Vấn đề chi phí xã hội

Vấn Đề Chi Phí Xã Hội RONALD COASE Nguyễn Hồng Trang dịch Ronald Coase là giáo sư danh dự tại Đại Học Luật Chicago và là người đoạt giải Nobel về kinh tế. Đây là bài báo rút từTập San Lu ật và Kinh Tế (tháng 10 năm 1960). Một vài đoạn trong bài báo đề cập đến các thảo luận mở rộng liên quan đến các quyết định pháp luật đã được lược bỏ. I. VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU Bài báo này đề cập đến hành động của các hãng kinh doanh mà các hành động này có tác động tiêu cực đến người khác. Một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này là khói từ một nhà máy đã gây ảnh hưởng có hại đến tài sản của những người sống ở xung quanh nó. Phân tích kinh tế về tình huống đó thường được tiến hành dựa trên phương diện của sự khác nhau giữa sản phẩm cá nhân và sản phẩm xã hội của nhà máy, ởđó các nhà kinh tế chủ yếu đi theo cách giải quyết của Pigou trong cuốn Các Nền Kinh Tế Phúc Lợi. Kết luận của loại phân tích này có vẻ thường dẫn hầu hết các nhà kinh tếđến chỗ muốn chủ của nhà máy phải chịu trách nhiệm cho những tổn hại do khói mà họ gây ra hay đánh thuế người chủ của nhà máy với mức tùy thuộc vào mức độ khói thải ra và tương đương với những thiệt hại do khói gây nên, hay biện pháp cuối cùng là di dời nhà máy ra khỏi khu dân cư (hay ra khỏi vùng mà khói nhà máy có thể gây ảnh hưởng). Luận điểm của tôi là các biện pháp được đưa ra đều không thích hợp do chúng có thể dẫn tới những hậu quả không cần thiết hay thậm chí những hậu quả không mong muốn. II. BẢN CHẤT QUA LẠI CỦA VẤN ĐỀ Cách tiếp cận truyền thống có xu hướng che đậy bản chất của việc đưa ra quyết định lựa chọn. Câu hỏi thường được đặt ra trong trường hợp A có tác động xấu lên B và quyết định cần được đưa ra là: Chúng ta làm thế nào để hạn chế A? Nhưng đó là quyết định sai. Chúng ta cần phải giải quyết được bản chất qua lại của vấn đề. Để tránh ảnh hưởng xấu, B sẽ gây ảnh hưởng xấu tới A. Câu hỏi thật sự cần đặt ra là: Liệu A có được phép gây hại đến B hay liệu B có được phép gây hại đến A? Vấn đề là ở chỗ làm sao để tránh được những tác hại nghiêm trọng hơn. Tôi đã đưa ra ví dụ trong bài báo trước về trường hợp tiếng ồn và rung từ máy móc của một nhà máy sản xuất bánh kẹo gây phiền hà đến công việc của một bác sỹ. Để tránh ảnh hưởng xấu đó bác sỹ có thể gây ảnh hưởng lại đối với nhà máy sản xuất bánh kẹo. Vấn đề mà trường hợp này nêu ra về cơ bản là nó có đáng hay không khi kết quả của việc hạn chế các phương thức sản xuất được nhà máy bánh kẹo sử dụng có thểđảm bảo việc khám chữa bệnh tốt hơn tại chi phí của việc cung giảm của sản phẩm bánh kẹo. Một ví dụ khác là vấn đề các gia súc đi lạc phá hại mùa màng trên vùng đất của người lân cận. Nếu việc một vài con gia súc đi lạc là điều không thể trách khỏi thì tất cả sự tăng lên trong việc cung cấp thịt có thể thu được tại chi phí của việc giảm sút trong cung của mùa vụ. Bản chất của sự lựa chọn đã rõ: thịt hay mùa vụ. Câu trả lời cần được đưa ra tất nhiên là sẽ không rõ ràng trừ khi chúng ta biết Vấn Đề Chi Phí Xã Hội được giá trị của cái mà chúng ta đạt được cũng như cái mà chúng ta phải hi sinh đểđạt được nó. Một ví dụ khác, giáo sư George J. Stigler đã lấy ví dụ về sự nhiễm bẩn của một dòng suối. Nếu chúng ta giảđịnh rằng tác hại xấu của việc ô nhiễm đã giết chết cá ởđó thì vấn đề cần được quyết định là: liệu giá trị của số cá mất đi là nhiều hơn hay ít hơn giá trị sản phẩm có thểđược làm ra do sự nhiễm bẩn đó. Mọi việc vẫn tiếp diễn mà hầu như không cần nói rằng vấn đề này cần phải được nhìn nhận dưới góc độ tổng thểvà cận biên. III. HỆ THỐNG GIÁ CHỊU TRÁCH NHIỆM THIỆT HẠI Tôi định bắt đầu bài phân tích của mình bằng việc xem xét một trường hợp mà hầu hết các nhà kinh tếđều có thểđồng ý rằng vấn đề sẽđược giải quyết theo cách hoàn toàn làm mọi người hài lòng: khi gây hại đến người khác các công ty kinh doanh phải trả toàn bộ tổn thất do họ gây ra và hệ thống giá sẽ làm việc một cách trôi chảy (nói đúng ra nó có nghĩa hệ thống giá được vận hành miễn phí). Một ví dụ hay của vấn đềđang được thảo luận là trường hợp gia súc đi lạc phá hoại mùa màng trồng trên đất của người hàng xóm. Giả sử rằng một người nông dân và một người nuôi gia súc đang làm việc trên mảnh đất thuộc sở hữu của hàng xóm. Giả sử thêm rằng, giữa hai mảnh đất đó không có rào chắn và quy mô đàn gia súc của người nuôi ngày càng tăng thì tổng thiệt hại mà nó gây ra cho mùa màng của người nông dân càng lớn. Cái gì xảy ra đối với thiệt hại cận biên khi quy mô của đàn gia súc tăng là vấn đề khác. Nó phụ thuộc vào việc liệu đàn gia súc có xu hướng đi thành hàng nối đuôi nhau hay là đi lung tung con nọ cạnh con kia, hay phụ thuộc vào việc đàn gia súc có xu hướng tăng liên tục nhiều hay ít và phụ thuộc vào nhiều yếu tố tương tự khác nữa. Vì mục đích trực tiếp của mình, chọn giảđịnh nào về thiệt hại cận biên khi quy mô của đàn gia súc tăng lên là không quan trọng. Đểđơn giản hóa luận chứng, tôi đề nghị sử dụng một ví dụ số học. Tôi sẽ giảđịnh rằng chi phí hàng năm của việc lập hàng rào cho mảnh đất của người nông dân là 9 đô là và giá trị mùa vụ là 1 đô-la một tấn. Tôi cũng giảđịnh rằng mối quan hệ giữa số lượng gia súc trong một đàn và thiệt hại hàng năm về mùa vụ là như sau: SỐ LƯỢNG GIA SÚC THIỆT HẠI HÀNG NĂM THIỆT HẠI MÙA VỤ TÍNH TRONG ĐÀN CỦA MÙA VỤ TRÊN MỘT CON BÒ TĂNG (BÒ ĐỰC) (TẤN) THÊM (TẤN) 1 1 1 2 3 2 3 6 3 4 10 4 Giả sử rằng người nuôi gia súc chịu trách nhiệm cho tổn thất mà họ gây ra, chi phí thêm hàng năm mà người nuôi gia súc phải chịu khi anh ta tăng thêm số lượng gia súc từ 2 lên 3 con bò là 3 đô-la và khi quyết định quy mô của đàn gia súc, anh ta sẽ tính đến các chi phí này cùng với các chi phí khác của mình. Anh ấy sẽ không tăng quy mô của đàn gia súc trừ khi giá trị tăng thêm của thịt được sản xuất ra (giả sử người nuôi gia súc trực www.kinhtehoc.com 2 Vấn Đề Chi Phí Xã Hội tiếp giết mổ gia súc) lớn hơn chi phí tăng thêm ma anh bắt buộc phải trả, bao gồm cả giá trị tăng thêm của mùa màng bị phá huỷ. Tất nhiên, bằng việc sử dụng chó, người chăn gia súc, máy bay, đài phát di động và các phương tiện khác thì số lượng thiệt hại có thểđược giảm nhẹ, nhưng các phương tiện này chỉđược sử dụng khi chi phí dành cho chúng ít hơn giá trị của mùa màng mà chúng phải bảo vệđể khỏi bị mất. Giả sử chi phí hàng năm để làm hàng rào là 9 đô-la, người chăn nuôi gia súc muốn đàn gia súc của mình có 4 con bò hoặc hơn sẽ phải trả cho việc lắp dựng hàng rào vào bảo quản nó, giả sử rằng các phương tiện khác đạt được là không rẻ. Khi hàng rào được dựng nên, chi phí cận biên cho trách nhiệm thiệt hại là 0, trừ khi quy mô đàn gia súc đòi hỏi cần phải có hàng rào tốt hơn và do vậy tiền chi cho hàng rào sẽđắt tiền hơn vì nhiều gia súc có khả năng dựa vào đó cùng một lúc. Nhưng tất nhiên người nuôi gia súc cũng có thể tốn ít tiền hơn vì không cần phải dựng hàng rào và trả phí tổn do mùa vụ bị phá huỷ vì theo như ví dụ số học mà tôi đưa ra, với trường hợp 3 hay ít bò hơn. Có thể nghĩ rằng sự thật khi người nuôi gia súc trả tất cả chi phí cho mùa màng bị thiệt hại sẽ khiến cho người nông dân tăng diện tích trồng trọt nếu như người nuôi gia súc đến chiếm diện tích đất lân cận. Nhưng sự việc không phải như vậy. Nếu như trước đây mùa màng được bán trong các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì chi phí cận biên sẽ bằng với giá đối với số lượng đã được trồng, còn bất kỳ sự mở rộng nào sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của người nông dân bị giảm. Trong hoàn cảnh mới này, sự hiển diện của việc mùa màng bị thiệt hại có nghĩa là người nông dân sẽ bán ít đi ở thị trường mở nhưng số tiền mà anh ta nhận được cho số lượng sản phẩm nhất định vẫn không đổi, vì người nuôi gia súc đã trả cho số mùa vụ bị thiệt hại theo giá thị trường. Tất nhiên nếu ngành chăn nuôi gia súc nói chung có liên quan đến việc phá huỷ mùa màng thì sự hiển diện của ngành công nghiệp chăn nuôi gia súc sẽ làm tăng giá của mùa màng có liên quan và nông dân do đó sẽ mở rộng diện tích trồng trọt. Nhưng ởđây tôi chỉ giới hạn sự tập trung của mình đến từng nông dân cá thể. Tôi đã từng nói rằng sự xâm lấn vùng đất lân cận của người nuôi gia súc sẽ không là nguyên nhân liên quan tới số lượng sản phẩm, hay nói một cách chính xác hơn là nguyên nhân của số lượng gieo trồng vì người nông dân đã tăng lượng gieo trồng. Trên thực tế, nếu như người nuôi gia súc có gây ra ảnh hưởng gì thì nó sẽ làm giảm số lượng gieo trồng. Nguyên nhân của việc này là đối với bất kỳ một vùng đất canh tác cụ thể nào nếu giá trị mùa vụ bị thiệt hại lớn đến mức tiền thu được từ việc bán sản phẩm mùa vụ không bị thiệt hại ít hơn tổng số chi phí cho việc canh tác mảnh đất đó thì người nông dân sẽ có lợi và người nuôi gia súc sẽ thoả thuận với người nông dân về việc mảnh đất còn lại không cần canh tác. Một ví dụ số học sẽ minh hoạ rõ ràng cho điều này. Giả sử lúc đầu giá trị mùa vụ thu được từ việc canh tác một mảnh đất cụ thể là 12 đô-la và chi phí phải chịu khi canh tác trên mảnh đất đó là 10 đô-la, lợi nhuận ròng thu được từ việc canh tác trên mảnh đất đó là 2 đô-la. Tôi giả sửđể cho đơn giản hoá vấn đề rằng người nông dân là người chủ của mảnh đất đó. Bây giờ lại giả sử người nuôi gia súc bắt đầu chăn nuôi trên vùng đất lân cận và giá trị mùa vụ bị phá huỷ là 1 đô-la. Trong trường hợp người nông dân thu được $11 đô từ việc bán sản phẩm từ mùa vụ của mình ra thị trường và 1 đô là số tiền thu được của người chăn nuôi gia súc thì lợi nhuận ròng mà người nông dân thu được vẫn là 2 đô-la. Bây giờ giả sử người nuôi gia súc thấy việc tăng số lượng đàn gia súc của mình lên là có lợi thậm chí ngay cả khi số tiền mà anh ta phải trả cho thiệt hại www.kinhtehoc.com 3

pdf25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề chi phí xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bất kỳ sự kiểm tra cạnh tranh nào, sẽ luôn là những quy định cần thiết, có tác dụng làm tăng hiệu quả vận hành của nền kinh tế. Hơn nữa, những quy định chung như vậy phải áp dụng cho các trường hợp rất đa dạng, nhiều trường hợp có hiệu lực nhưng trong nhiều trường hợp thì rõ ràng là không thích hợp. Từ những xem xét này có thể thấy những quy định trực tiếp của chính phủ sẽ không nhất thiết tạo ra các kết quả tốt hơn việc để vấn đề cho thị trường hay công ty tự giải quyết. Nhưng tương tự như vậy không thể phủ nhận, trong một số trường hợp , quy định hành chính của chính phủ có mang lại sự cải thiện hiệu quả kinh tế. Đó chính là trường hợp đặc biệt khi, ví dụ như trường hợp tác hại của khói, có một số lượng lớn người liên quan và do đó chi phí giải quyết vấn đề thông qua thị trường hay công ty có thể sẽ rất cao. Tất nhiên vẫn có một sự lựa chọn khác cho vấn đề này, đó là chẳng làm gì để giải quyết vấn đề cả. Giả sử rằng chi phí liên quan để giải quyết vấn đề, bằng những quy định đưa ra bởi bộ máy hành chính của chính phủ, thường là rất cao (đặc biệt nếu chi phí đó Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 12 bao gồm tất cả các kết quả của từng việc mà chính phủ phải can thiệp vào), không còn nghi ngờ gì nữa trường hợp mà lợi ích thu được từ quy định hành động khiến cho các tác động bất lợi tăng sẽ tốn phí ít hơn phí phải bỏ ra khi có sự can thiệp của quy định của chính phủ. Thảo luận về vấn đề ảnh hưởng bất lợi trong phần này (khi chi phí giao dịch thị trường được đưa vào tính toán) là rất không thích hợp. Nhưng ít nhất nó cũng làm sáng tỏ vấn đề về một sự lựa chọn sắp xếp xã hội hợp lý nhằm giải quyết những ảnh hưởng bất lợi. Tất cả các giải pháp đều cần có chi phí và không có một lý do nào để cho rằng quy định của chính phủ được xem là cách giải quyết vấn đề đơn giản vì thị trường hay công ty không thể giải quyết tốt vấn đề. Trên thực tế, ta chỉ có thể có quan điểm về chính sách làm hài lòng mọi người khi bình tĩnh nghiên cứu xem thị trường, công ty và chính phủ sẽ giải quyết vấn đề ảnh hưởng bất lợi này như thế nào. Các nhà kinh tế cần nghiên cứu công việc của người môi giới khi liên kết các bên lại với nhau, kết quả của các hiệp định giới hạn, vấn đề của công ty phát triển kinh doanh bất động sản quy mô lớn, hoạt động của chính phủ về chia vùng và quy định về các hoạt động khác. Tôi tin tưởng rằng các nhà kinh tế và những người hoạch định chính sách nói chung đều có xu hướng đánh giá quá cao những lợi ích thu được từ các quy định của chính phủ. Nhưng sự tin tưởng này, thậm chí nếu có được chứng minh, cũng chỉ nhằm gợi ý rằng quy định của chính phủ nên được giảm bớt. Nó không nói với chúng ta nơi nào đường giới hạn được vẽ nên nhưng dường như với tôi điều này đến từ nghiên cứu cụ thể về những kết quả thực sự của việc giải quyết vấn đề theo hướng khác. Nhưng thật không may mắn nếu nghiên cứu này của tôi được thực hiện với sự hỗ trợ của phân tích kinh tế sai lầm. Mục đích của bài viết này là để chỉ ra cách tiếp cận kinh tế nên làm đối với vấn đề này. VII. PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI LUẬT PHÁP CỦA QUYỀN LỢI VÀ VẤN ĐỀ KINH TẾ Thảo luận ở phần V không chỉ phục vụ việc minh họa luận cứ mà nó còn cố gắng gợi mở cách tiếp cận luật pháp về vấn đề ảnh hưởng bất lợi. Các trường hợp xem xét đều ở Anh nhưng việc lựa chọn tương tự các trường hợp ở Mỹ có thể dễ dàng được thực hiện và đặc điểm lý do cũng sẽ tương tự như vậy. Tất nhiên nếu giao dịch thị trường không có chi phí thì toàn bộ những vấn đề này (những vấn đề về tính cân bằng sẽ được tách riêng ra) sẽ là quyền lợi của các bên khác nhau, khi quyền lợi này được xác định rõ ràng thì kết quả của các hành động luật pháp sẽ dễ dự đoán. Nhưng như chúng ta đã biết tình huống khác nhau khi giao dịch thị trường có chi phí cao và điều này khiến cho việc sắp xếp quyền lợi bởi luật pháp trở nên khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, tòa án sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế. Do đó tòa án cần phải hiểu được kết quả kinh tế của các quyết định và đưa kết quả kinh tế đó vào xem xét khi đưa ra quyết định. Tòa án phải hiểu những ảnh hưởng kinh tế đó rõ đến mức nó không thể để tạo ra những kết quả bất ổn cho bản thân vị trí luật pháp của mình. Thậm chí khi có thể thay đổi sự phân định ranh giới luật pháp của quyền lợi thông qua giao dịch thị trường thì rõ ràng việc giảm nhu cầu cho những giao dịch đó và do đó giảm việc sử dụng các nguồn lực cho việc thực hiện chúng là điều rất được mong muốn. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 13 Một nghiên cứu kỹ về dự đoán trước quyết định của tòa án trong những trường hợp như vậy rất được quan tâm nhưng tôi không có đủ khả năng để làm việc đó. Tuy nhiên một nghiên cứu qua đã cho thấy rõ là tòa án thường nhận thức được các hàm ý kinh tế và bản chất qua lại của vấn đề (điều mà nhiều nhà kinh tế không nhận thức được). Hơn nữa, đôi lúc họ còn đưa các hàm ý kinh tế đó vào xem xét cùng với các nhân tố khác khi đưa ra quyết định của mình. Về vấn đề này các tác giả Mỹ đề cập đến vấn đề một cách rõ ràng hơn các tác giả Anh. Do vậy tôi xin trích dẫn bài viết của Prosser về Các sai lầm cá nhân mà một người có thể “sử dụng tài sản của riêng anh ta hay... thực hiện công việc riêng của mình tại chi phí đền bù một số thiệt hại gây ra cho những người hàng xóm sống xung quanh mình. Anh ta có thể vận hành nhà máy với tiếng ồn và khói gây khó chịu cho người khác với điều kiện là nó không được vượt quá giới hạn cho phép. Chỉ khi nào hành động của anh ta là quá đáng, dưới ánh sáng của tính hữu dụng và tổn hại mà nó gây ra (phần in nghiêng là phần được thêm vào), thì nó đã thực sự trở nên phiền toái...Như đã đề cập tới trong một trường hợp cổ điển về việc làm nến ở một thị trấn, “Le utility del chose excusera le noisomeness del stink." Thế giới cần phải có các nhà máy, các lò luyện kim, nhà máy lọc dầu, máy móc gây ra tiếng động và tiếng nổ, thậm chí có thể cần một số chi phí bỏ ra đền bù cho những bất tiện mà nó gây ra cho những người sống ở vùng lân cận và nguyên đơn cần phải chấp nhận những bất tiện vô lý đó vì lợi ích chung.” Các tác giả Anh chính thống không trình bày được một cách rõ ràng như vậy, họ không nêu rõ được sự so sánh giữa tính hữu ích và thiệt hại gây ra chính là một yếu tố trong việc quyết định liệu những ảnh hưởng bất lợi có thể xem là sự thiệt hại hay không. Nhưng ta có thể tìm thấy các quan điểm tương tự như thế của các tác giả Anh được thể hiện không rõ bằng. Không còn nghi ngờ gì nữa ảnh hưởng bất lợi chắc chắn phải lớn trước khi tòa án phán xét nó là một phần phản ánh thực tế phải hầu như luôn phải lấy một phần lợi ích để bù đắp thiệt hại. Và trong biên bản của các trường hợp riêng lẻ, rõ ràng là các thẩm phán hiểu rõ cái gì mất và cái gì được khi họ đưa ra quyết định trao lệnh của toà án hay trao phán quyết có lợi cho bên gây thiệt hại. Do đó, để khước từ việc ngăn chặn thiệt hại mà những tòa nhà mới xây gây ra trong tương lại, thẩm phán tuyên bố: “Tôi biết không có nguyên tắc chung đối với thông luật, mà.... nói một tòa nhà có ý định ngăn chặn tương lai của những cái khác là đã gây thiệt hại. Trong trường hợp như thế, sẽ không có những thành phố lớn; và do đó tôi cần phải trao lệnh của tòa cho tất cả các tòa nhà mới xây trong thành phố này....” Vấn đề mà chúng ta gặp phải khi giải quyết các hoạt động có ảnh hưởng bất lợi không đơn giản chỉ là việc hạn chế trách nhiệm đối với họ. Cái được quyết định là liệu lợi ích thu được từ việc ngăn cản cái có hại có lớn hơn thiệt hại đâu đó phải chịu như kết quả của việc ngăn chặn hành động gây hại. Trong thế giới mà chi phí sắp xếp lại quyền lợi được thiết lập bởi hệ thống luật pháp thì trên thực tế toà án trong trường hợp có liên quan tới thiệt hại, ra quyết định dựa trên vấn đề kinh tế và quyết định nguồn lực được sử dụng như thế nào. Người ta lập luận rằng tòa án có ý thức về vấn đề này và họ thường đưa ra Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 14 sự so sánh về cái được lợi và cái mất đi khi ngăn cản các hoạt động có tác động tiêu cực, mặc dù tất cả các so sánh không phải lúc nào cũng đúng. Nhưng sự phân định ranh giới quyền lợi cũng là kết quả của các sắc lệnh tuân thủ theo đúng luật. Ở đây chúng ta cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về bản chất qua lại của vấn đề. Khi một sắc lệnh tuân thủ luật pháp được thêm vào danh sách thiệt hại thì hành động cũng được đưa vào nhằm hợp pháp hoá những cái khác mà chúng có thể được coi là thiệt hại theo thông luật. Loại tình huống mà các nhà kinh tế có khuynh hướng coi là hành động đòi hỏi có sự điều chỉnh của chính phủ trên thực tế thường là kết quả hoạt động của chính phủ. Hành động đó không phải là khôn ngoan. Nhưng có một mối nguy hiểm thực sự khi chính phủ can thiệp quá sâu vào hệ thống kinh tế, khi đó có thể dẫn đến sự bảo vệ cho những người phải chịu trách nhiệm đối với ảnh hưởng có hại, để cho ảnh hưởng có hại đi quá xa. VIII. CÁCH GIẢI QUYẾT CỦA PIGOU TRONG “KINH TẾ HỌC PHÚC LỢI” Nguồn gốc của phân tích kinh tế hiện đại về vấn đề chi phí xã hội được thảo luận trong bài viết này là “Kinh tế học phúc lợi” của Pigou và cụ thể là đoạn của phần II, đoạn này giải quyết sự khác nhau giữa sản phẩm ròng tư nhân và xã hội, nó xảy ra vì: “một người A, trong quá trình cung cấp một số dich vụ, mà dịch vụ này đã được thanh toán, cho người thứ hai B đã ngẫu nhiên đưa ra một số dịch vụ hoặc tạo ra những bất tiện cho người khác (không phải các sản phẩm giống với dịch vụ ban đầu), hay tạo ra một loại sản phẩm mà bên hưởng lợi không phải là bên thanh toán tiền hay phải trả tiền bồi thường cho bên bị hại.” Pigou nói rằng mục đích của ông trong Phần II: Kinh Tế Học Phúc Lợi là: “xác định xem sự tự do của tính tư lợi, hoạt động theo hệ thống luật pháp hiện hành, có xu hướng phân bổ nguồn lực của đất nước theo cách thuận lợi nhất cho việc sản xuất một lượng lớn cổ tức quốc gia đến chừng nào, và đến chừng nào thì sự tự do của tính tư lợi là khả thi đối với hoạt động của nhà nước nhằm cải thiện xu hướng “tự nhiên”.” Đánh giá từ phần đầu của bài trình bày này, mục đích của Pigou là phát hiện xem liệu có bất kỳ sự cải thiện nào trong sự sắp xếp hiện tại quyết định đến việc sử dụng nguồn lực hay không. Từ đó Pigou kết luận rằng có thể thực hiện việc cải thiện, có người có thể hi vọng ông sẽ tiếp tục việc đó bằng cách nói rằng ông dự định sẽ sắp đặt những thay đổi đòi hỏi chúng xảy ra. Nhưng thay vào đó Pigou thêm cụm từ làm tương phản giữa xu hướng “tự nhiên” và “hành động của nhà nước” mà cụm từ này trong chừng mực ý nghĩa nào đó làm cân bằng giữa sắp xếp hiện tại với xu hướng tự nhiên và nó hàm ý rằng cái được đòi hỏi để tạo nên những cải thiện đó chính là hành động của chính phủ (nếu khả thi). Đây ít hay nhiều chính là quan điểm của Pigou và chính là bằng chứng từ phần 2 của Chương I. Pigou bắt đầu bằng cách đề cập đến các nhà kinh tế học cổ điển theo chủ nghĩa lạc quan, những người lập luận rằng có thể tối đa hóa giá trị của sản xuất nếu chính phủ kiềm chế không can thiệp vào hệ thống kinh tế và các sự sắp xếp về kinh tế xoay chuyển bất ngờ “một cách tự nhiên”. Pigou tiếp tục nói rằng nếu tính tư lợi thúc Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 15 đẩy phúc lợi kinh tế thì chính là bởi vì các cơ quan của con người được lập ra để làm như vậy. (Đây là phần lập luận của Pigou mà phần này đã được ông phát triênr với sự trợ giúp từ việc trích dẫn tác phẩm của Carman, tôi thấy về cơ bản là đúng). Pigou kết luận rằng: “Thậm chí ở những nước phát triển nhất đều có những thất bại và không hoàn hảo... có nhiều trở ngại ngăn cản việc phân bổ nguồn lực cộng đồng...theo cách có hiệu quả nhất. Việc nghiên cứu chúng tạo nên vấn đề hiện nay của chúng ta...mục đích của nó là rất thiết thực. Nó giúp làm rõ hơn một số cách mà bây giờ sẽ là, hay cuối cùng có thể là, khả thi đối với chính phủ nhằm quản lý vai trò của sức mạnh kinh tế theo cách khôn ngoan nhằm thúc đẩy phúc lợi kinh tế và thông qua đó thúc đẩy toàn bộ phúc lợi xã hội của dân chúng nói chung.” Suy nghĩ cơ bản của Pigou là: Có một số người lập luận rằng hành động của chính phủ là không cần thiết nhưng hệ thống này hoạt động tốt được như bây giờ chính là do có hành động của chính phủ. Tuy nhiên vẫn còn có những điểm chưa hoàn hảo. Vậy chính phủ cần có thêm những hành động gì? Nếu đây là tóm tắt đúng về quan điểm của Pigou thì sự chưa đầy đủ của nó có thể được giải thích bằng việc phân tích ví dụ đầu tiên ông đưa ra về sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và xã hội. Có thể xảy ra việc các chi phí rơi vào những người không trực tiếp liên quan do thiệt hại không được bồi thường đối với rừng cây xung quanh gây ra bởi các tia lửa từ đầu máy xe lửa. Phải tính tất cả các ảnh hưởng đó- một số là ảnh hưởng tích cực, một số khác là ảnh hưởng tiêu cực-lên sản phẩm ròng xã hội của tiền lời cận biên của bất kỳ lượng nguồn lực nào được chuyển đổi cho bất kỳ mục đích sử dụng hay vị trí nào. Ví dụ được Pigou sử dụng đề cập đến một tình huống có thật. Ở Anh, ngành đường sắt thường không phải bồi thường cho nạn nhân chịu thiệt hại do cháy từ tia lửa phát ra từ đầu máy. Xem xét cùng với những gì được ông nói đến ở phần II, Chương 9, tôi xin lấy khuyến nghị khôn ngoan của Pigou, đầu tiên là nhà nước nên hành động nhằm sửa chữa tình huống “tự nhiên” và thứ hai phải bắt ngành đường sắt đền bù thiệt hại do rừng bị cháy. Nếu đây là cách hiểu đúng quan điểm của Pigou thì tôi có thể lập luận rằng khuyến nghị đầu tiên được đưa ra dựa trên việc hiểu sai sự thật và khuyến nghị thứ hai là không cần thiết. Bây giờ chúng ta xem xét đến quan điểm luật pháp. Dưới tiêu đề “Tia Lửa Phát Ra Từ Đầu Máy” chúng ta thấy nội dung sau trong quyển “Pháp luật Anh” của Halsbury: “Nếu nhà kinh doanh xe lửa sử dụng động cơ hơi nước mà văn bản pháp luật của nhà chức trách không nói rõ là được phép thì họ phải chịu trách nhiệm với hỏa hoạn gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy xe lửa bất luận có do lỗi của sự bất cẩn hay không. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh xe lửa thường nhận được sự cho phép sử dụng đầu máy hơi nước tương xứng của nhà chức trách nếu đầu máy xe lửa được sản xuất với lời cảnh báo phòng ngừa khoa học nói rằng đề phòng hỏa hoạn và phải thận trọng khi sử dụng, trong trường hợp như vậy các nhà kinh doanh xe Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 16 lửa sẽ không phải chịu trách nhiệm trước thông luật về bất cứ thiệt hại nào do tia lửa từ đầu máy gây ra...Trong khi sản xuất lắp đặt đầu máy, nhà kinh doanh xe lửa nhất định phải sử dụng tất cả các phát kiến khoa học nhằm tránh gây thiệt hại miễn là các phát kiến đó phù hợp đối với công ty, phải quan tâm thích đáng đến việc có thể xảy ra thiệt hại, có chi phí và biện pháp sửa chữa phù hợp; nhưng đó cũng không được coi là lỗi cẩu thả của nhà kinh doanh xe lửa nếu họ từ chối sử dụng thiết bị hiệu quả mà rõ ràng là chúng có tác dụng tốt.” Đối với nguyên tắc chung này, Đạo luật (hỏa hoạn) đường sắt năm 1905, được sửa đổi năm 1928 có dành cho một ngoại lệ. Nó có liên quan đến đất nông nghiệp hay cây trồng nông nghiệp. “Trong trường hợp như vậy sự thật đầu máy xe lửa được sử dụng theo quyền hạn do luật pháp quy định đó là không làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của công ty hành động đối với thiệt hại ... Tuy nhiên, những điều khoản này chỉ được áp dụng khi bồi thường thiệt hại . .. không vượt quá 200 bảng Anh (Đạo luật năm 1905 quy định 100 Bảng Anh) và khi có thông báo bằng văn bản thông báo có hỏa hoạn và ý định đòi bồi thường phải gửi đến công ty trong vòng 7 ngày kể từ ngày xuất hiện thiệt hại và chi tiết thiệt hại được liệt kê bằng văn bản chỉ rõ rằng số tiền đòi bồi thường không vượt quá 200 Bảng Anh, văn bản kê thiệt hại này phải được gửi đến công ty trong vòng 21 ngày.” Đất nông nghiệp không bao gồm đất hoang mạc hay đất xây dựng và cây trồng nông nghiệp không bao gồm cây khô hay rơm. Tôi không thực hiện việc nghiên cứu lịch sử nghị trường đối với ngoại lệ luật pháp này nhưng khi xét đến các thảo luận tại Hạ viện năm 1922 và 1923, ta thấy ngoại lệ này có thể được đưa ra nhằm giúp các nhà kinh doanh nhỏ. Hãy quay trở lại ví dụ của Pigou về thiệt hại gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy đối với khu rừng lân cận mà khu rừng không được bồi thường. Ví dụ này có lẽ nhằm mục đích cho chúng ta thấy khả năng “hành động của Nhà nước để cải thiện xu hướng ‘tự nhiên’” như thế nào. Nếu chúng ta xem xét ví dụ của Pigou ở thời điểm trước năm 1905 hay coi đó là một ví dụ tùy chọn (arbitrary) (trong trường hợp đó Pigou có thể phải viết “đất xây dựng lân cận” thay vì “khu rừng lân cận”), như thế rõ ràng rằng lý do tại sao công ty không phải trả bồi thường chính là do ngành đường sắt có quyền lực luật pháp để vận hành đầu máy hơi nước (miễn trách nhiệm pháp lý đối với hỏa hoạn gây ra do tia lửa từ đầu máy). Đây chính là vị thế luật pháp được thiết lập năm 1860, trong trường hợp đơn lẻ, chỉ liên quan đến việc tàu hỏa gây cháy ở khu rừng lân cận và luật pháp ở điểm này không thay đổi (loại trừ một ngoại lệ) bởi một thế kỷ pháp chế đường sắt, bao gồm cả sự quốc hữu hóa. Nếu chúng ta xem xét ví dụ của Pigou “không bồi thường thiệt hại cho khu rừng lân cận gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy” theo nghĩa đen, và giả định rằng ví dụ này được xem xét vào giai đoạn sau năm 1905,vậy rõ ràng rằng lý do tại sao công ty không phải trả bồi thường chính là vì thiệt hại lớn hơn 100 bảng Anh (trong lần xuất bản đầu tiên của cuốn Kinh Tế Học Phúc Lợi) hay lớn hơn 200 bảng Anh (trong lần tái bản sau) hay do người chủ của những cây gỗ không thông báo bằng văn bản cho công ty xe lửa trong vòng 7 ngày kể từ ngày xảy ra hỏa hoạn hay không gửi bảng kê chi tiết thiệt hại Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 17 trong vòng 21 ngày. Trong thế giới thực, ví dụ của Pigou chỉ tồn tại như kết quả của sự lựa chọn cẩn thận của luật pháp. Tất nhiên không dễ dàng hình dung việc chế tạo lắp đặt đường ray trong tình trạng tự nhiên. Cái dễ hình dung nhất có lẽ là xe lửa sử dụng đầu máy hơi nước “mà không có quyền luật pháp rõ ràng”. Tuy nhiên trong trường hợp này công ty đường sắt bị bắt buộc phải bồi thường cho người chịu thiệt hại do rừng bị cháy. Điều này nói lên rằng, việc đền bù được thực hiện mà không có sự hiện diện của hành động của Chính phủ. Trường hợp duy nhất mà công ty không phải thực hiện đền bù là khi có sự can thiệp của hành động của Chính phủ. Điều lạ là Pigou, người hiểu rất rõ việc đền bù thiệt là cần thiết lại lấy ví dụ này để minh chứng cho khả năng “hành động của Nhà nước để cải thiện xu hướng ‘tự nhiên’” như thế nào. Pigou dường như có quan điểm sai lầm về sự thật của tình huống này. Nhưng cũng có thể ông mắc sai lầm trong phân tích kinh tế của mình. Việc công ty đường sắt bị đòi hỏi phải bồi thường cho người chịu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi đầu máy xe lửa là không cần thiết. Tôi không muốn nêu ra đây trường hợp ngành đường sắt có thể thỏa thuận với tất cả mọi người có tài sản tiếp giáp với đường ray xe lửa và không có chi phí nào phải bỏ ra liên quan đến việc thực hiện những thỏa thuận này, đây không phải là vấn đề công ty xe lửa có phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại do hỏa hoạn gây ra hay không. Vấn đề này đã được xem xét khá kỹ ở các phần trên. Vấn đề ở đây là liệu ngành đường sắt có cần thiết phải chịu trách nhiệm trong điều kiện việc thực hiện những thỏa thuận như vậy rất tốn kém. Pigou rõ ràng đã nghĩ rằng phải bắt ngành đường sắt trả tiền đền bù và có thể dễ dàng nhận thấy lập luận nào đã dẫn ông đến việc đưa ra kết luận này. Giả sử ngành đường sắt sẽ xem xét liệu có nên chạy thêm một tàu nữa hay tăng vận tốc của chiếc tàu hiện đang chạy hay lắp các thiết bị chống tia lửa vào đầu máy hay không. Nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hỏa hoạn thì khi đưa ra những quyết định như vậy, họ sẽ không tính thiệt hại từ việc cho chạy thêm một tàu, tăng vận tốc tàu hiện có hay không lắp đặt thiết bị chống tia lửa vào chi phí gia tăng thiệt hại. Đây chính là nguồn gốc của sự khác biệt giữa sản phẩm ròng xã hội và tư nhân. Nó thể hiện ở việc ngành đường sắt hoạt động mà hoạt động đó làm giảm giá trị tổng sản phẩm và nó sẽ không hoạt động nếu nó phải chịu trách nhiệm về thiệt hại. Ta có thể thấy rõ điều này qua một ví dụ số học. Xem xét trường hợp ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm về thiệt hại hỏa hoạn do tia lửa từ đầu máy gây ra, ngành đường sắt cho chạy hai lượt tàu một ngày trên cùng một đường ray nhất định. Giả sử rằng việc cho chạy một chuyến tàu một ngày cho phép ngành đường sắt thực hiện dịch vụ trị giá 150 đô-la một năm và chạy hai chuyến tàu một ngày cho phép ngành đường sắt tạo ra dịch vụ trị giá 250 đô-la một năm. Giả sử thêm rằng chi phí vận hành một tàu là 50 đô-la một năm và hai tàu là 100 đô-la một năm. Giả sử có sự cạnh tranh hoàn hảo, và chi phí trong việc giảm giá trị sản phẩm ở nơi khác do việc sử dụng các yếu tố bổ xung của sản xuất đối với ngành đường sắt là như nhau. Rõ ràng rằng ngành đường sắt sẽ nhận thấy việc chay hai chuyến xe lửa một ngày là có lãi. Nhưng giả sử rằng chạy một lượt tàu một ngày khiến cho số cây trồng bị phá hủy do hỏa hoạn (tính trung bình hàng năm) là trị giá 60 đô là và chạy 2 lượt tàu một ngày khiến cho số cây trồng bị phá hủy là 120 đô-la. Trong trường hợp này, chạy một lượt tàu một ngày sẽ làm tăng tổng giá trị sản phẩm trong khi chạy hai lượt tàu một ngày sẽ làm giảm giá trị tổng sản phẩm. Để chạy chuyến tàu thứ hai ngành đường sắt phải tốn thêm 100 đô-la một Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 18 năm cho dịch vụ đường sắt gia tăng. Nhưng việc giảm giá trị trong sản xuất ở một nơi nào khác là 110 đô-la một năm, 50 đô-la là kết quả của việc sử dụng các yếu tố gia tăng của sản xuất, và 60 đô-la là số tiền đền bù cho cây trồng bị thiệt hại. Do đó ngành đường sắt sẽ có lợi hơn nếu không cho chạy lượt tàu thứ hai và lượt tàu thứ hai này sẽ không được chạy nếu như ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra cho mùa màng, kết luận là việc ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại là điều dường như không thể tránh khỏi. Rõ ràng rằng đây chính là lý do nằm sau quan điểm của Pigou. Kết luận sẽ có lợi hơn cho ngành đường sắt nếu họ không cho chạy lượt tàu thứ hai là đúng. Còn kết luận ngành đường sắt cần thiết phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà họ gây ra là sai. Bây giờ chúng ta thử thay đổi giả định có liên quan đến quy tắc về trách nhiệm pháp lý. Giả sử rằng ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do tia lửa từ đầu máy gây ra, và một người nông dân có đất trồng tiếp giáp với đường xe lửa là người phải chịu thiệt hại; nếu cây trồng của anh ta bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa thì anh ta sẽ nhận được đền bù từ ngành đường sắt theo giá thị trường, nếu cây trồng của anh ta không bị thiệt hại thì anh ta cũng thu được tiền từ việc bán sản phẩm của mình theo giá thị trường. Do đó anh ta không quan tâm đến việc liệu cây trồng của anh ta có bị thiệt hại không. Vấn đề sẽ rất khác nếu như ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại. Bất kỳ cây trồng nào bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa sẽ làm giảm thu nhập của người nông dân. Người nông dân do đó sẽ không canh tác trên mảnh đất mà cây trồng có nguy cơ bị thiệt hại lớn hơn lợi nhuận ròng từ mảnh đất (lý do đã được trình bày chi tiết ở phần III). Sự thay đổi từ chỗ ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại sang việc họ phải chịu trách nhiệm dẫn tới sự ra tăng trong số lượng canh tác trên mảnh đất tiếp giáp với đường sắt. Tất nhiên nó cũng làm tăng số lượng cây trồng bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi xe lửa. Bây giờ chúng ta hãy quay lại ví dụ số học. Giả sử rằng với sự thay đổi quy tắc về trách nhiệm pháp lý, số lượng cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa tăng gấp đôi. Với một chuyến tàu một ngày, số lượng cây trồng trị giá 120 đô-la sẽ bị phá hỏng mỗi năm và với hai chuyến tàu một ngày, số lượng cây trồng trị giá 240 đô-la sẽ bị phá hỏng mỗi năm. Như chúng ta đã thấy ở phần trước, ngành đường sắt sẽ không có lợi khi cho chạy chuyến tàu thứ hai nếu họ phải trả 60 đô-la một năm tiền đền bù thiệt hại. Với mức đền bù thiệt hại là 120 đô-la một năm, tiền lỗ từ việc chạy thêm chuyến tàu thứ hai sẽ cao hợn 60 đô-la. Bây giờ hãy xem xét chuyến tàu thứ nhất. Giá trị dịch vụ vận chuyển cung cấp cho chuyến tàu thứ nhất là 150 đô-la. Chi phí chạy tàu là 50 đô-la. Số tiền ngành đường sắt phải đền bù cho thiệt hại là 120 đô-la. Nếu tính như thế ngành đường sắt sẽ không thu được chút lợi từ việc chạy bất kỳ chuyến tàu nào. Từ những con số đưa ra trong ví dụ chúng ta có thể kết luận: Nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cháy, họ sẽ chạy hai chuyến tàu một ngày, còn nếu họ phải chịu trách nhiệm thì họ sẽ chấm dứt hoạt động. Có phải điều đó có nghĩa là việc không còn xe lửa nữa sẽ tốt hơn? Câu hỏi này có thể được trả lời bằng cách xem xét điều gì sẽ xảy ra với giá trị tổng sản lượng nếu quyết định miễn chịu trách nhiệm thiệt hại do hỏa hoạn đối với ngành đường sắt được đưa ra, nếu thế ngành đường sắt có thể hoạt động (hai chuyến một ngày). Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 19 Hoạt động của ngành đường sắt sẽ khiến dịch vụ vận chuyển trị giá 250 đô-la hoạt động. Điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng các nhân tố sản xuất sẽ làm giảm giá trị sản xuất ở đâu đó xuống còn 100 đô-la. Hơn nữa, nó cũng có nghĩa giá trị cây trồng bị phá hủy là 120 đô-la. Việc ngành đường sắt hoạt động trở lại cũng dẫn đến việc từ bỏ canh tác ở một số vùng đất. Vì như chúng ta đã biết, nếu những vùng đất đó được canh tác thì giá trị cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn sẽ là 120 đô-la vì không chắc chắn là toàn bộ số cây trồng trên mảnh đất đó sẽ bị phả hỏng, có vẻ hợp lý hơn nếu ta giả sử rằng giá trị sản lượng cây trồng trên mảnh đất sẽ cao hơn thể. Giả sử sẽ là 160 đô-la. Nhưng việc từ bỏ canh tác sẽ giải phóng các nhân tố sản xuất được sử dụng ở đâu đó. Tất cả chúng ta đều biết rằng số lượng giá trị sản xuất ở đâu đó sẽ tăng ít hơn 160 đô-la. Giả sử là 150 đô-la. Vậy thì lợi nhuận thu được từ hoạt động của ngành đường sắt sẽ là 250 đô-la (giá trị của dịch vụ vận chuyển) trừ đi 100 đô-la (chi phí cho các nhân tố sản xuất) trừ đi 120 đô-la (giá trị cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn) trừ đi 160 đô-la (việc sụt giảm trong giá trị sản xuất cây trồng do từ bỏ canh tác) cộng với 150 đô-la (giá trị sản xuất ở đâu đó của việc giải phóng các nhân tố sản xuất). Nói chung hoạt động của ngành đường sắt sẽ làm tăng giá trị tổng sản phẩm lên 20 đô-la. Căn cứ vào những con số trên, rõ ràng rằng sẽ là có lợi hơn nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại mà nó gây ra, và do đó giúp nó hoạt động có lãi. Tất nhiên, bằng việc thay đổi các con số, cũng có thể chỉ ra rằng còn có các trường hợp khác mà ngành đường sắt cần thiết phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà nó gây ra. Nhưng đối với tôi như thế là đủ để chỉ ra rằng, từ quan điểm kinh tế, một tình huống mà "không bồi thường thiệt hại gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy gây ra" không nhất thiết là cần thiết. Và việc liệu có cần thiết hay không phụ thuộc vào từng huống cụ thể. Có phải phân tích Pigovian đưa ra câu trả lời sai không? Lý do mà Pigou có thể đã không chú ý đến là phân tích của ông giải quyết một câu hỏi hoàn toàn khác. Phân tích để giải quyết câu hỏi đó là đúng. Nhưng đối với Pigou thì việc đưa ra kết luận cụ thể như vậy là không hợp lý. Câu hỏi đặt ra với vấn đề không phải là có cần thiết phải cho chạy thêm một chuyến tàu nữa, tăng vận tốc tàu hiện có hay cho lắp đặt thiết bị chống lửa hay không, mà câu hỏi đặt ra với vấn đề là liệu có cần thiết phải có một hệ thống mà ngành đường sắt phải đền bù cho những người chịu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa hay ngành đường sắt không phải đền bù thiệt hại. Khi một nhà kinh tế so sánh các phương án sắp xếp xã hội, trình tự thích hợp là so sánh tổng sản phẩm xã hội sinh ra bởi các sự sắp xếp khác nhau đó. So sánh sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội không ở đây cũng không ở kia. Một ví dụ đơn giản sẽ giúp minh họa cho điều này. Bạn hãy hình dung một thành phố với các cột đèn giao thông. Một người lái xe mô tô đi đến ngã tư đường và dừng lại vì gặp đèn đỏ. Phía phố bên kia không có một chiếc ô tô nào đi đến ngã tư. Nếu người lái xe mô tô phớt lờ tín hiệu đèn đỏ, không có tai nạn nào xảy ra cả và tổng sản phẩm xã hội sẽ tăng lên bởi vì người lái xe mô tô sẽ đến địa chỉ cần phải đến sớm hơn. Tại sao anh ta lại không làm như vậy? Lý do bởi vì nếu anh ta phớt lờ tín hiệu đèn đỏ thì anh ta sẽ bị phạt. Sản phẩm cá nhân từ việc băng qua đường là ít hơn sản phẩm xã hội. Liệu từ đó chúng ta có thể kết luận rằng tổng sản phẩm xã hội sẽ lớn hơn nếu không có hình phạt nào được đưa ra đối với những người không chấp hành tín hiệu giao thông? Phân tích Pigovian cho chúng ta thấy rằng có thể nhận thức một thế giới tốt hơn thế giới mà chúng ta đang sống. Nhưng vấn đề là phải đưa ra các sắp xếp Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 20 thực tế mà các sắp xếp này sẽ sửa chữa sai sót trong một phần của hệ thống mà không gây thêm ảnh hưởng xấu đến các phần khác. Tôi đã nghiên cứu chi tiết một ví dụ về sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội, và tôi không muốn nghiên cứu chi tiết thêm nữa hệ thống phân tích của Pigou. Nhưng phần thảo luận chính của vấn đề chi phí xã hội được xem xét trong bài viết này nằm ở Chương 9 phần II, phần này xem xét sự khác biệt loại thứ hai của Pigou và việc xem xem Pigou đã phát triển luận điểm của mình như thế nào là điều rất đáng được quan tâm. Sự mô tả của riêng Pigou về sự khác biệt của loại thứ hai này được trích dẫn ở ngay phía trên của phần này. Pigou phân biệt giữa trường hợp một người cung cấp dịch vụ mà anh ta chẳng nhận được đồng nào và một người gây ra ảnh hưởng xấu mà không phải trả tiền cho bên bị hại. Tất nhiên chúng ta cần phải tập trung vào trường hợp thứ hai. Do vậy, khá ngạc nhiên khi thấy rằng, Giáo sư Francesco Forte đã chỉ ra cho tôi, vấn đề của ống khói - "ví dụ về nhà kho" hay "ví dụ về lớp học" của trường hợp thứ hai - được Pigou sử dụng làm ví dụ cho trường hợp thứ nhất (dịch vụ được cung cấp miễn phí) và chúng không được đề cập, cho dù là chút ít, có liên quan đến trường hợp thứ hai. Pigou chỉ ra rằng chủ nhà máy dùng các nguồn lực để ngăn ngừa việc ống khói không xả khói đã tạo ta một dịch vụ mà chủ nhà máy chẳng nhận được đồng nào. Ẩn ý ở đây, sẽ được Pigou làm rõ sau ở trong Chương này, là chủ nhà máy có ống khói xả khói cần được nhận được tiền khuyến khích để thuyết phục ông ta lắp đặt thiết bị chống khói. Hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đều gợi ý rằng chủ nhà máy có ống khói xả khói phải bị đánh thuế. Thật đáng tiếc rằng các nhà kinh tế (trừ Giáo sư Forte) đều không nhận thấy rằng đặc điểm này đã được Pigou nghiên cứu vì ông nhận thức rõ rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng một trong hai cách đều có thể dẫn đến một sự thừa nhận rõ ràng về tính qua lại của nó. Khi thảo luận trường hợp thứ hai (gây ra ảnh hưởng xấu mà không phải trả tiền cho bên bị hại), Pigou nói rằng họ đã phải nhận dịch vụ "khi người chủ của một công trường nằm trong khu dân cư hay một thành phố xây dựng một nhà máy và do đó đã phá hỏng phần lớn sự dễ chịu của các khu vực xung quanh; hay, ở một mức độ thấp hơn, cách mà anh ta sử dụng công trường của mình đã che mất ánh sáng của nhà đối diện, hay việc anh ta đầu tư nguồn lực xây dựng tòa nhà ở một khu trung tâm đông đúc đã làm thu hẹp khoảng không và chỗ để vui chơi của những người lân cận, nó có xu hướng làm ảnh hưởng đến sức khỏe và hiệu quả của những gia đình sống ở đó." Tất nhiên Pigou đã đúng khi miêu tả những hành động đó là những hành động "không bị mất tiền khi gây ảnh hưởng xấu". Nhưng ông đã sai khi miêu tả những hành động đó là hành động "chống lại xã hội". Chúng có thể là hành động chống lại xã hội nhưng cũng có thể không. Việc cần thiết là phải xem xét nặng nhẹ kết quả của ảnh hưởng xấu đối với cái tốt. Chẳng có cái gì là "chống lại xã hội" hơn việc phản đối bất kỳ hành động nào gây hại đến bất cứ ai. Nghiên cứu của Pigou về các vấn đề được xem xét trong bài viết này quả thật là rất khó nắm bắt được ý nghĩa và việc thảo luận các quan điểm của ông tạo nên các khó khăn khó có thể vượt qua nhằm làm sáng tỏ nó. Kết quả là không ai có thể chắc chắn rằng mình đã hiểu điều mà Pigou muốn nói. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể không đưa ra kết luận, dù cho có thể là lạ đối với một nhà kinh tế tầm cỡ Pigou, rằng nguồn gốc của sự tối nghĩa trong quan điểm của Pigou là do ông không hiểu kỹ luận điểm của mình. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 21 IX. TRUYỀN THỐNG QUAN ĐIỂM CỦA PIGOU HỌC THUYẾT TRUYỀN MIỆNG CỦA PIGOU Thật lạ là học thuyết sai lầm được Pigou phát triển lại có ảnh hưởng đến như vậy, mặc dù một phần của thành công đó có lẽ là do sự thiếu rõ ràng trong cách trình bày của nó. Khi nó không rõ ràng thì cái sự không rõ ràng đó không bao giờ là sai cả. Lạ kỳ là, nguồn gốc của sự khó hiểu tối nghĩa lại không ngăn cản sự xuất hiện của các định nghĩa khá rõ ràng về học thuyết được truyền miệng. Cái gì khiến các nhà kinh tế nghĩ rằng họ học được từ Pigou và họ sẽ nói với sinh viên của mình cái gì, cái mà tôi gọi là truyền thống Pigou, đã khá rõ ràng. Tôi có ý định chỉ ra sự không đầy đủ của truyền thống Pigou bằng cách chứng minh rằng cả phân tích và kết luận về cách giải quyết mà học thuyết của Pigou ủng hộ đều không đúng. Tôi không có ý định chứng minh quan điểm của mình là đúng như đối với các ý kiến phổ biến trong nhiều tài liệu tham khảo cho bài viết này. Tôi làm việc này một phần vì cách giải quyết trong bài viết quá chắp vá rời rạc, ít có liên quan hơn so với tài liệu tham khảo của Pigou và một số dẫn giải, đến mức việc nghiên cứu chi tiết là không thích hợp. Nhưng lý do chính đối với việc thiếu tài liệu tham khảo là học thuyết, dù có dựa vào luận điểm của Pigou, là sản phẩm của sự truyền miệng. Chắc chắn là các nhà kinh tế mà tôi đã trao đổi những vấn đề này đều nhất trí với ý kiến là việc xem xét giải quyết thiếu xót phù hợp với chủ đề này trong bài viết là có ý nghĩa. Tất nhiên, cũng có một số nhà kinh tế không có cùng quan điểm như thế nhưng đó chỉ là thiểu số. Cách tiếp cận vấn đề đang được thảo luận là thông qua việc nghiên cứu giá trị của sản xuất vật chất. Sản phẩm tư nhân là giá trị của sản phẩm thêm vào, kết quả của một hoạt động kinh tế đặc biệt. Sản phẩm xã hội bằng sản phẩm tư nhân trừ đi sự sụt giảm trong giá trị sản xuất ở đâu đó mà ở đó doanh nghiệp không phải trả tiền đền bù cho thiệt hại mà nó gây ra. Do đó, nếu 10 đơn vị của một yếu tố (và không có các yếu tố khác) được doanh nghiệp sử dụng để tạo ra một sản phẩm nhất định có giá trị 105 đô-la, và chủ của nhân tố đó không nhận được tiền đền bù cho nhân tố bị sử dụng, mà anh ta không có khả năng ngăn cản không cho sử dụng; thì 10 đơn vị của nhân tố đó sẽ mang lại sản phẩm theo phương án sử dụng tốt nhất trị giá 100 đô-la; và sản phẩm xã hội là 105 đô-la trừ đi 100 hay 5 đô-la. Nếu bây giờ doanh nghiệp trả cho một đơn vị của yếu tố sản xuất và giá của nó bằng với giá trị sản phẩm cận biên của nó, thì sản phẩm xã hội sẽ tăng lên đến 15 đô-la. Nếu doanh nghiệp phải trả cho 2 đơn vị của yếu tố sản xuất thì sản phẩm xã hội sẽ tăng lên 25 đô-la, cứ như thế cho đến khi nó đạt tới 105 đô-la khi doanh nghiệp phải trả cho tất cả các đơn vị của yếu tố sản xuất. Có thể dễ dàng nhận thấy lý do tại sao các nhà kinh tế lại sẵn sàng chấp nhận điều đó hơn là thủ tục kỳ quặc (odd procedure). Phân tích tập trung vào quyết định của cá nhân các doanh nghiệp và vì không được phép sử dụng nguồn lực nhất định trong chi phí cho nên số doanh thu bị giảm bằng đúng số đó. Nhưng tất nhiên điều đó có nghĩa là giá trị sản phẩm xã hội không mang bất kỳ ý nghĩa xã hội nào. Tôi thích sử dụng khái niệm chi phí cơ hội và tiếp cận vấn đề này bằng cách so sánh giá trị sản phẩm được sinh ra bởi các yếu tố sản xuất trong việc sử dụng hay sắp xếp khác nhau. Lợi thế chính của một hệ thống giá cả là nó dẫn đến việc sử dụng các nhân tố tại những nơi giá trị sản phẩm sinh ra là lớn nhất và chi phí để tạo ra sản phẩm là nhỏ nhất so Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 22 với các hệ thống khác (Tôi không tính đến một hệ thống giá cũng xem xét vấn đề phân phối lại thu nhập). Nhưng nếu các nhân tố tự nhiên thuận lợi đổ về các nơi, ở đó giá trị sẩn phẩm sinh ra là lớn nhất mà không cần đến việc sử dụng hệ thống giá và kết quả là không có bất cứ sự bồi thường nào thì tôi sẽ coi đó là một sự đáng ngạc nhiên hơn là lý do để mất tinh thần. Việc xác định sản phẩm xã hội là việc làm lạ lùng nhưng nó không có nghĩa rằng các kết luận về chính sách rút ra từ phân tích này nhất định sai. Tuy nhiên, đều có giới hạn nguy hiểm trong một cách tiếp cận mà nó làm trệch hướng sự chú ý của ta ra khỏi các vấn đề cơ bản và cũng có thể có chút ít nghi ngờ về trách nhiệm đối với một số sai lầm trong học thuyết hiện hành. Niềm tin rằng các doanh nghiệp gây ảnh hưởng có hại phải bị bắt bồi thường cho những người bị thiệt hại là điều cần thiết (vấn đề này đã được thảo luận rất kỹ trong phần VIII cùng với ví dụ về tia lửa do xe hỏa gây ra của Pigou) không còn nghi ngờ gì nữa chính là kết quả của việc không so sánh tổng sản phẩm có thể đạt được với các phương án sắp xếp xã hội. Sai lầm tương tự cũng được tìm thấy trong đề xuất giải quyết vấn đề về ảnh hưởng bất lợi bằng cách sử dụng thuế hoặc tiền thưởng. Pigou đã khá nhấn mạnh vào cách giải quyết này mặc dù, như thường lệ, ông không có đủ chi tiết và khả năng để chứng minh cho sự ủng hộ của mình. Các nhà kinh tế học hiện đại có xu hướng nghĩ theo cách duy nhất về mặt thuế và theo cách rất chính xác. Thuế nên được đánh bằng với thiệt hại mà doanh nghiệp gây ra và do đó nó nên thay đổi tùy theo số lượng của ảnh hưởng bất lợi. Vì nó không đưa ra đề xuất về quá trình chi trả thuế cho những người chịu ảnh hưởng, nên giải pháp này không giống với giải pháp bắt doanh nghiệp trả tiền bồi thường cho những thiệt hại mà nó gây ra, tuy nhiên các nhà kinh tế nói chung không chú ý đến điều này và có xu hướng xem xét hai giải pháp này như nhau. Giả sử rằng một nhà máy thải khói được thành lập trong một quận trước đây không có ô nhiễm do khói, và nó gây thiệt hại trị giá 100 đô-la một năm. Giả sử rằng ở đây áp dụng biện pháp đánh thuế và chủ của nhà máy phải nộp 100 đô-la thuế một năm chừng nào mà nhà máy còn thải khỏi. Giả sử thêm rằng một thiết bị chống khói trị giá 90 đô-la một năm sẵn có trên thị trường. Trong trường hợp này việc lắp đặt thiết bị chống khói là việc nên làm. Thiệt hại trị giá 100 đô-la sẽ được tránh với chi phí là 90 đô-la và do đó người chủ nhà máy được lợi 10 đô-la một năm. Nhưng luận điểm nêu trên chưa chắc đã được anh ta chọn lựa. Giả sử rằng những người chịu thiệt hai do khói có thể tránh nó bằng cách di dời đến nơi khác hoặc bằng các biện pháp phòng ngừa khác mà các biện pháp này có thể tốn của họ một số tiền tương đương với sự mất đi trong thu nhập là 40 đô-la mỗi năm. Nếu như thế thì ta sẽ thu được giá trị sản xuất trị giá 50 đô-la nếu nhà máy tiếp tục thải khói và những người sống trong quận đó chuyển đến nơi khác hoặc có các biện pháp điều chỉnh thích hợp để tránh tác hại của khói. Nếu chủ nhà máy thực hiện nộp thuế tương ứng với những thiệt hại họ gây ra, thì rõ ràng cần phải lập một hệ thống thuế kép và những người dân sống trong quận đó phải chi trả số tiền bằng với chi phí phát sinh mà chủ nhà máy phải gánh chịu (hay người tiêu dùng sản phẩm) nhằm tránh thiệt hại. Trong những điều kiện như vậy, người dân sẽ không sống ở khu vực đó nữa hoặc họ cũng sẽ không áp dụng bất cứ một biện pháp nào nhằm phòng tránh thiệt hại khi chi phí của việc này thấp hơn chi phí mà người sản xuất phải chịu nhằm là giảm nhẹ thiệt hại (tất Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 23 nhiên mục tiêu của người sản xuất là không phải chi trả quá nhiều để làm giảm thiệt hại như giảm số thuế phải nộp). Một hệ thống thuế bị hạn chế trong phạm vi thuế đánh vào người sản xuất cho những thiệt hại họ gây ra sẽ có xu hướng dẫn tới việc phải gánh chịu chi phí cao không chính đáng nhằm ngăn ngừa thiệt hại. Tất nhiên điều này có thể tránh được nếu ta có thể chỉ dựa trên thuế, không dựa vào thiệt hại gây ra mà dựa vào sự sụt giảm trong giá trị sản xuất (theo nghĩa đúng đắn nhất của nó) do khói thải.. Nhưng để làm được như vậy đòi hỏi một hiểu biết chi tiết về sở thích của từng cá nhân và tôi không thể hình dung nổi các dữ liệu cần thiết cho một hệ thống thuế như thế sẽ được thu thập như thế nào. Thật vậy, đề xuất cách giải quyết vấn đề ô nhiễm do khói và các vấn đề tương tự như vậy bằng cách sử dụng thuế làm xuất hiện đầy rẫy những khó khăn như: vấn đề tính toán, sự khác nhau giữa thiệt hại trung bình và thiệt hại biên, mối tương quan giữa thiệt hại phải chịu với sở hữu khác nhau... Nhưng việc nghiên cứu các vấn đề đó ở đây là không cần thiết. Như thế là đủ cho mục đích chỉ ra việc đánh thuế sẽ không nhất thiết mang lại các điều kiện tối ưu của tôi, thậm chí dù cho thuế có được điều chỉnh chính xác đúng bằng với mức thiệt hại mà mỗi một luồng khói thêm gây ra cho tài sản của những người sống ở vùng lân cận. Việc gia tăng số người dân hay gia tăng số sơ sở hoạt động kinh doanh ở vùng lân cận với nhà máy thải khói sẽ làm tăng số lượng thiệt hại do một số lượng khói nhất định thải ra. Do đó số thuế đánh vào nhà máy sẽ tăng cùng với sự gia tăng số lượng người ở khu vực xung quanh. Điều này sẽ làm giảm giá trị sản xuất của các yếu tố được nhà máy sử dụng, hoặc là vì sự sụt giảm trong sản xuất do thuế do các yếu tố được sử dụng ở đâu đó theo cách ít giá trị hơn, hoặc là vì các yếu tố được chuyển sang để sản xuất các phương tiện nhằm làm giảm số lượng khói thải ra. Nhưng những người dân quyết định sống ở khu vực xung quanh nhà máy không tính đến việc sụt giảm trong giá trị sản xuất do sự có mặt của họ. Việc không tính đến chi phí đánh vào người khác này có thể so sánh với hành động không xem xét đến việc khói thải ra sẽ gây tác động có hại của người chủ nhà máy. Nếu không có thuế, có thể sẽ có rất nhiều khói được thải ra và có ít người sống ở khu vực xung quanh nhà máy, nếu có thuế thì có thể số lượng khói thải ra sẽ ít hơn và nhiều người sẽ sống ở khu vực xung quanh nhà máy. Không có bất kỳ lý do nào để giả định rằng một trong những kết quả trên nhất thiết là thích hợp. Tôi thấy không cần thiết phải dành nhiều giấy vở để thảo luận về các lỗi tương tự có liên quan đến đề xuất rằng nhà máy thải khói cần, sử dụng các quy định vùng, di chuyển ra khỏi vùng mà khói nhà máy gây ảnh hưởng có hại. Khi thay đổi địa điểm thì kết quả là sẽ có sự sụt giảm trong sản xuất, rõ ràng cần phải xem xét và tính toán nặng nhẹ cái hại khi nhà máy không di chuyển vẫn ở trong vùng đó. Mục đích của quy định như vậy không phải để loại bỏ ô nhiễm do khói thải mà là bảo đảm lượng thích hợp nhất ô nhiễm do khói, đó chính là số lượng sẽ làm tối đa hóa giá trị sản xuất. X. THAY ĐỔI CÁCH TIẾP CẬN Tôi tin tưởng rằng việc các nhà kinh tế không đi đến được các kết luận đúng về cách thức giải quyết những ảnh hưởng bất lợi không phải đơn giản gán cho một vài sơ suất khi phân tích mà điều này bắt nguồn từ những sai lầm cơ bản trong cách tiếp cận hiện tại đối với vấn đề kinh tế học phúc lợi. Điều cần thiết ở đây là phải thay đổi cách tiếp cận. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 24 Phân tích trên phương diện sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội tập trung sự chú ý vào các thiếu sót trong hệ thống và hướng tới việc nuôi dưỡng niềm tin vào bất kỳ biện pháp nào có thể loại bỏ những thiếu sót đó. Nó làm trệch hướng sự chú ý ra khỏi các sự thay đổi khác trong hệ thống mà rõ ràng là các thay đổi này có liên quan đến các biện pháp đúng đắn. Trong các phần trước của bài viết này, chúng ta đã thấy nhiều ví dụ về việc này. Nhưng không nhất thiết phải tiếp cận vấn đề theo cách này. Các nhà kinh tế nghiên cứu các vấn đề của công ty thường có thói quen sử dụng cách tiếp cận chi phí cơ hội và so sánh số thu nhận được từ việc kết hợp các yếu tố nhất định với các sắp xếp kinh doanh khác. Việc sử dụng cách tiếp cận tương tự khi giải quyết các câu hỏi về chính sách kinh tế và so sánh tổng sản phẩm sinh ra bởi các phương án sắp xếp xã hội là cần thiết. Trong bài viết này, phân tích được hạn chế, thông thường trong phần này của kinh tế học, trong so sánh giá trị sản xuất, được thị trường lượng hóa. Tất nhiên, sự lựa chọn giữa các cách sắp xếp xã hội khác nhau đối với giải pháp cho các vấn đề kinh tế cần phải được thực hiện trên khía cạnh rộng hơn thế này và toàn bộ ảnh hưởng của sự sắp xếp này lên tất cả các khía cạnh của cuộc sống cũng cần được xem xét. Như Frank H. Knight thường nhấn mạnh, các vấn đề về kinh tế học phúc lợi cuối cùng phải được hòa tan trong nghiên cứu về mỹ học và đạo đức. Đặc điểm thứ hai của cách giải quyết thông thường về vấn đề được thảo luận trong bài viết này là quá trình phân tích trong phạm vi so sánh giữa trạng thái tự do kinh doanh và cái gọi là thế giới lý tưởng. Tiếp cận này rõ ràng dẫn đến sự lỏng lẻo trong suy nghĩ vì bản chất của các phương án được so sánh không bao giờ rõ ràng cả. Trong trạng thái tự do kinh doanh, có một hệ thống tiền tệ, luật pháp hay chính trị hay không ,và nếu có thì chúng là gì? Trong một thế giới lý tưởng, liệu có một hệ thống tiền tệ, luật pháp, chính trị hay không? Và nếu có thì chúng sẽ là gì? Câu trả lời cho tất cả những câu hỏi trên bị che phủ trong bí mật và mọi người có thể tự do rút ra bất cứ kết luận nào mà mình muốn. Thực sự có rất ít phân tích được yêu cầu chỉ ra một thế giới lý tưởng sẽ tốt hơn trạng thái tự do kinh doanh, trừ khi sự xác định trạng thái tự do kinh doanh và thế giới lý tưởng xảy ra đồng thời. Nhưng toàn bộ thảo luận này hoàn toàn không liên quan đến các câu hỏi về chính sách kinh tế bởi rõ ràng là những gì chúng ta nghĩ về thế giới lý tưởng thì chúng ta đều chưa phát hiện ra bằng cách nào để có được thế giới lý tưởng đó xuất phát từ nơi chúng ta đang sống. Một cách tiếp cận tốt hơn dường như bắt đầu phân tích của chúng ta bằng một tình huống gần giống với những gì thực sự tồn tại, để xem xét ảnh hưởng của một thay đổi chính sách được đề xuất và cố gắng quyết định tình huống mới sẽ xảy ra như thế nào, về tổng thể, thì nó sẽ tốt hơn hay tồi hơn tình huống ban đầu. Tiếp cận theo hướng này thì các kết luận về chính sách sẽ có một số liên quan với tình huống thực tế. Lý do cuối cùng đối với việc không phát triển được một học thuyết đầy đủ nhằm giải quyết các vấn đề về ảnh hưởng bất lợi bắt nguồn từ khái niệm sai lầm về một yếu tố sản xuất. Yếu tố sản xuất đó thường được coi là là một thực thể vật chất mà nhà doanh nghiệp có được và sử dụng (một mẫu đất, một tấn phân bón) thay vì coi nó là quyền thực hiện hành động (vật chất) nhất định nào đó. Chúng ta có thể gọi đó là người sở hữu đất và sử dụng nó như một yếu tố sản xuất nhưng cái mà người chủ đất thực sự sở hữu là quyền thực hiện danh sách giới hạn các hoạt động. Quyền của chủ đất không có giới hạn. Điều này thậm chí không phải lúc nào anh ta cũng có thể di dời mảnh đất của mình đến chỗ Vấn Đề Chi Phí Xã Hội www.kinhtehoc.com 25 khác, lấy ví dụ bằng cách khai thác nó. Và mặc dù anh ta có thể đuổi một số người sử dụng đất “của anh ta”, nhưng nó có thể không đúng với người khác. Lấy ví dụ, một số người có thể có quyền đi qua mảnh đất của anh ta. Hơn nữa, có thể hoặc không thể xây dựng một số tòa nhà nhất định hoặc trồng một số loại cây trồng nhất định hay sử dụng các hệ thống thoát nước nhất định trên mảnh đất đó. Điều này không đơn giản do các quy định của Chính phủ. Tương tự theo thông luật thì điều này là đúng. Trên thực tế, điều này đúng với bất kỳ hệ thống luật pháp nào. Một hệ thống mà ở đó quyền của các cá nhân là không giới hạn sẽ là nơi không có quyền nào. Nếu các yếu tố sản xuất được xem như quyền lợi thì việc hiểu quyền được làm một số việc gây ảnh hưởng bất lợi (như gây ra khói, tiếng ồn, mùi khó chịu...) cũng là một nhân tố sản xuất trở nên dễ dàng hơn. Khi chúng ta có thể sử dụng một mảnh đất theo cách mà ta có thể ngăn cản không cho người khác đi qua, đỗ xe, đỗ xe, hay xây dựng nhà của người khác ở trên đó là chúng ta có thể sử dụng nó theo cách không cho phép người khác được xem xét, làm ồn hay gây ô nhiễm không khí. Chi phí cho việc thực hiện quyền (sử dụng một nhân tố sản xuất) luôn luôn là số tiền bị mất đi mà số tiền này nơi khác phải gánh chịu để thực hiện quyền đó – không có khả năng đi qua mảnh đất, đỗ xe, xây nhà, ngắm cảnh, có không gian thanh bình và yên ả hay hít thở không khí trong lành. Điều này rõ ràng đáng được mong đợi nếu các hoạt động được thực hiện là những hành động mà khi thực hiện cái mà ta thu được lớn hơn cái bị mất đi. Nhưng trong khi lựa chọn giữa các sắp xếp xã hội trong bối cảnh cá nhân đưa ra quyết định chúng ta cần ghi nhớ rằng một sự thay đổi trong hệ thống hiện có có thể làm cải thiện một số quyết định nhưng cũng có thể làm tồi tệ đi những cái khác. Hơn nữa chúng ta cũng cần phải xem xét các chi phí liên quan đến việc thực thi các sắp xếp xã hội khác nhau (liệu nên để thị trường làm việc đó hay để cơ quan chính phủ làm) cũng như chi phí liên quan đến việc thực hiện một hệ thống mới. Khi lập ra và lựa chọn giữa các sắp xếp xã hội chúng ta cần phải quan tâm đến ảnh hưởng về mặt tổng thể. Và trên hết là việc cần thay đổi cách tiếp cận mà tôi đang ủng hộ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfVấn đề chi phí xã hội.pdf