Tỷ giá hối đoái

Thực ra giữa hai ý kiến trên không có mâu thuẫn gì lớn, theo chúng tôi, mặc dù trong giai đoạn vừa qua chúng ta chưa có quan hệngoại thương trực tiếp với M ỹ , song trên 90% các hợp đồng thương mại của ta được tính toán bằng USD, hơn nữa do vai trò của USD trong đời sống kinh tếnước ta và mục tiêu của chiến lược ổn định hoá xét trên phương diện lý thuyết, thực tiễn thì việc gắn VND với USD trong giai đo ạn vừa qua là phù hợp, hiệu quả, là giải pháp khôn ngoan. Tuy nhiên bước vào giai đoạn phát triển mới, đa phương hoá cao độthì phương án chuyển sang định giá theo giỏngoại tệmạnh, dựa trên cơsởmô hình lượng vềngoại thương nhiều chiều sẽcó lợi thếhơn cho kinh tế đối ngoaị: song dù sao chăng nữa trong giỏngoại tệtỷ trọng của USD vẫn là lớn nhất. Nhìn tổng thể, việc gắn với giỏngoại tệsẽgiảm được sựrủi ro, b ấp bênh do biến động của tỷ giá song phương gây ra, thích hựop với hiện thực là tính không thuần nhất trong thương mại quốc tế, trước hết là sựđàn hồi (co giãn) giá cảkhác nhau đối v ới cung và cầu theo các nhóm hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, khi chuyển sang gắn với giỏngoại tệthìvấn đềquan trọng là gắn với đồng tiền nào? với trọng sốlà bao nhiêu?. Bên cạnh đó cần thấy hết tính phức tạp,

pdf30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2102 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tỷ giá hối đoái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự do, mà can thiệp vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định. Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và duy trì ổn định. * Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái. Vấn đề tiêu chuẩn tối ưu về nguyên tắc cần phải được cụ thể hoá. Trong thực tế các phân tích hiện đại đã tập trung vào tiêu chuẩn tương đối hẹp của ổn định kinh tế vĩ mô, được định nghĩa là cực tiểu sai phương của tổng sản phẩm thực, mặt bằng giá hoặc tiêu dùng thực trước cơn sốt ngẫu nhiên có tính chất tạm thời. Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói chung tỷ giá hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hoàn toàn linh hoạt đều không phải là tối ưu đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Thật vậy một mức độ tương đối của sự linh hoạt lại có nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế khi cần phản ứng lại các cơn sốc ngẫu nhiên. Các tỷ giá hối đoái " có quản lý " hoặc " cố định linh hoạt" trở thành chế độ tỷ giá phổ biến nhất ở các nước đang phát triển, loại cơn sốc mà nền kinh tế thường phải đối phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định hay điều chỉnh. Các nghiên cứu trước đây đã nhận dạng một số tiêu chuẩn quản lý để phản ứng lại các cơn sốc trong nước. Các cơn sốc nội địa đòi hỏi áp dụng. Tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt phụ thuộc vào cơn sốc là tiền tệ hay thực tế khi cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xưa nay là duy trì tỷ giá cố định sẽ co hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩm. Vì cung tiền tệ là biến nội sinh dưới chế độ tỷ giá hối đoái, các đột biến trong thị trường tiền tệ nội địa đơn giản sẽ được hấp thụ bởi thay đổi của dự trữ ngoại tệ mà không ảnh hưởng đến các điều kiện cung cầu của thị trường hàng hoá, là nơi quy định mức độ biến động kinh tế. Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì tỷ giá hối đoái cần phải được điều chỉnh ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo nên (hoặc giảm) cầu bên ngoài. Nói chung, theo mục tiêu của chính sách nhằm vào ổn định tổng sản phẩm trước các cơn sốc tạm thời thì tỷ giá hối đoái cần phải được điều chỉnh khi cơn sốc xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị trường. Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể. Các khó khăn đó không những lên quan đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp còn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra. Các nghiên cứu về các lợi thế của tỷ giá hối đoái cố định và linh hoạt hầu như là dành cho trường hợp một 16 nền kinh tế nhỏ không trải qua lạm phát cao và nói chung ở trạng thái cân bằng ngoại và chịu tác động của các cơn sốc tạm thời. Cân bằng tập trung vào ổn định tổng sản phẩm, thay cho cân bằng cán cân thanh toán quốc tế làm chức năng hấp thụ các cơn sốc, để triệt tiêu tác động của các thay đổi đột biến lên trên tổng sản phẩm. Tuy vậy, mâu thuẫn của chính sách có thể xảy ra khi cán cân thanh toán quốc tế cũng được coi là mục tiêu chính sách. Mâu thuẫn này đặc biệt rõ nét ở các nước đang phát triển, là những nước thường thiếu dự trữ ngoại tệ. Nếu vị trí cán cân thanh toán quốc tế tạo nên sự hạn chế thì tỷ giá hối đoái cần phải được dùng như là công cụ để tạo mục tiêu cán cân thanh toán quốc tế thay đổi cho ổn định tổng sản phẩm. Mặt khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì tỷ giá hối đoái có thể là chức năng hỗ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả. V- Sự can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái: Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy định trong hoạt động can thiệp đó cần phải chú ý một số vấn đề sau: + Ngân hàng nhà nước luôn phải xác định mình là một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. + Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng, ngân hàng nhà nước cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịc tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. + Ngân hàng nhà nước phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành viên trên thị trường. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng thương mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện voí các ngân hàng thương mại và ngân hàng nhà nước. + Ngân hàng nhà nước và cac bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trường chính thức bằng cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do của thị trường. + Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi...bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà nước, cơ quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào đó nói chung khi mới được đưa 17 vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện. + Việc can thiệp của ngân hàng nhà nước và nhằm vào điều phối các quan hệ cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. + Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và quan trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn chế về thanh toán qua nhiều : trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ của chinhs các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. + Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực té bình quân của thị trường ngoại tệ lieen ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đói lớn, vĩ mô của nền kinh tế. + Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống nhau, điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một quốc gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là một vài phương pháp phổ biến: 1- Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị rường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức "báo động" cần phải can thiệp thì ngân hàng trungương nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ giá hối đoái không có cơ hội để tăng nữa. Vào năm 1971 đến năm 1973 USD rơi vào khủng hoảng. Tổng thống Mỹ Nich-xơn đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD banừg cách tăng lãi suất chiết khấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả. 2- Các nghiệp vụ thị trường hối đoái: Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Đây là hoạt động mang tính chủ quan, do vậy việ lựa chọn các thời điểm cần mua bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh có ý nghĩa quyết định. Để nắm được một cách đầy đủ tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị 18 trường, nagỳ nay nhiều nước trên thế giới đã và đang tổ chức các thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một trong những điều kiện không thể thiếu được cho bất kỳ quốc gia nào là cần phải thường xuyên có một lượng dự trữ ngoại tệ dư sức để can thiệp vào thi trường khi cần thiết. 3- Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí xảy ra những biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ thường là: + Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia. + Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Theo phương pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán. 4- Vốn để phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc hỉam thấp sức mua của đồng tiền đối với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Trên thế giới, việc phá giá đồng tiền thường được sử dụng ở những nước có tiềm lực kinh tế dồi dào, nhưng phải đối đầu với suy thoái kinh tế đi đôi với lạm phát trầm trọng. Trên đây là một số công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động vào tỷ giá hối đoái nhằm mục đích cao nhất: duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã dự kiến. CHƯƠNG II: Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt nam I- Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá VIệt nam Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt nam được tính theo đồng Rúp clearing(sau này đổi là rúp chuyển khoản- transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao cho tài khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được quy định trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc trưng của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta là nghuyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài. Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá bỏ cơ chế độc quyềnngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng có 19 những thay đổi căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời với thị rường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn: 1- Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993 Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái VND/USD thể hiện qua bảng 1 dưới đây: Bảng 1: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993 Tỷ giá USD/VND Năm Giá chính thức nhà nước Gía thị trường tự do Tăng giảm % Lạm phát 1989 4.200 4.570 +8,80 +34,70 1990 6.650 7.550 +13,50 +67,50 1991 12.720 12.550 - 0,02 +68,00 1992 10.720 10.550 - 0,02 +17,50 1993 10.835 10.736 - 0,01 +5,20 Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã: + Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá. + Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế. + Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn. + Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. 20 Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD. Nội dung chính của những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là: + Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vịkinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định băngf biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận. + Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng với sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá mức giá Đôla Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm. 2- Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996: Bảng 2: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996 Năm Tỷ giá USD/VND So sánh % năm trước Tốc độ lạm phát 1993 10.835,00 100,00% 5,2% 1994 11.050,00 +1,98% 14,4% 1995 11.040,00 0% 12,7% 1996 11.060,00 +0,18% 4,5% (số liệu lấy từ tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997) Do tỷ giá chính thức của nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh lệch nhiêù nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của nhà nước làm cơ sở tính toán. qua bảng số liệu (bảng2), chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc đọ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố đối ngoại. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 - 1996_ đã không khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây: Bảng 3: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm (đơn vị tính: triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu So sánh 1 2 3 4 =3 - 2 1993 2.985 3.924 - 939 1994 4.054 5.825 - 1.771 1995 5.448,9 8.155,4 - 2.706,5 1996 7.255 11.143 - 3.888 21 (số liệu lấy từ nguồn thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố HCM qua các năm 1996-1997-1998) Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia. Trở lại bảng 2, ta thấy qua 4 năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán thương mại quốc tế của nước ta trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 . Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997 cho đén nay nhà nước đã có những chỉ đạo: + Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dai hạn ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc. + Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. 3- Quá trình đi tới một chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường (1992 - 1997) Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của ngân hàng nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vàonhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so với cùng kỳ mội năm, giá Dola giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hàng phải mua Dola vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD). Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, xét trên khía cạnh phạm vi cũng như cơ cấu tổ chức, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ 22 không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng tham gia vào giao dịch tăng nhanh. Phạm vi và cường độ giao dịch cũng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước tình hình mới Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên Ngân hàng có qui mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn. Đồng thời qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể bắt nắm được nhu cầu tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng thời kỳ, điều tiết kịp thời tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước đã thông qua thị trường liên Ngân hàng để nắm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hàng ngày và biên độ qui định tỷ giá giao dịch cho các Ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hoà hướng tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực lực của Ngân hàng Nhà nước về ngoại tệ cũng đã tăng lên, tỷ giá đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng tiền Việt Nam và quan hệ cung - cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đủ điều kiện cho phép Ngân hàng Nhà nước dần dần nới hơn đối với cơ chế điều hành tỷ giá. Thực tế tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát với thực tế và biên độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã được mở rộng liên tục ( tử # 0,5% , +_ 0,1% đến #5% so với tỷ giá chính thức ) * Tóm lại từ năm 1989, tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp đã bị xoá bỏ và chuyển sang trạng thái nổi cho đến cuối năm 1991. Từ năm 1992 đến nay, tỷ giá hối đoái được hình thành theo phương pháp ổn định có điều chỉnh, nhìn chung, tỷ giá hối đoái đã có những bước tiến lớn so với trước: chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái qui định và tỷ giá hối đoái thị trường ngày càng nhỏ ( điều đó chứng tỏ khả năng chi phối của Ngân hàng trung ương đối với tỷ giá hối đoái ), mức tỷ giá hối đoái đã phản ánh giá trị ngoại tệ và quan hệ cung cầu. Qua quá trình điều hành tỷ giá hối đoái và thực tế nền kinh tế nước ta, chúng ta có thể khẳng định tính hợp lý tương đối khách quan của chính sách tỷ giá và cơ chế điều hành trong thời gian qua là phù hợp với quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, phù hợp với thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, với xu hướng ngày càng phát triển của nền kinh tế theo hướng thị trường cần xem xét kỹ lợi và hạn chế trong cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay để đưa ra giải pháp tối ưu trong thời gian tới. 4. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay. Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường lúc ngưng trệ. Doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 2,5 tỷ USD, giảm 5% so với 6 tháng đầu năm 1997, doanh số bán đạt 2,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi xuất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung cầu VNĐ trên thị trường. Nhà nước ta đã mở rộng liên độ giao dịch của các Ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái VNĐ 23 Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USĐ so với 1,4 tỷ USĐ vào tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu á đã ảnh hưởng gây sức ép VNĐ do yếu tố đầu cơ của thị tường, đã đẩy tỷ giá ở thị trường tự do tăng mạnh có lúc lên đến 14600 VNĐ/USĐ Nhìn lại chặng đường đã qua có thể nói rằng năm 1997 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, một năm với những khó khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực Mặc dù có những tổn thất mất mát nhưng hoạt động Ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo. Những kết quả nổi bật này được thể hiện qua một số nội dung. Góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp.,Nhưng vẫn đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức nhất định. - Ngân hàng nhà nước đã chủ động tham mưu cho chính phủ trong việc điều hành lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nền kinh tế. Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao xu giảm 42% dầu thô giảm 30% giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh, riêng mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai, lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và nhanh chóng duyd trì việc xuất khẩu gạo -Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do Ngân hàng điều chỉnh tỷ giá bị đông cứng, đúng là tỷ giá có tác động lớn đến xuất nhập khẩu bởi nó là giá cả của hoạt động mua ( nhập khẩu ) và hoạt động bán 9 xuất khẩu ). Tỷ giá đứng ( trên thực tế là giảm so với biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà mua cũng rẻ. Bán rẻ sẽ không khuyến khích bán, mua rẻ sẽ khuyến khích mua. Mua thì được khuyến khích, bán thì bị hạn chế, do đó đưa đến tình trạng nhập siêu. Ngoài ra còn nguyên nhân khác nữa là định hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế chưa được quản lý chặt. Bước qua năm 1998, những tháng trước và sau Tết, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng trở nên phức tạp, giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có ngày thay đổi giá vài lần điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua thiết bị hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giám vay vì sợ tỷ giá ngoại tệ tăng đột biến sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, Ngân hàng không mua không bán và cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó, chính phủ đã có một quyết định đúng nhằm kiểm soát ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam bằng việc ban hành quyết định 37/1998/ QĐ- TTg ( ngày 14/2/1998 ) " về một số biện pháp quản lý ngoại tệ " Đây là một bước thành công lớn của nhà nước ta trong vấn đề quản lý và kiểm soát ngoại tệ, nhanh chóng làm giảm cơn sốt tỷ giá ngoại tệ. Giá USD ở thị trường tự do hơn một tháng nay đã giảm đến mức thấp, bình quân là 13.020 VNĐ/USD. Tỷ giá thị trường tự do, thị trường có tổ chức ( thị trường liên ngân hàng , ngân hàng ) đã sát lại gần nhau. Hiện nay ngân hàng đã kiểm soát được trên 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường, đã thu hút từ nhiều nguồn một lượng ngoại tệ tăng thêm. 24 II. Lợi thế và hạn chế trong cơ chế điều hành 1. Lợi thế Cơ chế điều hành tỷ giá trên qui định tỷ giá chính thức tạo điều kiện cho Ngân hàng trung ương dễ dàng kiểm soát, điều tiết được thị trường hối đoái. Trước hết là thị trường ngoại tệ trên Ngân hàng. Biên độ giao đồng quanh tỷ giá chính thức là một công cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua giới hạn này mà chúng ta đã đạt sự ổn định tương đối của tỷ giá hối đoái trong những năm qua, góp phần không nhỏ để đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế - Thông qua tỷ giá của các Ngân hàng thương mại trong biên độ qui định. Ngân hàng Nhà nước có thể dễ dàng nắm bắt được diễn biến cung - cầu ngoại tệ thực tế của nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. Qui định chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán cho các Ngân hàng Thương mại, ở một mức độ nào đó, hạn chế khả năng đầu cơ tỷ giá của các Ngân hàng tránh trường hợp tỷ giá mua và tỷ giá bán quá chênh lệch. - Cơ chế tỷ giá thống nhất đã tạo ra một môi trường pháp lý vững chắc cho các hoạt động kinh tế - thương mại trong tổng hoá các mối quan hệ của nền kinh tế. Đồng thời tỷ giá chính thức tạo ra được một cơ sở pháp lý, mang tính chủ quyền cho đồng tiền Việt Nam trong các quan hệ đối ngoại. 2. Hạn chế - Cơ chế công bố tỷ giá chính thức hàng ngày theo phương pháp hiện tại, đôi lúc tỏ ra có nhiều khó khăn trong việc hướng thị trường, vận động theo mục tiêu Ngân hàng Trung ương đặt ra. Bởi " Nhất cử nhất động " của Ngân hàng trung ương, đặc biệt trong lĩnh vực tỷ giá - một lĩnh vực cực kỳ nhạy bén, đều tạo cho thị trường những yếu tố tâm lý tức thời. Trước những biến động của tỷ giá thị trường, việc thay đổi tỷ giá chính thức ở một chừng mực nào đó không thể giải quyết ngay lập tức biên độ để cho phép các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về chính sách của Ngân hàng Trung ương. Bên cạnh đó, Ngân hàng trung ương cũng không thể thay đổi biên độ quy định giới hạn tỷ giá mua bán của các Ngân hàng Trung ương thường xuyên được. - Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay. Khi mức chênh lệch tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Trung ương, và tỷ giá thị trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý, không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định, thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa mức tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò quản lý của nó. - Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay, khi mức chênh lệch tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt, sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò của nó. 25 - Việc sử dụng tỷ giá chính thức như hiện nay để tính thuế xuất nhập khẩu tỏ ra còn có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai trò quản lý vĩ mô và điều tiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ khi tỷ giá chính thức cách biệt với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ gía thị trường tự do, thì tỷ giá tính thuế sẽ bị hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Chênh lệch về tỷ giá này sẽ tạo ra bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế trong cạnh tranh đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu. - Với biên độ giao dịch trong phạm vi 5% hiện nay việc qui định mức chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán tỏ ra chưa hoàn toàn hợp lý đối với các Ngân hàng Thương mại. Thứ nhất, khi thị trường hối đoái có tính chất động, luôn thay đổi, trong khi đó các giao dịch lại liên tục diễn ra, nên qui định mức chênh lệch chỉ thể hiện mặt quản lý danh nghĩa, các Ngân hàng Thương mại khó có thể tuân thủ đúng qui định này được. Thứ hai, khung qui định chênh lệch như vậy là tương đối chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ các Ngân hàng Thương mại đã phải xác định chênh lệch tỷ giá mua, bán phải tuỳ theo vào cung - cầu của mỗi Ngân hàng, tuỳ thuộc vào khả năng dự tính về lợi nhuận và khả năng của mồi Ngân hàng. Thực chất qui định chênh lệch tỷ giá mua bán quá chặt chẽ như vậy không khuyến khích hoạt động trên thị trường theo đúng các quan hệ nội tại của nó và phần nào không tạo ra một môi trường cạnh tranh hoàn hảo trong kinh doanh IV: Mục tiêu nhiệm vụ và định hướng của chính sách tỷ giá hối đoái 1. Mục tiêu Khái quát lại cơ sở để hoạch định và xác định mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn tới bao gồm. - Hiện trạng kinh tế - tài chính nước ta ( trong đó quan trọng nhất là tính hợp lý của tỷ giá hiện hành, thực trạng ngân sách, tài chính, tiền tệ, thị trường tài chính, lạm phát , cán cân thanh toán quốc tế...), tuy đã được cải thiện một bước căn bản, song vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn và xu hướng tiếp tục lên giá của Việt Nam đồng tương đối rõ nét. - Triển vọng kinh tế tuy sáng sủa, song mục tiêu và phục vụ chiến lược Việt Nam là rất nặng nề, đòi hỏi bản lĩnh điều chỉnh kinh tế vĩ mô phải hết sức năng động, vững vàng quán triệt đầy đủ các mục tiêu định hướng ưu tiên. Hiện trạng kinh tế đối ngoại, đặc biệt là chiến lược mở cửa nhanh trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và diễn biến thất thường. Song yêu cầu của quan hệ kinh tế đối ngoại phải có hiệu quả ổn định và vững chắc. Tuy nhiên để nâng cao luận cứ cho việc lựa chọn mục tiêu, xác định nhiệm vụ cụ thể của chính sách tỷ giá hối đoái chính xác hơn, từ đó lựa chọn giải pháp, công cụ điều chỉnh để đạt mục tiêu đề ra cần nhận thấy. Thứ nhất, đối tượng, phạm vi điều chỉnh, tác động trực tiếp của chính sách nằm trong lĩnh vực tiền tệ , các quan hệ tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước giữa các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, định hướng điều chỉnh của chính sách tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô khác ( nợ nước ngoài, ngoại thương FDI, huy 26 động vốn nội địa, chiều hướng vận động của các dòng vốn ). Song đây là các hệ quả gián tiếp và hiệu ứng thực tế của sự ảnh hưởng nói trên còn phụ thuộc nhiều chính sách, yếu tố khác. Thứ hai, với tư cách về mặt đối ngoại của chính sách tiền tệ tuy có những đặc thù riêng song hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái phải xuất phát từ định hướng phù hợp với các mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn phát triển ( tương ứng với mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế chiến lược giai đoạn 1996-2000 ) tăng chưởng nhanh, bền vững , công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì chính sách tiền tệ có hai mục tiêu trung gian cơ bản: Một là, kiềm chế vững chắc lạm phát ở mức thấp, kéo lạm phát xuống một con số. Hai là phát triển hệ thống tài chính- tiền tệ nhằm nâng cao tỷ lệ tích luỹ và đầu tư cho nền kinh tế Xét về dài hạn, triển khai chính sách tỷ giá hối đoái là hướng vào mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế * Những mục tiêu chủ yếu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2001-2005 bao gồm 1. Mục tiêu trực tiếp: thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá hối đoái cân bằng, ổn định dựa trên sức mua thực tế của Việt Nam đồng với các ngoại tệ, tương quan cung cầu trên thị trường 2. Mục tiêu chiến lược: không ngừng nâng cao uy tín của ViệtNam đồng trên cơ sở ổn định vững chắc giá trị của nó, sự tương đồng hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại. 3. Phối hợp với chính sách quản lý ngoại hối và đẩy lùi căn bản hội chứng Đô la hoá nền kinh tế trên cơ sở tạo ra đầy đủ tiền đề kinh tế, pháp chế để Việt Nam đồng thực hiện trọn vẹn chức năng của mình và tăng cường vai trò trong đời sống kinh tế, nhất là trong lưu thông thanh toán và với phương cách là phương tiện tích luỹ tài sản. 4. Tạo ra các tiền đề cần và đủ để mở rộng hình thức, nội dung phạm vi chuyển đổi của ViệtNam đồng 5. Tăng dự trữ ngoại tệ lên mức thích hợp và với cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Sở dĩ vấn đề uy tín của Việt Nam đồng được nhấn mạnh bởi nó có ý nghĩa hết sức to lớn trên nhiều phương diện kinh tế , chính trị, đối nội và đối ngoại, đồng thời gắn với hàng loạt vấn đề mang tầm chiến lược. Trên phương diện lý thuyết lẫn thực tế, sự mất uy tín của đồng bản tệ ở bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng là nguyên nhân của các biến động kinh tế, tài chính và để lại nhiều hậu quả tiêu cực khó lường. Rõ ràng một đồng tiền mất uy tín tất yếu sẽ làm tổn thương đến tích luỹ, đầu tư nội địa, loại bỏ sự hấp dẫn với FDI, tăng nguy cơ lạm phát, chi phí lãi xuất huy động cao, nếu trầm trọng có thể bị tước bỏ chức năng, bị đẩy ra khỏi hệ thống thanh toán tạo điều kiện cho hội chứng Đôla hoá...Là một nước mới ra khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng, siêu lạm phát, uy tín của Việt Nam đồng trong dân chúng chưa cao, đã hiểu cái giá phải trả cho việc đồng tiền bị mất uy tín giai đoạn vừa qua. Do vậy việc nhận thức đầy đủ vấn đề nâng cao uy tín của đồng tiền quốc gia cũng chính là một tác nhân trực tiếp vào chiến lược vốn, chiến lược tăng trưởng nhanh , bền vững của nước ta. 27 Đối với một quốc gia, chủ quyền tiền tệ là tối quan trọng, tình trạng Đôla hoá những năm qua ở Việt Nam gây nhiều hệ quả tiêu cực, song trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện để sử lý triệt để vấn đề này. Sau khi nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ đã được cải thiện một bước cơ bản, các tiền đề cần và đủ cho thực hiện chủ quyền tiền tệ đã xuất hiện. Hơn nữa, việc xây dựng chủ quyền tiền tệ còn là yêu cầu đòi hỏi cấp bách từ yêu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn tới. Nền kinh tế bị Đôla hoá nghiêm trọng, có nghĩa là chính sách tiền tệ của quốc gia đó bị phụ thuộc vô hình vào chính sách tiền tệ của Mỹ, sự biến động của USD trên thị trường quốc tế, đồng thời không cho phép nắm, tính toán kiểm soát được khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nội tệ bị tước đoạt chức năng, đặc biệt là phạm vi điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương bị thu hẹp nghiêm trọng điều chỉnh lạm phát khó khăn, ít hiệu quả. Loại bỏ tình trạng Đôla hoá, thực hiện chủ quyền tiền tệ tức là tạo điều kiện hoạch định chính sách tiền tệ độc lập tự chủ, có cơ sở vững chắc, đồng thời cho phép kiểm soát hiệu quả vấn đề lạm phát. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên vấn đề chủ quyền tiền tệ được xác định. Tuy nhiên việc loại bỏ nạn Đôla hoá là vấn đề phức tạp, phải có sự phối hợp của nhiều chính sách và mục tiêu đặt ra và chỉ có thể đạt được thông qua việc cải thiện các chức năng của ViềtNam đồng. Điều này đòi hỏi cần theo đuổi một chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, có tác dụng thúc đấy hệ thống cải cách tài chính Ngân hàng. Khi sự hấp dẫn của Việt Nam đồng được đảm bảo, nhu cầu tích luỹ tài sản, thanh toán bằng USD chắc chắn sẽ giảm đi đáng kể Trong kinh tế thị trường thì sự chuyển đổi của đồng tiền là yếu tố không thể thiếu, tuy nhiên sự khác nhau là ở chỗ mức độ, phạm vi và hình thức chuyển đổi. Đối với các nước đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì sự chuyển đổi của đồng bản tệ có ý nghĩa rất lớn, ngoài những lợi ích kinh tế trong thanh toán, tối ưu hoá sử dụng ngoại tệ, thu hút FDI...thì sự chuyển đổi của đồng tiền còn có vai trò quan trọng trong việc đưa nền kinh tế hoà nhập vào hệ thống buôn bán địa phương, tham gia các khối kinh tế và thúc đẩy sự chuyển chia cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa. Những năm gần đây đã cõ một số chuyên gia kinh tế khẳng định, những điều kiện để VND trở thành đồng tiền chuyển đổi trên lãnh thổ Việt nam cơ bản đã hội tụ đủ và đề nghị chính phủ công bố chính thức. Hướng toĩ sự chuyển dịch hoàn toàn của một đồng tiền là một quá trình dài trải qua nhiều nấc thang ở mỗi nấc thang chuyển đổi đòi hỏi điều kiện cần và đủ tương ứng. Trong lịch sử thế giới chưa có đồng tiền nào bước ngay đến ngưỡng cửa chuyển đổi tự do và không phải đồng tiền nào cũng có thể vươn tới sự chuyển đổi tự do cả ở trong nước và ngoài nước. Với thực lực, địa vị kinh tế nước ta hiện nay, trong tương lai gần thì vấn đề chuyển đổi hoàn toàn chỉ đặt ra trong phạm vi trên lãnh thổ Việt nam. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này ngoài các điều kiện về chính trị (uy tín điều hành quản lý của nhà nước) xã hội, tâm lý (uy tín của VND đủ mạnh), pháp chế thì phải hội tụ đủu các điều kiện kinh tế, trong đó quan trọng nhất là nền kinh tế được củng cố thường xuyên về thực lực, phát triển ổn định,VND ổn định vững chắc về mặt giá trị, lạm phát ổn định ở mức rất thấp, dự trữ ngoại chiến lược đủ mạnh cơ cấu giá cả kinh tế phù hợp với cơ cấu quốc tế, thị trường ngoại hối tài chính hoàn chỉnh và phát triển, nền kinh tế thực sự hội nhập vào thế giới. Bên cạnh đókhi công bố chính thức tỷ giá hối đoái cần có hệ thống chính sách, giải pháp hỗ trợ để xử lý các tình huống bất trắc. Cuối cùng, là quốc gia có số lượng nợ nước ngoài lớn, nự đến hạn ngày càng cao, nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế gia tăng mạnh, trong khi dự trữ ngoại tệ của nước ta ước khoảng ba tháng nhập khẩu vì vậy chính sách ngoại tệ cần phải hướng vào mục tiêu 28 tăng dự trữngoại tệ ở mức thích hợp với cơ cấu hợp lý đảm bảo nhu cầu nhập khẩu, trả nợ và sự can thiệphiệu qủa của nhà nước khi cần thiết. Hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái nêu trên có mối quan hệ nội tại thống nhất hữu cơ hết sức chặt chẽ với nhau, trong đó mục tiêu chủ quyền tiền tệ, chuyển đổi chỉ có thể thực hiện nếu VND thực sự có uy tín cao, ổn định, nược lại, khi VND mở rộng nội dung hình thức chuyển đổi, mục tiêu chủ quyền tiền tệ được thực hiện sẽ có tác động rất lớn trong việc củng cố nâng cao uy tín của VND, tăng cường dự trữ ngoại tệ quốc gia, trong khi đó thực lực dự trữ ngoại tệ lại là một trong các tiền dề quan trọng để đảm bảo duy trì khả năng chuyển đổi VND, tăng cường sự điều chỉnh của nhà nước trong lĩnh vực ngoại tệ. Thực tiễn những năm quavà lịch sử thế giới cho thấy: củng cố nâng cao uy tín địa vị của đồng tiền quốc gia trong đời sóng kinh tế xã hội là con đường đúng đắn để phát triển đất nước. 2- Nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái: Ty có những nét chung, song nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái ở mỗi nước có những đặc thù riêng do hoàn cảnh cụ thể và những vấn đề mà nền kinh tế đang tập trung giải quyết. Xuất phát từ đặc điểm nổi bật là tính chất quá độ chuyển đổi cơ chế kinh tế diễn ra đồng thời với quá trình mở rộng hợp tác quốc tế, là qua trình thực hiện những nhiệm vụ chiến lược kinh tế hết sức nặng nề. Vì vậy, nhiệm vụ tổng thể của chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta trong giai đoạn tới là tạo ra các tiền đề cần và đủ để thực hiện thành công các nhiệm vụ mục tiêu đã đặt ra, hỗ trự hiệu quả các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác, cụ thể là: + Tạo ra cơ sở khoa học, luận cứ vững chắc cho sự hoàn thiện, thiết kế cơ chế quản lý, định hướng lựa chọn các phương án điều chỉnh hựop lý cho phép giải quyết hài hoà các mục tiêu của chính sách tỷ giá và các mục kinh tế vĩ mô ỏ từng giai đoạn phát triển. Tăng cường và đảm bảo sự quản lý hiệu quả từ phía nhà nước đối với lĩnh vực ngoại hối. + Giảm đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của các thị trường tài chính quốc tế và sự tổn thương đối với nèn kinh tế trước các cú sốc bên ngoài qua các kênh tỷ giá, sự vận động của các luồng ngoại tệ và vốn. + Tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thanh toán quan hệ ngoại hối cho hoạt động kinh tế đối ngoại đồng thời hỗ trợ cho cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường mở. + Bên cạnh mục tiêu dài hạn là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm ché lạm phát thì chính sách tỷ giá cầncó sự hỗ trợ hợp lý cho mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, yêu cầu phối hợp các chính sách. Bản thân tỷ giá là hàm số kinh tế vĩ mô, tức là cùng một lúc có nhiều yếu tố tác động đến nó, ngược lại nó cũng tác động lại đến nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô khác, vì vậy để đạt các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra nhất là trong thời đại quốc tế hoá thị trường tài chính đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự phối hợp hết sức đồng bộ và hiệu quả cảu hàng loạt chính sách, giải pháp kinh tế vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là: 29 - Chính sách, cơ chế quản lý giao dịchngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành lĩnh vực ngoại tệ. - Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất các chính sách giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (chính sách tỷ giá, lãi suất, cung ứng tiền tệ) nhằm tác động có hiệu quả từ nhiều hướng vào VND và đạt được tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của VND. - Xuất phát từ đặc điểm kinh tế hiện tại của đất nước ta, xu hướng lên giá của VND, quan hệ cung cầu ngoại tệ, để đảm bảo không ảnh hưởng đến mục tiêu kinh tế vĩ mô khác hặc ảnh hưởng ở mức thấp, thì việc điều chỉnh tỷ giá cần phải có sự phối hợp hiệu quả giữa các chính sách tiền tệ, tài chính, thu nhập ngoại thương...ví dụ để ngăn ngừa xu hướng lên giá của VND, cần điều chỉnh cơ cấu chi, thu hẹp thâm hụt ngân sách nhà nước, nhất là vay nợ nước ngoài và loại bỏ xu hướng gia tăng lương, thu nhập quá cao, hặc để khuyến khích xuất khẩu cần phải phối hợp tỷ giá với các giải pháp thuế, tín dụng... - Hoàn thiện hệ thống công cụ tài chính, tiền tệ (cả gián tiếp và trực tiếp) việc hiện đại hoá hệ thống tổ chức tài chính được tiến hành song song với phát triển hệ thống thị trường tài chính nhằm nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của nhà nước. 3- Định hướng điều chỉnh tỷ giá hối đoái. 3.1 Một số vấn đề cấp bách cần xử lý: Ttrong lĩnh vực tỷ gía, tỷ giá trong kinh tế thị trường ở nước ta còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Để có được những định hướng đúng đắn, chỉ dẫn phù hợp cho công tác quản lý, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới cũng như xây dựng một chính sách chiến lược tỷ giá hối đoái thực sự tự chủ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta và xu hướng quốc tế hoá toàn cầu đang diễn ra sâu rộng cần phải: + Tiến hành nghiên cứu, tổng kết kịp thời kinh nghiệm cải cách quản lý, điều chỉnh tỷ giá trong giai đoạn vừa qua. + Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc xác định tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tỷ giá thực tế, tỷ giá cân bằng trong điều kiện cụ thể của nước ta, chuẩn xác hoá, hệ thống hoá dự liệu kinh tế có liên quan trực tiếp đến tính toán điều chỉnh tỷ giá hối đoái(chỉ số lạm phát, hệ số giảm phát, tính xác thực của tài khoản vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế, vấn đề nợ...) để có được sự trả lời chính xác tỷ giá hối đoái hiẹn tại đã phù hợp chưa? nên điều chỉnh theo hướng nào? khả năng điều chỉnh trên thực tế ra sao? đặc biệt là lượng hoá được hậu quả của điều chỉnh. + Theo dõi, phân tích một cách có hệ thống động thái của các thị trường tài chính quốc tế, từ đó xác diịnh xu hướng phát triển các thị trường này trong tương lai để làm cơ sở lựa chọn hứơng tổ chức, phát triển thị trường ngoại hối Việt nam, đáp ứng yêu cầu phát triển trong nước, phù hợp với thông lệ quốc tế và lựa chọn phương án điều chỉnh phù hợp. + Thực tiễn thế giới nhất là giai đoạn vừa qua cho thấy: sự biến động của thị trường tài chính quốc tế và các đồng tiền chủ chốt có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài 30 chính tiền tệ của một quốc gia (thu chi ngân sách nhà nước, nợ và thanh toán nợ, sự vận động của các luồng vốn đàu tư) vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá đúng vị trí, vai trò, xu hướng phát triển dài hạn cũng như ngắn hạn của các đồng tiền chủ chốt có ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều này có ý nghĩa trực tiếp đến việc lựa chon đồng tiền làm phương tiện thanh toán trong các hợp đôngf thương mại, tín dụng, nhất là phương thức thanh toán theo thưòi hạn thoả thuận, lựa chọn chiến lược vay (vay bằng đồng tiền nào?) phương án, kế hoạch thanh toán nợ và cuối cùng là lựa chọn loại ngoại tệ dự trữ. Việc điều chỉnh cơ cấu dự trữ cho phù hợp sẽ hạn chế các rủi ro do biến động tỷ giá gây ra. Để có được cơ sở luận cứ vững chắc cho đánnh giá dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt, đòi hỏi không chỉ theo dõi sự biến động trên thị trường mà quan trọng là phân tích đánh giá đúng thực trạng, xu hướng phát triển kinh tế, địa vị kinh tế chính trị của các nước đó hịn tại và trong tương lai. + Hoàn thiện phát triển và hiện đại hoá công tác dự báo kinh tế tài chính để có được những đánh giá sát thựcphục cụ cho điều chỉnh kinh tế vĩ mô nói chung, điều chỉnh tỷ giá nói riêng. + Cuối cùng, để công tác điều chỉnh tỷ giá phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế, đòi hỏi phải có những giải pháp thỏa đáng vấn đề sau: hiện tại và tương lai gần nên gắn VND với đồng USD hay một giỏ ngoại tệ? Phương án nào là hợp lý?. Trong giới nghiên cứu và điều hành ở nước ta hiện có hai ý kiến đặt ra: ý kiến thứ nhất cho rằng: cần hạn chế sự phụ thuộc quá mức của VND vào một đồng tiền nước ngoài (cụ thể là USD) do đó phải xác định tỷ giá theo giỏ ngoại tệ mạnh. ý kiến htứ hai không phủ nhận xu hướng trên và cho rằng: trong thời gian tới USD vẫn còn vị trí quan trọng trên thị trường tài chính quốc tế, do đó USD vẫn là đồng tiền chủ yếu để làm cơ sở xác định chính sách tỷ giá của Việt nam. Thực ra giữa hai ý kiến trên không có mâu thuẫn gì lớn, theo chúng tôi, mặc dù trong giai đoạn vừa qua chúng ta chưa có quan hệ ngoại thương trực tiếp với Mỹ, song trên 90% các hợp đồng thương mại của ta được tính toán bằng USD, hơn nữa do vai trò của USD trong đời sống kinh tế nước ta và mục tiêu của chiến lược ổn định hoá xét trên phương diện lý thuyết, thực tiễn thì việc gắn VND với USD trong giai đoạn vừa qua là phù hợp, hiệu quả, là giải pháp khôn ngoan. Tuy nhiên bước vào giai đoạn phát triển mới, đa phương hoá cao độ thì phương án chuyển sang định giá theo giỏ ngoại tệ mạnh, dựa trên cơ sở mô hình lượng về ngoại thương nhiều chiều sẽ có lợi thế hơn cho kinh tế đối ngoaị: song dù sao chăng nữa trong giỏ ngoại tệ tỷ trọng của USD vẫn là lớn nhất. Nhìn tổng thể, việc gắn với giỏ ngoại tệ sẽ giảm được sự rủi ro, bấp bênh do biến động của tỷ giá song phương gây ra, thích hựop với hiện thực là tính không thuần nhất trong thương mại quốc tế, trước hết là sự đàn hồi (co giãn) giá cả khác nhau đối với cung và cầu theo các nhóm hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, khi chuyển sang gắn với giỏ ngoại tệ thì vấn đề quan trọng là gắn với đồng tiền nào? với trọng số là bao nhiêu?. Bên cạnh đó cần thấy hết tính phức tạp,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTỷ giá hối đoái.pdf