Đánh giá hiệu quả mô hình trồng lúa - cá tại khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng tỉnh Hậu Giang

Lúa – Cá là mô hình có lợi nhuận 56,72 triệu đồng/năm/ha, vừa góp phần tăng thu nhập cho nông hộ, vừa bảo vệ môi trường sinh thái trên đồng ruộng. Canh tác mô hình Lúa – Cá giúp tăng năng suất lúa và còn giúp tăng độ phì nhiêu của đất do phân của cá tích lũy ở mặt ruộng, giảm chi phí cho việc chuẩn bị ruộng và phân bón cho vụ Đông Xuân. Hạn chế sử dụng nông dược độc hại cho người và môi trường. Bên cạnh đó, xét về mặt xã hội, mô hình đã tạo ra việc làm, ổn định thu nhập, giúp người dân dễ tiếp cận đến các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh tại bệnh viện, đầu tư cho con đi học đều tốt hơn trước. Mô hình Lúa – Cá là mô hình hiệu quả và cần được nhân rộng, tập huấn cho người dân áp dụng để nâng cao thu nhập và chất lượng đời sống của người dân, đồng thời đạt được hiệu quả môi trường và hiệu quả xã hội.

pdf9 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 164 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả mô hình trồng lúa - cá tại khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng tỉnh Hậu Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 31 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MÔ HÌNH TRỒNG LÚA - CÁ TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN LUNG NGỌC HOÀNG TỈNH HẬU GIANG Nguyễn Thị Ngọc Trang1, Trương Hoàng Đan2 1Trường Đại học Kiên Giang 2Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 08/02/2017 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 13/03/2017 Ngày chấp nhận đăng: 06/2017 Title: An assessment on the effectiveness of Rice - Fish model at the Lung Ngoc Hoang Nature Reserve, Hau Giang province Keywords: Economic efficiency, environmental efficiency, social efficiency Từ khóa: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả môi trường, hiệu quả xã hội ABSTRACT The objectives of the study are to assess the socio-economic and environmental efficiencies of the agricultural cultivation Rice - Fish model at the Lung Ngoc Hoang Nature Reserve. The standardized questionnaire was applied to collect the data. The research was conducted by interviewing 32 households at the Lung Ngoc Hoang Nature Reserve and by using the descriptive statistical method, and evaluation criteria about the socio-economic and environmental effects. The survey results showed that the Rice-Fish model was of the high efficiency (56.72 million VND/year/ha). The social and environmental efficiency was fairly good, and the Rice-Fish model was selected and proposed to the farmers. TÓM TẮT Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của mô hình canh tác nông nghiệp là Lúa – Cá tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. Phương pháp điều tra bằng bảng câu hỏi chuẩn được áp dụng để thu thập số liệu. Nghiên cứu được tiến hành bằng cách phỏng vấn 32 hộ nông dân tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng và sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, tiêu chí đánh giá về những tác động xã hội, kinh tế và môi trường. Kết quả điều tra cũng cho thấy mô hình Lúa - Cá cho hiệu quả kinh tế cao (56,72 triệu đồng/năm/ha), hiệu quả xã hội và môi trường là khá tốt, mô hình Lúa - Cá đã được lựa chọn và đề xuất cho người dân. 1. GIỚI THIỆU Khu Bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Lung Ngọc Hoàng nằm ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Nơi đây hiện có nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học, những sinh cảnh tiêu biểu, độc đáo và là nơi cư trú của các loài sinh vật bản địa, hệ sinh thái đất ngập nước. Bên cạnh đó, khu bảo tồn có nhiệm vụ duy trì độ che phủ của rừng, giúp không khí trong lành và đảm bảo an ninh môi trường (Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, 2013). Tỷ lệ hộ có thu nhập khá, trung bình của khu vực chiếm khoảng 56% tổng số hộ; số hộ cận nghèo và nghèo chiếm 44%. Đặc biệt số hộ đang sinh sống bên trong vùng lõi đi lại khó khăn, nhà cửa còn tạm bợ, cuộc sống chưa thật sự ổn định. (Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, 2013). Ở các địa phương khác, sản xuất nông nghiệp theo mô hình Lúa – Cá đang khẳng định vai trò và vị trí của mình đối với sinh kế của người dân. Vì vậy nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của mô hình Lúa – Cá để đề xuất đến người dân nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng vẫn đảm bảo bền An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 32 vững sinh thái. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU * Số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập tài liệu, số liệu từ các cơ quan quản lý khu bảo tồn Lung Ngọc Hoàng, đơn vị quản lý chuyên môn, số liệu của Ủy ban Nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Số liệu sơ cấp của đề tài được thu thập qua các bước sau: - Bước 1: Xác định đối tượng khảo sát Số liệu sơ cấp của đề tài được thu thập từ việc phỏng vấn trực tiếp các hộ dân có đất sản xuất tại khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. - Bước 2: Phương pháp chọn mẫu Tiến hành điều tra và nghiên cứu các hộ nông dân có mô hình trồng lúa – cá. Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng có vị trí nằm ở huyện Phụng hiệp, được chia thành 2 vùng là : • Vùng đệm. • Vùng lõi (khu bảo vệ nghiêm ngặt). Vì thế, để chọn mẫu thì tiến hành chia nhóm theo vị trí địa lý để thực hiện phỏng vấn. Trong đó, việc thu thập được tiến hành trên 32 hộ được chia làm 2 vùng là vùng đệm và vùng lõi. - Bước 3: Lựa chọn cách đặt câu hỏi và phương thức phỏng vấn Các câu hỏi trong bảng được đưa ra có dạng câu hỏi đóng, câu hỏi mở và câu hỏi tổng hợp và phỏng vấn trực tiếp từng hộ gia đình. - Bước 4: Phỏng vấn thử Khảo sát thử một số đối tượng để điều chỉnh những thiếu sót mắc phải trong bảng câu hỏi, từ đó có thể hoàn thiện bảng câu hỏi hơn. - Bước 5: Hoàn thiện bảng phỏng vấn và tiến hành điều tra Từ bảng câu hỏi hoàn thiện tiến hành khảo sát các đối tượng đã được xác định, phỏng vấn và giải đáp các thắc mắc của đáp viên. * Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê mô tả được dùng để đo lường, mô tả và trình bày số liệu bao gồm: giá trị trung bình, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất và phân tích các số liệu. Phương pháp thống kê sử dụng các phép tính số từ Excel để xử lý các số liệu thu thập được từ việc phỏng vấn trực tiếp. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường: Lê Tiêu La (2008) có sử dụng bộ tiêu chí để đánh giá được hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường như sau: - Hiệu quả kinh tế Bảng 1. Tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả xã hội • Tạo việc làm • Xóa đói giảm nghèo • Khoảng cách giàu nghèo • Tiếp cận các dịch vụ xã hội • Trình độ dân trí • Bình đẳng giữa nam – nữ • Mâu thuẫn trong sử dụng đất • Tệ nạn xã hội - Hiệu quả môi trường 0BSTT 1BTiêu chí 2BChỉ số 3B1 4BDoanh thu 5BDoanh thu/ha 6B2 7BThu nhập (Doanh thu – Chi phí sản xuất) 8BThu nhập/ha 9B3 10BHiệu quả vốn đầu tư 1BTỷ suất lợi nhuận/ doanh thu An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 33 Bảng 2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả môi trường 12BSTT 13BTiêu chí 14BChỉ số 15B 16BNhận thức về môi trường Hiều biết các quy định, pháp luật về bảo vệ môi trường 17B2 18BÝ thức về môi trường Ý thức chấp hành các quy định, pháp luật về bảo vệ môi trường 19B3 20BẢnh hưởng tới môi trường xung quanh Lượng phân hóa học và phân hữu cơ sử dụng qua các năm - Hiệu quả kinh tế Khái niệm hiệu quả kinh tế được dùng như một tiêu chuẩn để xem xét các tài nguyên được thị trường phân phối như thế nào. Theo lý thuyết, hiệu quả kinh tế được đo lường bằng sự so sánh kết quả sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó (Từ điển Thuật ngữ kinh tế học, 2001). Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của sản xuất – kinh doanh, nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu. Tùy theo mục đích, có thể đánh giá hoạt động kinh tế bằng những chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, lợi nhuận so với vốn, thời gian thu hồi vốn chỉ tiêu thường được tổng hợp nhiều nhất là doanh thu và lợi nhuận thu được so với tổng số vốn bỏ ra. - Hiệu quả xã hội – môi trường Hiệu quả môi trường: phản ánh việc khai thác và sử dụng các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nhưng phải xem xét mức tương quan giữa kết quả đạt được về kinh tế với việc đảm bảo về vệ sinh, môi trường và điều kiện làm việc của người lao động và khu vực dân cư (Giáo trình Thống kê doanh nghiệp, 2012). Hiệu quả xã hội: phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định, đó là giải quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế, giảm số người thất nghiệp, nâng cao trình độ lành nghề, cải thiện đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, nâng cao mức sống cho các tầng lớp nhân dân (Giáo trình Thống kê doanh nghiệp, 2012). 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu tại khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng, tỉnh Hậu Giang Sản xuất nông nghiệp ở khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng chủ yếu là trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. Đa số các hộ dân ở đây đều có nhiều năm kinh nghiệm trong nông nghiệp cũng như có diện tích canh tác khá nhiều. Do khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng vẫn còn nằm trong khu vực nông thôn nên trình độ học vấn của người dân tương đối thấp, chủ yếu canh tác không theo kỹ thuật mà theo kinh nghiệm lâu năm. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 34 Bảng 3. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 21BLớn nhất 2BNhỏ nhất 23BTrung Bình 24BĐộ lệch chuẩn 25BTuổi (năm) 26B78 27B30 52,7 28B12,65 29BNăm kinh nghiệm (năm) 30B50 31B5 32B 2,19 3B9,91 34BHọc vấn (lớp) 35B10 36B1 5,6 37B2,31 38BDiện tích (ha) 39B5 40B3 1,42 41B ,04 Đa số những hộ dân canh tác mô hình Lúa – Cá có số tuổi khá cao, thể lực và sức khoẻ bị hạn chế, ảnh hưởng đến năng suất lao động thấp, dẫn đến mức sống thấp. Những người dân sống lâu đời ở đây từ xưa chỉ biết canh tác trồng lúa để tạo thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhu cầu về cá tăng, những lợi ích của các mô hình này mang lại khá cao, từ đó, mô hình Lúa – Cá ngày càng được các hộ dân ưa chuộng và áp dụng càng nhiều. Số lượng nhân khẩu trung bình trong một hộ gia đình là 4,3 - 4,4 người, đây là một con số không cao đối với số lượng người dân ở nông thôn. Đa số các hộ khi được phỏng vấn đều cho biết chỉ có những người trong độ tuổi lao động trong gia đình mới đi làm nông nghiệp, trẻ em còn nhỏ và đang ở độ tuổi học hành đều được ưu tiên cho việc học và không phải làm nông nghiệp. Đây cũng những đổi mới trong nhận thức của người dân ở nông thôn đối với việc học tập của trẻ em. Tại đây, nam giới vẫn là người chủ yếu trong việc quyết định và thực hiện các vấn đề liên quan đến canh tác sản xuất. Tuy nhiên, ngày nay, nữ giới cũng có đóng góp và tham gia rất nhiều. Họ cũng có khá nhiều sự hiểu biết về vấn đề canh tác và có thể đưa ra các quyết định về vấn đề liên quan đến nông nghiệp. 3.2 Hiệu quả kinh tế Sản xuất nông nghiệp rất phức tạp do nó chịu ảnh hưởng rất lớn bởi khí hậu, thời tiết, đất đai đây là các yếu tố rất khó định lượng được. Vì vậy, các chỉ số kinh tế sẽ giúp người sản xuất biết được hiệu quả nguồn lực được sử dụng và có thể đưa ra các quyết định phù hợp nhằm gia tăng thu nhập cho gia đình. Bảng 4. Các chỉ số đánh giá hiệu quả kinh tế. Theo kết quả điều tra, tổng chi phí trong quá trình sản xuất của mô hình Lúa – Cá khoảng 26,29 triệu đồng/năm/ha. Năng suất mô hình Lúa – Cá có năng suất lúa khoảng 17 tấn/ha với giá bán 1 kg lúa dao động từ 3.900 đồng – 4.300 đồng, bên cạnh đó, năng suất thả cá trong ruộng khoảng 0,53 tấn/ha với giá bán dao động tùy vào loại cá. Người dân thu nhập từ mô hı̀nh Lúa – Cá là 56,72 42BChỉ tiêu 43BĐơn vị tính 4BLúa - Cá 45BTổng chi phí 46BTriệu đồng/năm/ha 26,29 ± 3,75 47BDoanh thu 48BTriệu đồng/năm/ha 83,01 ± 10,47 49BThu nhập 50BTriệu đồng/năm/ha 56,72 ± 10,88 51BThu nhập/chi phí 52BLần 2,16 53BThu nhập/doanh thu 54BLần 0,68 5BDoanh thu/chi phí 56BLần 3,16 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 35 triệu đồng/năm/ha, hiệu quả đồng vốn tương đối cao 2,16. Kết quả điều tra của Bùi Huy Cộng và cs. (2008) về năng suất lúa, trong những ruộng lúa – cá cao hơn hẳn những ruộng không nuôi cá từ 0,8 – 1,2 tấn/ha. Ở mô hình Lúa – Cá tại Phú Thịnh năm 1997 có lãi là 6,23 triệu đồng/ha, trong khi cấy 2 vụ lúa chỉ lãi 1,08 triệu đồng/ha. Nhận xét về mô hình nuôi cá ruộng mùa nước nổi có thể nói đây là mô hình nuôi đơn giản, người dân chỉ đầu tư con giống ban đầu, giảm chi phí thức ăn, ít tốn công chăm sóc, thời gian nuôi lại ngắn nhưng có hiệu quả. Đây là mô hình vừa mang lại hiêụ quả kinh tế cao, vừa giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động nhàn rỗi ở địa phương. Và cũng chính là mô hình độc đáo cần đươc̣ nhân rộng để giúp người dân nhanh chóng thoát nghèo, từng bước vươn lên, cải thiện cuộc sống. Kết quả đánh giá tương tự với kết quả của Bùi Huy Cộng và cs. (2008) về các yếu tố môi trường không ảnh hưởng lớn đến đời sống của cá. Năng suất lúa trong ruộng lúa – cá cao hơn ruộng cấy lúa đơn thuần. Hiệu quả kinh tế ở mô hình Lúa – Cá lãi gấp 5 lần so với chỉ trồng lúa. Ngoài ra còn tạo thêm công ăn việc làm, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho nông dân và góp phần làm sạch môi trường. Kết quả điều tra cũng tương tự với kết quả dự án “nuôi luân canh lúa-cá” tại huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang đến kỳ thu hoạch, trọng lượng bình quân cá rô đạt 170-200 gr/con; mè vinh 150-200 gr/con, cá sặc rằn đạt 75-80 gr/con, năng suất cá ước đạt trên 7,8 tấn/ha. Đối với lúa, nhờ áp dụng mô hình “ba giảm ba tăng” nên chi phí sản xuất được tiết giảm đáng kể. Dự kiến, sau khi trừ chi phí, lợi nhuận từ nuôi cá đạt hơn 73 triệu đồng/ha, cộng với lãi từ hai vụ lúa 20 triệu đồng/ha thì mô hình cho lãi gần 94 triệu đồng. Như vậy, nếu so sánh với canh tác thuần lúa ba vụ, mô hình Lúa – cá cho thu nhập cao hơn gần 2,5 lần (Tấn Văn, 2013). Lê Quang Trí và cs. ( 2007) thực hiện so sánh và đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình như mô hình Lúa 3 vụ, mô hình 2 Lúa – Cá, mô hình Cây ăn trái. Kết quả cho thấy mô hình 2 Lúa – Cá đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, kế đến là mô hình Cây ăn trái và cuối cùng là mô hình Lúa 3 vụ. Mặc dù người nông dân đầu tư chủ yếu cho mô hình 3 vụ lúa với mức độ đầu tư cao hơn của mô hình 2 Lúa – Cá nhưng lại đạt hiệu quả kinh tế thấp hơn. Đối với cơ cấu lúa - cá cần mở rộng diện tích, vì đây là cơ cấu đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, ít gây ô nhiễm môi trường vừa đảm bảo nhu cầu lương thực, vừa tăng thu nhập cho người dân, giải quyết được công ăn việc làm cho người dân. 3.3 Hiệu quả môi trường Theo kết quả điều tra 100% các hộ ở các mô hình đều cho biết, nước sau khi canh tác nông nghiệp thải ra đều không được xử lý mà thải ra thẳng kênh, mương, sông. Đây là một vấn đề cần phải xử lý gấp, bên cạnh đó cần nâng cao nhận thức của người dân về tác động của chất thải nông nghiệp đến môi trường. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 36 Hình 1. Tình hình đất nhiễm phèn của mô hình Lúa - Cá Đất canh tác mô hình Lúa – Cá nhiễm phèn ở mức độ tương đối nhẹ (84,37%), tuy nhiên, có 90,63% hộ cho biết có xử lý đất trước khi canh tác. Xử lý đất chủ yếu là ở vụ Đông Xuân: sau khi dọn sạch cỏ, trục đánh bùn và san bằng mặt ruộng bằng máy cày, rải phân lân hạ phèn; vào vụ Hè Thu: cày đất bằng máy, phơi đất trong một thời gian. Sau đó bừa, trục và san bằng mặt ruộng, rải phân lân hạ phèn. Theo thống kê, mô hình Lúa – Cá có số lượng phân bón trung bình là 40,9 kg, số lượng phân bón nhiều nhất là 80 kg, số lượng phân bón ít nhất là 20 kg. Có thể thấy, số lượng phân bón sử dụng trên 1000 m2 của các hộ dân cho mô hình Lúa – Cá được phỏng vấn cũng phù hợp với số lượng phân bón được khuyến cáo sử dụng. Công nghệ kỹ thuật ngày một tiến bộ, sản xuất nông nghiệp phát triển cùng với đó là tình hình đáng lo ngại về việc lạm dụng phân bón hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật gây ảnh hưởng đến môi trường và sức khoẻ con người. Vấn đề này đang ngày càng trở lên nghiêm trọng và làm nảy sinh rất nhiều vấn đề môi trường. Tuy nhiên, không phải người nông dân nào cũng nhận thức được tác động của canh tác sản xuất nông nghiệp đến tình hình môi trường đất và nước. Bảng 5. Nhận thức của người dân về vấn đề môi trường (%) Nội dung Kết quả Có Không Hiểu luật môi trường 90,6 9,4 Chấp hành luật môi trường 81,3 18,7 Thống kê cho thấy, đa số các hộ dân đều có hiểu biết về luật môi trường và tỷ lệ có hiểu về luật môi trường ở các mô hình khá cao (chiếm 90,6%). Tuy nhiên, thực trạng hiểu luật và chấp hành luật không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận với nhau, vẫn còn 18,7% hộ cho biết các hộ xung quanh không chấp hành môi trường. Hiện nay, rất nhiều người dân không được hướng dẫn mà tự sử dụng thuốc theo thói quen và nhu cầu diệt sâu hại; tự pha tăng nồng độ để diệt tận gốc sâu hại mà không biết dư lượng thuốc còn lại sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và con người sống xung quanh. 6.25 9.37 84.375 0 Lúa - cá Nặng Trung bình Nhẹ Không An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 37 Bảng 6. Cách xử lý của người dân đối với một số vấn đề (%) Nội dung điều tra Cách xử lý Lúa - cá Xử lý các chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thủy sản, bao bì phân bón Vứt xuống ruộng, bờ kênh, sông ngòi 71,9 Thu gom bán phế liệu 59,4 Tập trung ở bãi rác 0 Thiêu hủy 56,3 Xử lý thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thủy sản khi còn dư Sử dụng tiếp đến hết thuốc cho 1 lần 62,5 Để lại đến lần sau 37,5 Xử lý dụng cụ để phun thuốc bảo vệ thực vật sau khi sử dụng Không rửa 0 Rửa ngay sau khi phun (nước sau khi súc được xả ra ruộng) 62,5 Mang về nhà rửa 37,5 Việc xử lý các chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thủy sản, bao bì phân bón: đa số đều cho biết họ vứt xuống ruộng, bờ kênh, sông ngòi; thu gom bán phế liệu và thiêu hủy. Không có hộ nào cho biết tập trung các chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thủy sản, bao bì phân bón ở bãi rác. Việc xử lý thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thủy sản khi còn dư: ở mô hình Lúa – Cá chủ yếu là sử dụng tiếp đến hết thuốc, một số ít thì để lại sử dụng lần sau. Nơi bảo quản thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thủy sản: 100% các hộ ở mô hình đều cho biết không có khu vực cách ly, không có nơi để bảo quản thuốc thực vật, thuốc hóa học, thuốc thủy sản. Việc xử lý dụng cụ để phun thuốc bảo vệ thực vật sau khi sử dụng: đa số các hộ đều chọn súc rửa ngay sau khi phun (nước sau khi súc được xả ra ruộng) cho thuận tiện, mô hình Lúa chiếm 73,33%; mô hình Lúa – Cá chiếm 62,5% và mô hình Mía chiếm 63,9%. Có một số các hộ cho biết, họ mang về nhà súc rửa và không có hộ nào không súc rửa dụng cụ sau khi sử dụng. Mặt dù mô hình 3 Lúa đem lại hiệu quả cao hơn về việc làm, giải quyết được lực lượng lao động nhàn rỗi nhiều hơn. Nhưng ngược lại thì mức độ về đa dạng sinh học thì của mô hình 3 vụ lúa lại được quan tâm nhiều hơn do sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu cao hơn mô hình Cây ăn trái và Lúa - Cá (Lê Quang Trí và cs., 2007). Thực chất mô hình Lúa - Cá sử dụng hiệu quả và hợp lý hơn các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất và nước. Đồng thời, khi tiến hành canh tác lúa - cá, việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu giảm hẳn, góp phần giảm ô nhiễm môi trường đất và nước. Các loại chất thải của cá tích tụ có tác dụng làm phân bón, tăng độ mùn cho ruộng lúa. Cá thường xuyên kiếm thức ăn bằng cách sục bùn, làm cho đất được cày xốp lên, toàn bộ xác hữu cơ ở dạng khó tiêu (than bùn) được chuyển sang dạng dễ tiêu (phân cá). Cá ăn các loài sâu bọ, côn trùng làm giảm dịch hại cho ruộng lúa ( Lê Nga, 2013). 3.4 Hiệu quả xã hội Đánh giá hiệu quả xã hội thông qua sự thay đổi ở cuộc sống hiện tại, những thay đổi trong xã hội do mô hình tác động. Bên cạnh đó, hiệu quả xã hội cũng nói lên mức độ giải quyết các vấn đề xã hội khi áp dụng mô hình canh tác như xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giải quyết việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 38 Bảng 7. Đánh giá cuộc sống hiện tại của các hộ dân (%) Đa số các hộ gia đình cho biết, cuộc sống của gia đình hiện tại tốt hơn so với trước đây, cuộc sống tinh thần và vật chất ngày càng cải thiện. Tuy nhiên vẫn có những hộ cho biết, cuộc sống của gia đình mình giảm sút so với trước đây, nguyên nhân là do canh tác không được giá, dịch bệnh tăng, chi phí đầu tư cao nhưng lợi nhuận thu vào không đủ nên dẫn đến cuộc sống giảm sút. Xét về mặt xã hội, mô hình Lúa - Cá còn có ý nghĩa rất lớn. Việc áp dụng mô hình này vào sản xuất nông nghiệp làm cho cơ cấu mùa vụ đa dạng, phá thế độc canh cây lúa, tạo thêm nhiều việc làm, giảm thời gian nông nhàn, làm tăng thêm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân. Người nông dân có thể làm giàu trên chính mảnh đất quê hương của mình (Lê Nga, 2013). Bảng 8. Hiệu quả xã hội của các mô hình sản xuất (%) 57BVấn đề 58BLúa - Cá 59BTốt 60B81,2 61BKhông thay đổi 62B12,5 63BGiảm sút 64B ,3 Vấn đề Lúa - Cá Tạo việc làm 90,6 Có nhiều thời gian chăm sóc gia đình 31,3 Xóa đói giảm nghèo 18,8 Tiếp cận các dịch vụ xã hội 81,3 Giảm khoảng cách giàu nghèo 21,9 Nâng cao trình độ dân trí 71,9 Giảm các tệ nạn xã hội 43,8 Giảm bất bình đẳng gia đình 25 Tăng thời gian vui chơi, giải trí, du lịch của gia đình 31,3 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 31 – 39 39 Người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa với thu nhập bấp bênh và đánh bắt các loại động vật trong rừng, săn bắt cá và chặt đốn cây để kiếm thêm thu nhập. Sau khi áp dụng các mô hình canh tác nông nghiệp Lúa – Cá, nhu cầu về lao động đã giúp cho một bộ phận lao động ở trong khu vực có thêm việc làm nhằm nâng cao đời sống của gia đình. Việc nâng cao thu nhập đã dần cải thiện tình hình giáo dục của địa phương. Khi kinh tế gia đình phát triển, nhận thức của các hộ dân cũng phát triển và nâng cao, biết chú trọng đến việc học của con em trong gia đình, tập trung tạo điều kiện cho con em đi học để nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, kinh tế ngày một nâng cao giúp các hộ gia đình có khả năng tiếp cận với các dịch vụ một cách dễ dàng, đặc biệt là dịch vụ y tế, nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân, các dịch vụ giải trí, du lịch cũng được đầu tư nhiều hơn. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Lúa – Cá là mô hình có lợi nhuận 56,72 triệu đồng/năm/ha, vừa góp phần tăng thu nhập cho nông hộ, vừa bảo vệ môi trường sinh thái trên đồng ruộng. Canh tác mô hình Lúa – Cá giúp tăng năng suất lúa và còn giúp tăng độ phì nhiêu của đất do phân của cá tích lũy ở mặt ruộng, giảm chi phí cho việc chuẩn bị ruộng và phân bón cho vụ Đông Xuân. Hạn chế sử dụng nông dược độc hại cho người và môi trường. Bên cạnh đó, xét về mặt xã hội, mô hình đã tạo ra việc làm, ổn định thu nhập, giúp người dân dễ tiếp cận đến các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh tại bệnh viện, đầu tư cho con đi học đều tốt hơn trước. Mô hình Lúa – Cá là mô hình hiệu quả và cần được nhân rộng, tập huấn cho người dân áp dụng để nâng cao thu nhập và chất lượng đời sống của người dân, đồng thời đạt được hiệu quả môi trường và hiệu quả xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi Huy Cộng và cs. (24/11/2008). Nghiên cứu kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các hình thức nuôi cá lúa. Trang điện tử Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Truy cập từ: kien-Thanh-tuu-KH-CN/Nghien-cuu-ky-thuat- va-hieu-qua-kinh-te-cua-cac-hinh-thuc-nuoi- ca-lua-27311.html Giáo trình Thống kê doanh nghiệp. (2012) Trường Đại học Xây dựng Miền Trung. Truy cập từ: r/connectors/asp/image/Chuong%207(2).pdf Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. (2013). Báo cáo quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng đến năm 2020. Hậu Giang: Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang. Lê Quang Trí, Phạm Thanh Vũ, Kha Thanh Hoàng & Văn Phạm Đăng Trí. (2007). Đánh giá hiệu quả của các yếu tố đầu vào – đầu ra đến hệ thống sử dụng đất đai theo nhóm nông dân trên địa bàn xã Song Phú Tam Bình – Vĩnh Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 2007:7 67-76. Lê Tiêu La. (2008). Đánh giá hiệu quả các mô hình chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long (7558). Hà Nội: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản. Lê Nga. (2013). Mô hình 1 lúa – 1 cá, hướng đi mới của xã Đồng Ích. Báo điện tử Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc. Truy cập từ: =details&idmuc=KNTS08L Tấn Văn. (2013). Hiệu quả “kép” từ mô hình “lúa- cá” mùa lũ ở Tiền Giang. Báo điện tử Nhân Dân. Truy cập từ: lam-an/item/21515002-hiệu-quả-“kép”-từ-mô- hình-“lúa-cá”-mùa-lũ-ở-tiền-giang.html Từ điển Thuật ngữ kinh tế học. (2001). Hà Nội: Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Hà Nội, trang 224.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_mo_hinh_trong_lua_ca_tai_khu_bao_ton_thien.pdf