 0 0 4 Sò huyết 0 4,76 16,67 0 0 Bảng 2. Hình thức nuôi tôm và kiểu hồ nuôi tôm tại các xã xung quanh đầm Ô Loan STT Hình thức nuôi An Ninh Đông An Hải An Cư An Hiệp An Hòa 1 Thâm canh (%) 84,31 66,67 66,67 66,67 100 2 Bán thâm canh (%) 15,69 33,33 33,33 33,33 0 3 Nuôi hồ kín (%) 100 76,19 33,33 66,67 100 4 Nuôi hồ hở (%) 0 23,81 66,67 33,33 0 Hình thức nuôi tôm chủ yếu là nuôi thâm canh trên vùng cao triều (bằng các ao đất lót bạt) với mật độ nuôi cao, hình thức nuôi này chiếm đến 100% ở xã An Hòa, 84,31% ở An Ninh Đông. Có hai loại hồ nuôi tôm thâm canh chính ở các xã xung quanh đầm là hồ kín và hồ hở. Hồ kín là hồ được đắp bằng đất có lót bạt bờ và bạt đáy, hồ kín cao hơn mực nước trong đầm và nằm ở vùng cao triều, hồ kín có thể tự điều tiết nước bằng hệ thống bơm (chiếm 100% ở An Ninh Đông và An Hòa, An Hải và An Hiệp lần lượt là 76,19% và 66,67%). Hồ hở là hồ được chất bằng đá, san hô hoặc bao lưới vây tạo thành hồ nên mực nước 8 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 trong hồ phụ thuộc vào mực nước của đầm, đại đa số hồ hở tập trung ở xã An Cư chiếm 66,67%. Hình thức nuôi hồ hở chịu nhiều rủi ro cao do không điều tiết được mực nước trong hồ, khi môi trường đầm có biến động đột ngột tôm dễ bị sốc hoặc bị nhiễm dịch bệnh. Thông thường khi bắt đầu có dịch bệnh xảy ra thì những hồ hở sẽ bị nhiễm bệnh đầu tiên [9]. 2.4. Thức ăn, thuốc kháng sinh và hóa chất sử dụng trong các ao nuôi tôm - Thức ăn Theo số liệu điều tra trong quá trình khảo sát 101 phiếu về NTTS xung quanh đầm thì 100% các hộ đều sử dụng thức ăn công nghiệp. Mặc dù nguồn thức ăn công nghiệp ít gây ô nhiễm môi trường như thức ăn tươi sống và thức ăn chế biến, tuy nhiên số lượng các hộ nuôi nhiều, hình thức nuôi chủ yếu là nuôi thâm canh nên lượng chất thải rất lớn, lượng chất thải này xả trực tiếp ra đầm không qua xử lý (100% các hộ không qua xử lý trước khi thay nước). Lượng thức ăn thừa và các chất thải liên tục được đưa vào trong đầm trong nhiều năm liên tiếp làm cho lượng bùn đáy của đầm ngày càng nhiều, lượng chất độc tích lũy trong nền đáy như H2S, CH4, NH3 gia tăng. Bên cạnh đó, cửa đầm Tân Quy rất nhỏ cho nên khả năng trao đổi nước rất thấp, điều này có thể là nguyên nhân gây chết cho tôm cá trong đầm trong vài năm trở lại đây. - Sử dụng thuốc kháng sinh và hóa chất trên các đối tượng NTTS Kết quả điều tra cho thấy 100% các hộ nuôi đều quan tâm tới việc quản lý môi trường ao nuôi. Trong đó, 86,13% (87/101 phiếu) các hộ định kỳ sử dụng men vi sinh 2 tuần/lần sau 3 tháng nuôi; 100% các hộ sử dụng vôi để ổn định pH và độ trong ao nuôi. Trong suốt thời gian nuôi hầu hết các hộ không thay nước mà chủ yếu cấp bù nước do quá trình siphong chất thải trong ao ra đầm. Ở hình thức nuôi bán thâm canh, ao nuôi tôm được định kỳ vệ sinh, khử trùng 15 ngày/lần bằng các loại hóa chất như vôi bột, BKC, formol, Iodine hay Zeolite. Ngoài việc sử dụng hóa chất, các loại chế phẩm sinh học thì cũng theo kết quả điều tra cho thấy có 83/101 hộ phỏng vấn sử dụng một số loại kháng sinh để bổ sung vào thức ăn cho tôm như Enrofl oxacim, Colistin sunfate, Norfl oxacin, Cephalexin trong đó kháng sinh Enrofl oxacin luôn là vấn đề liên tục mang lại khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam do người nuôi vẫn sử dụng trong nuôi trồng, khiến cho nhiều lô hàng bị thị trường nhập khẩu cảnh báo và trả về. Ngày 16/1/2012, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành Thông tư số 03/2012/TT – BNNPTNT bổ sung các chất Cypermethrin, Deltamethrin và Enrofl oxacin vào danh mục hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản. Tuy nhiên hiện nay kháng sinh Enrofl oxacin vẫn được người dân sử dụng trong quá trình nuôi tôm, chính vì vậy cần có những chế tài cần thiết để quản lý việc sử dụng các loại kháng sinh bị cấm này. 3. Một số giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững trên đầm Ô Loan Để duy trì và phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững trên đầm Ô Loan cần có giải pháp đồng bộ, hợp lý và hữu hiệu. - Triển khai, quản lý thực hiện có hiệu quả quy hoạch chi tiết các vùng nuôi, chú trọng phát triển các đối tượng truyền thống của vùng như sò huyết, ghẹ xanh, tôm đất Đa dạng hóa đối tượng nuôi trên đầm, có thể nuôi luân canh các đối tượng thủy sản khác như cá rô phi đơn tính, cá măng, hải sâm, rong câu, cua xanh để cải tạo môi trường ao nuôi. Đối với các vùng nuôi có đáy bùn, khuyến khích nuôi ghép tôm nước lợ với một số đối tượng như cá rô phi, rong biển, vẹm xanh, hàu. - Khuyến khích các hộ nuôi tôm công nghiệp trong các hồ hở chuyển sang hồ kín để dễ kiểm soát chất lượng nước, sức khỏe vật nuôi cũng như tình hình dịch bệnh. - Có biện pháp ngăn chặn việc gia tăng diện tích nuôi một cách ồ ạt không theo quy hoạch làm phá vỡ cân bằng hệ sinh thái cũng như Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 9 làm gia tăng ô nhiễm môi trường, bùng phát dịch bệnh - Cần có những quy định về xả thải cho người dân hoặc những biện pháp xử lý chất thải trước khi đưa vào môi trường tự nhiên ở những vùng nuôi thâm canh công nghiệp, đồng thời có những chế tài xử phạt đi kèm để hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường như hiện nay. - Yêu cầu những người tham gia NTTS tuân thủ những quy định về danh mục các loại hóa chất, thuốc kháng sinh được phép sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Có chế tài và các biện pháp xử lý nghiêm chỉnh đối với các hộ nuôi khi vẫn tiếp tục sử dụng các sản phẩm này. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận - Người lao động tham gia NTTS xung quanh đầm Ô Loan chủ yếu là nam giới, chiếm 89,11%, cơ cấu độ tuổi người lao động trong nhóm tuổi 40 - 55 có giá trị cáo nhất chiếm 67,33%, ngoài ra hầu hết những người tham gia NTTS xung quanh đầm đều có nhiều năm kinh nghiệm, số người có trên 5 năm kinh nghiệm chiếm 93%, trình độ văn hóa 9/12 chiếm tỷ lệ cao nhất đạt 61,39% - Tổng diện tích nuôi của các xã xung quanh đầm Ô Loan năm 2014 là 541,5 ha với sản lượng thu hoạch của cả năm là 1548,7 tấn. Xã An Hòa và An Ninh Đông có diện tích nuôi lớn nhất (152 và 133 ha) và sản lượng nuôi cũng với giá trị cao nhất (528 và 393 tấn). - Đối tượng nuôi chính của vùng là tôm he chân trắng với diện tích 100% ở các xã An Hòa, 84,31% ở An Ninh Đông, các xã còn lại như An Hải, An Cư và An Hiệp đều chiếm 66,67%. - Có hai hình thức nuôi trồng thủy sản là nuôi thâm canh và nuôi bán thâm canh xung quanh đầm Ô Loan, không có hình thức nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến. Số hộ nuôi theo kiểu hồ kín chiếm 100% ở An Ninh Đông và AN Hòa, An Hải và An Hiệp lần lượt là 76,19% và 66,67%. Số hộ nuôi theo kiểu hồ hở tập trung chủ yếu ở xã An Cư (66,67%). - 100% các hộ nuôi tôm có sử dụng thuốc và hóa chất trong quá trình nuôi để phòng trị bệnh và xử lý môi trường, trong đó có 83/101 hộ sử dụng các loại kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, trong đó có kháng sinh Enrofl oxacim thuộc danh mục thuốc cấm sử dụng trong NTTS 2. Kiến nghị Cần quy hoạch vùng nuôi một cách cụ thể tránh hiện tượng nuôi tự phát của người dân dẫn đến ô nhiễm môi trường và dịch bệnh nghiêm trọng trên các đối tượng nuôi. Cần có những chế tài nghiêm ngặt để nghiêm cấm sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là những loại kháng sinh trong danh mục thuốc kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Phú Yên giai đoạn 2006 đến 2010. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Yên. 2. Báo cáo hiện trạng nuôi trồng thủy sản của tỉnh Phú Yên 2013 - 2014. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Yên. 3. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2014, triển khai kế hoạch phòng chống dịch bệnh cho động vật nuôi thủy sản năm 2015. Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An, Phú Yên 4. Báo cáo thực trạng nuôi trồng thủy sản đầm Ô Loan. Phương hướng tổ chức lại nghề nuôi trong đầm thành các Tổ đồng quản lý (2013). Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An 5. Cục thống kê tỉnh Phú Yên. Niên giám thống kê tỉnh Phú Yên năm 2010; 2011; 2012; 2013; 2014. 10 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 6. Lương Văn Thanh, 2008. Báo cáo chuyên đề “Hiện trạng nuôi tôm vùng duyên hải miền Trung Nam bộ và một số định hướng phát triển”. Hội thảo đề tài khoa học “Ứng dụng các biện pháp công trình và phi công trình để cải tạp các vùng đất bị bỏ hóa ở Duyên hải Nam Trung Bộ do đào ao nuôi trồng thủy sản không đúng kỹ thuật thành các vùng canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bền vững”. Đà Nẵng tháng 6 năm 2008. 7. Trần Văn Phước, Ngô Văn Hiệp, 2011. Hiện trạng khai thác nguồn lợi hải sản và giải pháp bảo vệ, phát triển bền vững tại xã Ninh Ích, đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa. 8. UBND huyện Tuy An, Phú Yên. Niên giám thống kê năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014 huyện Tuy An. Tiếng Anh 9. Ram C. Bhuiel, 2008. Statistics for Aquaculture, Asian Institute of Technology (AIT). Wiley Blackwell. 10. (Lê Hảo) 11. (Anh Ngọc) 12. (Thế Lập) 13. Theo PYO, (Ngọc Như)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhien_trang_nuoi_trong_thuy_san_va_mot_so_giai_phap_phat_trie.pdf