Trợ cấp và các biện pháp đối kháng

Khái niệm trợ cấp trong thương mại quốc tế Định nghĩa về hành động “trợ cấp” luôn làm cho các nhà hoạch định chính sách phải gặp nhiều khó khăn trong việc xác định thuật ngữ này một cách rõ ràng. Điều này đươc lý giải bởi việc , một phần do thuật ngữ “trợ cấp” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nếu thuật ngữ “trợ cấp” được hiểu theo nghĩa rộng thì nó có thể bao gồm rất nhiều hoạt động của chính phủ. Ví dụ, nếu xem xét “trợ cấp” dưới góc độ kinh tế, thuật ngữ “trợ cấp” có nghĩa là “một lợi ích dành cho một doanh nghiệp hay một sản phẩm thông qua một hành động của chính phủ” thì khái niệm trợ cấp có thể bao gồm nhiều hành động điển hình và phổ biến của mọi chính phủ, ví dụ, như bảo đảm trật tự trị an, phòng cháy chữa cháy, xây dựng cầu đường thậm chí cả việc xây dựng trường học và các hoạt động giáo dục. Bảo đảm trật tự trị an và phòng cháy chữa cháy thật tốt rõ giảm giá thành sản phẩm của họ. Tương tự, những loại cơ sở hạ tầng xã hội khác có thể cắt giảm những chi phí mà một doanh nghiệp sẽ phải đưa vào hạch toán khi tính giá bán của sản phẩm. Vấn đề là ở chỗ, nếu sử dụng một định nghĩa rộng như thế, và luật lệ quốc tế cho phép các chính phủ phản ứng lại bằng cách sử dụng thuế chống trợ cấp đối với các hoạt động trợ cấp như thế thì toàn bộ Hệ thống GATT được hình thành sau Thế chiến thứ II (bao gồm cả việc cắt giảm thuế quan) sẽ bị tiêu diệt: các chính phủ sẽ được quyền đánh nhiều loại thuế chống tài trợ, vì xét cho cùng thì sản phẩm nào cũng sẽ đuợc hưởng lợi từ các hoạt động nói trên của hính phủ. Do đó, vấn đề đặt ra là phải có sự định nghĩa “trợ cấp” như thế nào đó để có thể tránh được những ảnh hưởng tai hại bao trùm như thế đến thương mại quốc tế. Vấn đề này liên quan chủ yếu đến việc các chính phủ đơn phương áp dụng các biện pháp đối kháng.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2698 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trợ cấp và các biện pháp đối kháng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất hoặc một số nhà sản xuất nhất định. Trong thương mại quốc tế, trợ cấp là một công cụ chính sách thương mại để tăng cường khả năng cạnh tranh của một ngành đối với ngành tương tự của nước khác. Giả sử có hai nước X và Y cùng sản xuất và tiến hành xuất nhập khẩu một mặt hàng nhất định Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế, một nước nhỏ, thiếu thông tin và tiềm lực kinh tế (như Việt Nam) rất có thể chịu thiệt trong cạnh tranh. Trong phần lớn các trường hợp, nước nhỏ không có đủ tiền để trợ cấp bằng với khoản nước lớn khác đã trợ cấp (trường hợp -1; 1). Ngay cả khi có tiền để trợ cấp, không phải lúc nào một nước nhỏ, thiếu thông tin cũng có thể áp dụng ngay trợ cấp (cần thời gian để thu thập số liệu, tổng hợp thông tin, xây dựng chương trình trợ cấp và các văn bản pháp lý, v.v...). Một trong những công cụ giúp tránh được thiệt hại trong các trường hợp trên là dùng công cụ thuế chống trợ cấp. Nếu nước X trợ cấp để xuất khẩu hàng hoá sang nước Y, nước Y có thể không cần trợ cấp lại cho ngành sản xuất trong nước của mình mà chỉ cần áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng của nước X. Vì vậy, nếu biết chắc rằng nước Y sẽ đánh thuế chống trợ cấp đối với hàng của nước mình, nước X sẽ không tiến hành trợ cấp nữa. - Tác động răn đe đối với doanh nghiệp (khi định giá hàng xuất khẩu): Trong nhiều trường hợp, nước X có thể trợ cấp cho hàng của nước mình để bán sang nhiều nước khác nhau (ví dụ nước Y và Z). Khi đó, nước X vẫn tiến hành trợ cấp mặc dù biết nước Y sẽ đánh thuế chống trợ cấp vì hàng của nước X vẫn có thể được hưởng lợi khi bán vào nước Z. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tác dụng răn đe của thuế chống trợ cấp vẫn còn. Nếu biết nước Y sẽ đánh thuế chống trợ cấp, các nhà kinh doanh khi muốn bán hàng của nước X vào nước Y sẽ tự động tăng giá ngang với giá trị thực của hàng hoá (giá nếu không được trợ cấp) vì sợ bị đánh thuế chống trợ cấp. Như vậy, sản xuất trong nước tại nước Y không bị ảnh hưởng của khoản trợ cấp của nước X. 2.2.2. Tác động như con bài trong đàm phán Tính chất của thuế chống trợ cấp rất phức tạp, việc áp dụng hay không áp dụng thuế chống trợ cấp phụ thuộc rất nhiều vào cách điều tra, tính toán. Đồng thời, trong thương mại quốc tế ngày nay, rất nhiều nước tiến hành trợ cấp cho hàng hoá xuất khẩu nên khả năng có thể áp dụng thuế chống trợ cấp ngày càng cao. Vì vậy, khi xảy ra một cuộc .chiến tranh. hay tranh chấp trong thương mại, một nước có thể điều tra hoặc áp dụng thuế chống trợ cấp để làm con bài mặc cả trước khi bước vào đàm phán. Công cụ thuế chống trợ cấp đặc biệt hiệu quả trong trường hợp này vì đây là công cụ có thể đánh trực tiếp vào một nước. 3. Căn cứ áp dụng thuế chống trợ cấp 3.1 Trợ cấp phải có tính riêng biệt Theo quy định của Hiệp định SCM, tất cả các trợ cấp đèn đỏ đều là trợ cấp riêng, tức là đều có thể bị nước khác điều tra đánh thuế chống trợ cấp. Trợ cấp đèn vàng hay trợ cấp có thể bị đánh thuế chống trợ cấp là trợ cấp mang tính riêng biệt nhưng không thuộc nhóm trợ cấp đèn đỏ nói trên. Như vậy, mọi trợ cấp riêng đều có thể bị nước khác đánh thuế chống trợ cấp nếu các điều kiện khác về bằng chứng của thiệt hại và bằng chứng về quan hệ nhân quả giữa trợ cấp và thiệt hại đã được chứng minh. Theo quy định của Hiệp định SCM, một khoản trợ cấp được coi là một trợ cấp riêng nếu trợ cấp đó chỉ dành riêng cho một (hoặc một nhóm) ngành (hoặc doanh nghiệp) Khi xác định xem một khoản trợ cấp có phải là trợ cấp dành riêng cho một (hoặc một nhóm) các ngành (hoặc doanh nghiệp) hay không, cần áp dụng các nguyên tắc sau: ??Nếu cơ quan có thẩm quyền hoặc văn bản pháp lý liên quan quy định rõ chỉ một số doanh nghiệp nhất định mới được hưởng trợ cấp thì đó là trợ cấp riêng. ??Nếu cơ quan có thẩm quyền hoặc văn bản pháp lý liên quan quy định rõ các tiêu chí hoặc điều kiện kinh tế mang tính khách quan để xác định đối tượng được nhận trợ cấp cũng như mức trợ cấp và các tiêu chí, điều kiện này không ưu đãi doanh nghiệp này so với doanh nghiệp khác và được áp dụng một cách tự động (cứ đối tượng nào đáp ứng được các tiêu chí, điều kiện đó thì mặc nhiên được hưởng trợ cấp) thì đó không phải là trợ cấp riêng. ; hoặc dành riêng cho các doanh nghiệp nằm trong một khu vực địa lý nhất định. Tính riêng biệt là một yếu tố rất quan trọng liên quan tới .trợ cấp có thể bị đánh thuế chống trợ cấp.. Dụng ý của Hiệp định SCM khi giới thiệu khái niệm tính riêng biệt. là nhằm loại những chính sách can thiệp vĩ mô của chính phủ khỏi phạm vi điều chỉnh về trợ cấp bóp méo thương mại. Thật vậy, các chính sách vĩ mô của chính phủ như phá giá đồng nội tệ, ấn định mức lương trần, v.v... mặc dù có thể có tác động như một biện pháp trợ cấp nhưng lại không thỏa mãn tiêu chí .tính riêng biệt. vì các chính sách vĩ mô này tác động đến mọi nhà sản xuất trong nước chứ không làm lợi cho riêng một nhóm đối tượng cụ thể nào, và do đó, lợi ích mà sự can thiệp của chính phủ mang lại mang tính chung. Trợ cấp riêng theo luật và trên thực tế: Ngay cả khi một biện pháp trợ cấp không mang tính riêng biệt theo luật nhưng lại có thể mang tính riêng biệt trên thực tế thì cần phải xem xét đến một số yếu tố khác để xác định xem trợ cấp đó có mang tính riêng biệt hay không. Các yếu tố đó là: chỉ có một số nhất định các doanh nghiệp cụ thể sử dụng trợ cấp, một số doanh nghiệp nhất định là đối tượng sử dụng phần lớn trợ cấp, khối lượng lớn bất thường của trợ cấp được dành cho một số doanh nghiệp nhất định, và cơ quan chịu trách nhiệm về trợ cấp tùy tiện trong việc ra quyết định về trợ cấp. Trong trường hợp này, thông tin về tần suất các hồ sơ xin được hưởng trợ cấp bị từ chối hoặc được chấp thuận cũng như lý do đưa ra các quyết định này sẽ phải được xem xét. Ngoài ra, mức độ đa dạng của các hoạt động kinh tế thuộc phạm vi thẩm quyền pháp lý của cơ quan chịu trách nhiệm về trợ cấp cũng như thời hạn hiệu lực của chương trình trợ cấp cũng được tính đến. Nếu các yếu tố này được xem xét đầy đủ thì có thể dẫn đến kết luận về tính riêng biệt trên thực tế của trợ cấp. 3.2 thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước Để chứng tỏ việc đánh thuế chống trợ cấp là một hành động đối phó chính đáng, bước thứ hai là nước nhập khẩu phải đưa ra được bằng chứng đầy đủ cho thấy có thiệt hại (injury) xảy ra đối các ngành (hoặc doanh nghiệp) trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự với hàng nhập khẩu được trợ cấp. Công việc này gồm hai bước: (i) chứng minh trên thực tế là có ngành (hoặc doanh nghiệp) trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự với các sản phẩm nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp và (ii) chứng minh các ngành (hoặc doanh nghiệp) này bị thiệt hại thông qua các bằng chứng cụ thể. 3.2.1. Khái niệm về ngành sản xuất trong nước (domestic industry) Điều 16 Hiệp định SCM qui định: thuật ngữ ngành sản xuất trong nước được hiểu là đề cập chung đến tất cả các nhà sản xuất trong nước cùng sản xuất ra sản phẩm tương tự hay những nhà sản xuất sản phẩm tương tự có sản lượng cộng gộp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng nội địa của những sản phẩm đó. Tuy nhiên, các nhà sản xuất có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, hoặc bản than chính nhà sản xuất là nhà nhập khẩu các sản phẩm bị cho là được nước ngoài trợ cấp hoặc các sản phẩm tương tự từ các nước khác sẽ không được tính vào nhóm các nhà sản xuất thuộc .ngành sản xuất trong nước.. Nói cách khác, trong trường hợp đó, thuật ngữ .ngành sản xuất trong nước. sẽ được hiểu là đề cập tới tất cả các nhà sản xuất còn lại trừ những nhà sản xuất có liên quan tới nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, hoặc bản thân chính nhà sản xuất là nhà nhập khẩu các sản phẩm bị cho là được nước ngoài trợ cấp hoặc các sản phẩm tương tự từ các nước khác. Một nhà sản xuất được coi là có quan hệ với nhà xuất khẩu hay nhập khẩu nếu 2 điều kiện sau cùng được thỏa mãn: - Một trong hai bên trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát bên còn lại, hoặc cả hai bên cùng nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thứ ba, hoặc cả hai bên cùng kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp một bên thứ ba. Phạm trù "kiểm soát" ở đây muốn nói tới quyền chi phối (hạn chế hoặc chỉ đạo) của một bên với bên khác theo luật hoặc trên cơ sở tác nghiệp. - Có căn cứ rằng mối quan hệ nói trên khiến cho nhà sản xuất trong nước lien quan sẽ hành động khác với các nhà sản xuất không có quan hệ với nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu. Trong phần lớn các trường hợp, khái niệm ngành sản xuất trong nước thường được dùng để chỉ ngành (hoặc tập hợp các nhà sản xuất) kinh doanh trên thị trường bao trùm toàn bộ lãnh thổ của một nước Thành viên. Khi chứng minh được mình bị thiệt hại do hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp, một ngành sản xuất trong nước sẽ đủ điều kiện để trở thành đối tượng được bảo vệ thông qua thuế chống trợ cấp. Không những thế, Hiệp định SCM (Điều 16.2 và 16.3) còn cho phép cả ngành sản xuất tại một khu vực thị trường (một bộ phận lãnh thổ) của một nước Trường hợp này lãnh thổ địa lý của một nước có thể được phân chia thành hai hoặc nhiều khu vực thị trường mang tính cạnh tranh và các nhà sản xuất trong mỗi khu vực thị trường có thể được coi là một ngành sản xuất riêng nếu mà toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ sản phẩm liên quan do họ sản xuất được bán trong phạm vi khu vực thị trường đó và lượng sản phẩm liên quan do các nhà sản xuất trong nước nằm ngoài phạm vi khu vực thị trường đó cung cấp để đáp ứng nhu cầu về sản phẩm liên quan tại thị trường đó không đáng kể. cũng có thể được bảo vệ thông qua thuế chống trợ cấp nếu sự tập trung sản phẩm nhập khẩu được được trợ cấp vào khu vực thị trường (bộ phận lãnh thổ) đó gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất cung ứng toàn bộ hoặc hầu hết sản phẩm liên quan tại khu vực thị trường (bộ phận lãnh thổ) đó, trong khi phần lớn các nhà sản xuất thuộc ngành sản xuất trong nước lại không hề bị thiệt hại. Khi đó, thuế chống trợ cấp được áp dụng đối với các sản phẩm được nước ngoài trợ cấp và được nhập khẩu nhằm tiêu thụ tại khu vực thị trường (bộ phận lãnh thổ) đó. Tuy nhiên, trong trường hợp trên, Điều 16.3 Hiệp định SCM cũng chưa quy định rõ về khả năng nước nhập khẩu được phép đánh thuế chống trợ cấp đối với toàn bộ sản phẩm nhập khẩu vào trong nước mà không giới hạn đích đến của sản phẩm là khu vực thị trường (bộ phận lãnh thổ) nhất định khi một số điều kiện đặt ra được đáp ứng. - Khái niệm về sản phẩm tương tự Khái niệm sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước (domestic like product) - từ đây gọi tắt là sản phẩm tương tự - được hiểu là một sản phẩm giống hệt sản phẩm đang được xem xét về mọi mặt. Nếu không có sản phẩm giống hệt thì thuật ngữ .sản phẩm tương tự. được hiểu là một sản phẩm dù không giống hoàn toàn nhưng có những đặc điểm, tính chất rất giống sản phẩm đang được xem xét Điều 2.6, Hiệp định về Chống bán phá giá (Anti-Dumping Agreement - gọi tắt là Hiệp định AD) cũng đề cập tới thuật ngữ này với cùng định nghĩa như t rên. Thông thường, khi xem xét .tính tương tự. (likeness) giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm sản xuất trong nước, người ta căn cứ vào các tiêu chí sau: - Các đặc tính vật lý như cấu tạo hóa học, thành phần hóa học, tính chất vật lý, tính năng, chất lượng của sản phẩm: Ví dụ, nickel do Anh sản xuất được coi là giống hệt với nickel do Nga sản xuất vì cùng có hàm lượng nickel cao hơn 99% và do đó hầu như hoàn toàn có thể dùng thay thế cho nhau. Còn nickelsắt của Hy lạp không được coi là sản phẩm tương tự vì có hàm lượng nickelthấp hơn. Hay một trong những yếu tố dẫn tới kết luận rằng tủ đông lạnh mở cánh bên với tủ đông lạnh mở nắp phía trên không phải sản phẩm tương tự là do có sự khác biệt về đặc tính vật lý. Hay đồng hồ cơ đeo tay không tương tự với đồng hồ quartz vì sử dụng các công nghệ chuyển động khác nhau. - Mục đích sử dụng sản phẩm, khả năng có thể sử dụng thay thế cho nhau của sản phẩm; - Chức năng của sản phẩm; - Thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng đối với sản phẩm và/hoặc nhận thức và hành vi của người tiêu dùng đối với sản phẩm; - Phân loại thuế quan của sản phẩm. Các tiêu chí trên phân tích tính tương tự theo nghĩa hẹp. Trong một số trường hợp nhất định, người ta đánh giá .tính tương tự. của các sản phẩm theo nghĩa rộng hơn. Chẳng hạn, Điều III.2 GATT và Ghi chú của điều này đề cập tới sản phẩm tương tự trong nước (like domestic products) không chỉ gồm các sản phẩm tương tự hoặc giống hệt được sản xuất trong nước mà còn gồm cả các sản phẩm sản xuất trong nước trực tiếp cạnh tranh với hoặc có thể thay thế cho sản phẩm nhập khẩu. Điều tra về .sản phẩm tương tự. là khâu đầu tiên trong điều tra về thiệt hại. Thông thường, sau khi phân tích thêm về các kênh tiêu thụ và phân phối sản phẩm, đối tượng khách hàng đối với các sản phẩm được so sánh, cơ quan điều tra có thể xác định rằng sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm trong nước có cạnh tranh trực tiếp với nhau, dẫn đến hệ quả là mức giá thấp và/hoặc khối lượng tăng của hàng nhập khẩu tác động tới ngành sản xuất trong nước hay không. Theo thực tiễn áp dụng tại EU chẳng hạn, nếu sản phẩm thuộc một dòng sản phẩm (range) (ví dụ như máy photocopy, lò vi sóng) thì toàn bộ dòng sản phẩm sẽ được coi là .sản phẩm tương tự. nếu không tồn tại sự phân biệt rạch ròi giữa các sản phẩm thuộc dòng sản phẩm đó, mặc dù các sản phẩm trong dòng đó không hoàn toàn giống hệt nhau. Việc xác định .sản phẩm tương tự. cũng là một quyết định chiến lược quan trọng đối với nước nhập khẩu. Các đối tượng đề nghị đánh thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp phải đứng trước sự lựa chọn khó khăn liên quan tới việc xác định .sản phẩm tương tự.. Thông thường, các đối tượng này thường muốn định nghĩa khái niệm .sản phẩm tương tự. càng rộng càng tốt, vì như vậy họ có thể hướng cuộc điều tra vào một loạt sản phẩm nhập khẩu và cuối cũng thường sẽ có ít nhất một sản phẩm nào đó bị đánh thuế chống trợ cấp. Tuy nhiên, việc định nghĩa khái niệm .sản phẩm tương tự. quá rộng thường khiến các đối tượng đề nghị đánh thuế chống trợ cấp khó thu thập được đủ sự ủng hộ đối với đề nghị của mình cũng như khó chứng minh được thiệt hại xảy ra khi có quá nhiều nhà sản xuất sản phẩm trong nước liên quan tới vụ việc. 3.2.2. Bằng chứng về thiệt hại của ngành sản xuất trong nước Sau khi xác định đủ bằng chứng về việc sản phẩm nhập khẩu được hưởng lợi ích từ một khoản trợ cấp có thể bị đánh thuế chống trợ cấp, điều VI GATT 1994 yêu cầu cơ quan điều tra phải chứng minh được có sự tồn tại của một số tác động nhất định đối với ngành sản xuất trong nước do hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra. Điều 15.1 Hiệp định SCM quy định cụ thể hơn về cách thức xác định sự tồn tại của những tác động này, gọi chung là .thiệt hại. (injury). Điều 15.2 và 15.4 quy định về việc làm thế nào để đánh giá được khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp, tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với giá của các sản phẩm tương tự sản xuất tại thị trường nước nhập khẩu, ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Khái niệm thiệt hại được hiểu là thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước, hoặc nguy cơ gây ra thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước, hoặc làm chậm, trì hoãn việc hình thành một ngành sản xuất trong nước. Hai loại thiệt hại đầu liên quan tới ngành sản xuất trong nước đã được định hình và đang tồn tại, trong khi loại thiệt hại thứ ba liên quan tới ngành sản xuất mới chưa thực sự hình thành hoặc mới chỉ tồn tại dưới dạng phương án định hình tại nước nhập khẩu. Tuy nhiên, các quy định này vẫn không thể đưa ra một định nghĩa chuẩn xác về khái niệm .thiệt hại.. Thay vào đó, Hiệp định SCM đưa ra một danh mục các nội dung mà cơ quan điều tra phải xem xét khách quan để chứng minh rằng có thiệt hại. Danh mục này gồm khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp, ảnh hưởng tới giá sản phẩm tương tự, ảnh hưởng tới nhà sản xuất sản phẩm tương tự. Đối với mỗi nội dung, một loạt các yếu tố lại được nêu ra kèm theo hướng dẫn rằng không yếu tố hay nhóm yếu tố nào nhất thiết đóng vai trò quyết định trong việc đưa ra kết luận rằng có thiệt hại. Nói cách khác, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu được tuỳ ý đánh giá mức độ quan trọng của mỗi yếu tố để đi đến kết luận trong từng vụ việc. Để xác định thiệt hại vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước, cần có sự đánh giá toàn diện về: - Sự suy giảm thực sự hoặc tiềm tàng thể hiện qua tất cả các yếu tố và chỉ tiêu kinh tế liên quan đến tình trạng của ngành như: sản lượng, doanh số tiêu thụ, thị phần, lợi nhuận, năng suất, suất thu hồi vốn đầu tư, công suất sử dụng. - Các yếu tố tác động đến giá hàng hoá trong nước nhập khẩu. - Tình trạng trì trệ hoặc suy giảm thực sự hay tiềm tàng của luồng tiền mặt (cash flow), lượng tồn kho (so sánh khối lượng hàng tồn giữa các năm sẽ là một bằng chứng cho thấy xu hướng tích cực hoặc tiêu cực của khả năng tiêu thụ sản phẩm), công ăn việc làm (số lượng việc làm và xu hướng tăng/giảm tuyển dụng lao động cho một ngành cũng là một chỉ số quan trọng cho thấy ngành đó có phát triển hay không), lương nhân công (lương của người lao động trong ngành cũng phản ánh hiệu quả sản xuất của ngành), tốc độ tăng trưởng và qui mô tăng trưởng (tốc độ và khối lượng tăng trưởng qua các năm là những chỉ số quan trọng xem xét sự phát triển hoặc kém phát triển của một ngành), khả năng huy động vốn hoặc thu hút đầu tư (trong nền kinh tế thị trường, một ngành phát triển tốt sẽ trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên thị trường vốn cũng như nâng cao uy tín của ngành đối với các ngân hàng và quỹ tín dụng, nhờ đó khả năng huy động thêm vốn qua phát hành cổ phiếu hoặc đi vay để mở rộng ngành sẽ là thuận tiện và dễ dàng. Ngược lại, nếu một ngành trở nên kém hấp dẫn các nhà đầu tư, đó chính là một tín hiệu xấu cho thấy thiệt hại về tiềm năng tài chính và giới hạn khả năng đầu tư mở rộng sản xuất của ngành). Đối với các ngành sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp, một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua trong khi đánh giá thiệt hại đối với ngành là nguy cơ chính phủ sẽ phải tăng hỗ trợ cho ngành. Các yếu tố và chỉ tiêu kinh tế nêu trên chỉ mang tính chất minh họa và có thể được bổ sung thêm những yếu tố, chỉ tiêu thích hợp khác. Tuy nhiên, không yếu tố, chỉ tiêu nào dưới dạng đơn lẻ hay nhóm chiếm vai trò quyết định hoàn toàn trong kết luận đánh giá của cơ quan điều tra về thiệt hại của ngành. Những bằng chứng về nguy cơ gây thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước Trong nhiều trường hợp, thiệt hại có thể không xảy ra ngay tại thời điểm các nhà sản xuất của nước nhập khẩu đề nghị cơ quan chức năng tiến hành điều tra để đánh thuế chống trợ cấp mà chỉ có nguy cơ sẽ xảy ra tại một thời điểm trong tương lai gần. Khi đó, việc xác định mối nguy cơ về thiệt hại vật chất (hay .thiệt hại trong tương lai.) đối với ngành sản xuất trong nước nhất thiết phải căn cứ trên các dữ kiện thực tế chứ không phải dựa vào sự suy đoán, phỏng đoán hoặc căn cứ trên những khả năng quá xa. Theo Điều 15.7 Hiệp định SCM, khi xác định sự tồn tại của nguy cơ gây thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu phải xem xét các yếu tố như: - Bản chất của chương trình hoặc biện pháp trợ cấp mà chính phủ nước ngoài sử dụng và tác động của trợ cấp này đối với thương mại; - Mức độ tăng nhập khẩu của hàng được nước ngoài trợ cấp cho thấy có nhiều khả năng nhập khẩu sẽ tăng mạnh; - Năng lực sản xuất sẵn có của nhà xuất khẩu còn khả năng tiếp tục khai thác hoặc sớm có khả năng mở rộng cho thấy khả năng hàng được trợ cấp xuất khẩu sang thị trường nước nhập khẩu sẽ tăng mạnh . có tính đến tiềm năng của các thị trường xuất khẩu khác có thể tiếp nhận lượng hàng xuất khẩu tăng thêm; - Tác động giảm giá, ép giá hoặc kìm chế sự tăng giá tại thị trường nước nhập khẩu do sự xuất hiện của hàng nhập khẩu với mức giá được trợ cấp gây ra có khả năng làm gia tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu hơn nữa; và - Lượng tồn kho của sản phẩm đang được điều tra. Không yếu tố đơn lẻ nào kể trên đóng vai trò quyết định trong việc đi đến kết luận về sự tồn tại nguy cơ xảy ra thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước mà tất cả các yếu tố phải được cơ quan điều tra xem xét một cách toàn diện. Kết quả điều tra phải đi đến kết luận cho thấy tình trạng gia tăng hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp sẽ sớm diễn ra và thiệt hại vật chất sẽ xảy ra nếu như nước nhập khẩu không áp dụng ngay hành động ngăn ngừa. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của việc điều tra về nguy cơ xảy ra thiệt hại vật chất với ngành sản xuất trong nước của nước nhập khẩu để có căn cứ đánh thuế chống trợ cấp, Hiệp định SCM lưu ý các nước phải hết sức cẩn trọng khi cân nhắc và quyết định đánh thuế để tránh lạm dụng thuế chống trợ cấp gây trở ngại hoặc hạn chế hà Những bằng chứng cho thấy việc hình thành một ngành sản xuất trong nước bị trì hoãn thực sự Hiệp định SCM tuy coi việc hình thành một ngành sản xuất tại nước nhập khẩu bị trì hoãn là một dạng .thiệt hại. nhưng lại không hề có một quy định nào giải thích hay hướng dẫn cụ thể về loại thiệt hại này. Nếu phân tích trên cơ sở lý thuyết thuần tuý, khái niệm "trì hoãn thực sự cho việc hình thành một ngành sản xuất" có thể được hiểu dưới hai khía cạnh: (i) gây trở ngại khiến cho một ngành (dự kiến thành lập) chưa thể được hình thành trên thực tế như dự kiến (đối với ngành chưa tồn tại trên thực tế); (ii) gây khó khăn khiến cho một ngành trong nước mới bắt đầu định hình chưa thể đi vào sản xuất ổn định (đối với ngành mới ra đời ở dạng phôi thai). Những người dự thảo Điều VI Hiệp định GATT 1947 giải thích rằng nếu một ngành sản xuất trong nước không thể đem lại lợi ích kinh tế (economically unprofitable) do có sự trợ cấp của nước ngoài thì tình trạng này sẽ được coi là một dạng thiệt hại .gây trì hoãn thực sự cho việc hình thành một ngành sản xuất.. Điều 3(a) Hiệp định về Thực hiện Điều VI GATT năm 1967 giải thích thêm ý này như sau: .Trong trường hợp làm trì hoãn việc hình thành một ngành sản xuất mới tại nước nhập khẩu, cơ quan điều tra phải xác định được bằng chứng thuyết phục về sự hình thành ngành ngay trong thời gian tới (forthcoming establishment), ví dụ như các đề án, kế hoạch về một ngành sản xuất mới tại nước nhập khẩu đã bước vào giai đoạn khá cụ thể, có nhà máy đang được xây dựng hoặc máy móc đã được đặt mua Analytical Index: Guide to GATT Law and Practice, Vol.1, articles I . XXI, Geneva 1995 . Như vậy, trong trường hợp nước nhập khẩu thậm chí chưa thể xây dựng được một ngành sản xuất trong nước cho dù đã có những sự chuẩn bị cần thiết và những tiền đề hợp lý để nó có thể ra đời, nếu nguyên nhân của sự chậm trễ đó được chứng tỏ là do những khó khăn thông thường khi bắt đầu xây dựng một ngành mới thì ngành này sẽ không thể được Hiệp định SCM bảo vệ. Ngược lại, nếu chứng tỏ được sự chậm trễ này có nguyên nhân phát sinh do hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp thì ngành đó sẽ được bảo hộ bằng thuế chống trợ cấp theo Hiệp định này. Kết luận: muốn chứng tỏ thiệt hại của một ngành trong nước, ta có thể chứng tỏ thiệt hại đó tồn tại dưới dạng (i) thiệt hại vật chất thực tế, (ii) đe doạ gây ra thiệt hại vật chất, hoặc (iii) gây chậm trễ việc hình thành ngành. Với qui định như vậy của Hiệp định, đôi khi việc tìm kiếm bằng chứng của thiệt hại lại chính là đi tìm bằng chứng cho nguyên nhân đã hoặc sẽ có thể gây ra thiệt hại. Có thể khẳng định rằng, khi chứng tỏ một ngành bị thiệt hại, không thể tách rời bằng chứng của các thiệt hại với việc nêu nguyên nhân trực hay gián tiếp đã gây ra các thiệt hại đó. 1.3. Bằng chứng về quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại Hiệp định SCM quy định chỉ được đánh thuế chống trợ cấp trong trường hợp hàng nhập khẩu được trợ cấp là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Điều 15.5 Hiệp định SCM quy định rằng cơ quan điều tra của nước nhập khẩu phải chứng minh được rằng hàng nhập khẩu được trợ cấp đang gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước dưới một trong ba dạng thiệt hại đã được phân tích ở phần trên. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước phải căn cứ trên tất cả các bằng chứng mà cơ quan điều tra có được. Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng phải xem xét đến các yếu tố khác hiện thời đang gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất đó để xác định mức thiệt hại thực sự do hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra. Khi xem xét quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hạicủa ngành sản xuất trong nước, cơ quan điều tra phải đánh giá về: (i) Khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp: mức độ tăng tuyệt đối và tỷ lệ tăng tương đối so với sản lượng sản xuất hoặc lượng tiêu thụ của sản phẩm tương tự tại thị trường nước nhập khẩu; và (ii) Tác động về giá của hàng nhập khẩu được trợ cấp: mức độ chênh lệch về giá giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp so với giá của sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu, ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được trợ cấp làm giá hàng hóa đó trên thị trường nước nhập khẩu giảm mạnh hoặc kìm hãm không cho giá hàng hóa này tăng lên. Ngoài ra, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu còn phải xem xét đến các yếu tố liên quan khác như khối lượng và giá cả sản phẩm tương tự nhập khẩu từ các nguồn khác không được trợ cấp, tình trạng thu hẹp nhu cầu đối với sản phẩm lien quan hoặc các thay đổi về phương thức tiêu thụ, các hành vi hạn chế thương mại của các nhà sản xuất trong và ngoài nước nhập khẩu, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong và ngoài nước nhập khẩu, các thành tựu phát triển của công nghệ, kết quả xuất khẩu và năng suất của ngành sản xuất trong nước. Khi đánh giá tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đến sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu, thường cơ quan điều tra sẽ cố gắng căn cứ trên các số liệu sẵn có và các tiêu chí như quy trình sản xuất, doanh số bán và lợi nhuận của các nhà sản xuất để phân tách ngành sản xuất sản phẩm tương tự với các ngành khác của nước nhập khẩu. Nếu không thể phân tách như vậy, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ phải đánh giá các tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp thông qua việc xem xét tình trạng sản xuất trong nước đối với nhóm sản phẩm hẹp nhất có bao gồm sản phẩm trong nước tương tự. 1.3.1. Tác động về khối lượng của hàng nhập khẩu được trợ cấp Mức độ tăng trưởng tuyệt đối và tương đối về khối lượng của hàng nhập khẩu được trợ cấp thường được thu thập và xác nhận qua các nguồn số liệu thống kê chính thức của cơ quan thống kê hoặc hải quan nước nhập khẩu. Qua các số liệu này, cơ quan điều tra nước nhập khẩu có thể đánh giá được tương quan giữa khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp với tổng khối lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan từ tất cả các nguồn, với sản lượng sản xuất và tiêu dùng trong nước theo thời gian. Thậm chí, các số liệu này còn có thể giúp cơ quan điều tra ước định được tác động tiềm tàng về khối lượng của hàng nhập khẩu được trợ cấp để đánh giá nguy cơ thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước. Cần lưu ý rằng theo Điều 11.9 Hiệp định SCM, nước nhập khẩu sẽ chấm dứt tiến trình điều tra để đánh thuế chống trợ cấp nếu lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp thực tế hay tiềm tàng ở mức không đáng kể Hiệp định SCM không định nghĩa thế nào là không đáng kể.. Tuy nhiên, theo Điều 27.10 Hiệp định này,lượng hàng nhập khẩu được một nước thành viên đang phát triển trợ cấp sẽ được coi là không đáng kể nếu dưới mức 4% tổng lượng nhập khẩu sản phẩm tương tự vào nước nhập khẩu; hoặc nếu tỷ trọng cộng gộp của hàng nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên đang phát triển thấp hơn mức 9% tổng lượng nhập khẩu sản phẩm đó vào nước nhập khẩu nhưng trong đó tỷ trọng đơn lẻ của hàng nhập khẩu từ mỗi nước thành viên đang phát triển đều dưới mức 4% của tổng lượng nhập khẩu này. . Trong Báo cáo về vụ .New Zealand đánh thuế chống trợ cấp với biến thế điện nhập khẩu từ Phần lan., Ban Hội thẩm đã thẩm tra liệu thiệt hại vật chất mà ngành biến thế của New Zealand phải gánh chịu có phải là hậu quả của biến thế nhập khẩu từ Phần lan hay không. Ban Hội thẩm ghi nhận rằng lượng biến thế nhập khẩu từ Phần lan chỉ chiếm 2,4% tổng lượng biến thế nhập khẩu vào New Zealand. Ban Hội thẩm cũng xét thấy rằng tổng lượng nhập khẩu biến thế vào New Zealand năm 1982/83 tăng gấp rất nhiều lần so với lượng nhập khẩu năm 1981/82, nhưng lượng nhập khẩu từ riêng Phần lan chỉ chiếm 3,4% của mức tăng tổng lượng nhập khẩu này. Căn cứ trên các dữ kiện này, Ban Hội thẩm kết luận rằng mặc dù ngành biến thế của New Zealand có thể đã bị thiệt hại do nhập khẩu tăng lên nhưng nguyên nhân của thiệt hại không thể quy cho biến thế nhập khẩu từ Phần lan do nguồn nhập khẩu này chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh số biến thế bán ra tại New Zealand trong thời kỳ điều tra. Vì vậy, việc New Zealand đánh thuế chống trợ cấp đối với biến thế nhập khẩu từ Phần lan là không phù hợp với các quy định của Điều VI:6(a) của GATT 1947. 1.3.2. Tác động về giá của hàng nhập khẩu được trợ cấp Bên cạnh tác động về khối lượng, tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với giá sản phẩm tương tự sản xuất tại nước nhập khẩu cũng là một căn cứ quan trọng chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại của ngành sản xuất nội địa. Khi xem xét tác động về giá, cơ quan điều tra phải phân tích mức độ chênh lệch giữa giá hàng nhập khẩu được trợ cấp với giá phổ biến trên thị trường của sản phẩm không được trợ cấp (thể hiện qua giá sản phẩm tương tự do nước nhập khẩu sản xuất và giá sản phẩm nhập khẩu từ các nước thứ ba khác không được trợ cấp); hiệu ứng và mức độ giảm giá phổ biến của sản phẩm trên thị trường nước nhập khẩu do sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu được trợ cấp với mức giá thấp; tác động ép giá hay ngăn cản không cho giá sản phẩm trên thị trường nước nhập khẩu tăng theo dự kiến hay theo chiều hướng thông thường nếu không có sự cạnh tranh bất bình đẳng của hàng nhập khẩu được trợ cấp. Trong trường hợp muốn xác định hàng nhập khẩu được trợ cấp là nguyên nhân gây giảm giá hoặc ép giá thị trường của sản phẩm liên quan, cơ quan điều tra phải chứng minh được rằng các sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp đã góp phần tạo nên các xu hướng tiêu cực đối với giá cả của những sản phẩm tương tự trên thị trường trong nước. Chẳng hạn, cơ quan điều tra, trên cơ sở các số liệu thống kê khách quan và nguồn thông tin do ngành sản xuất trong nước cung cấp, phải chứng tỏ được rằng giá cả của sản phẩm liên quan lẽ ra đã có thể tăng cao hơn. Trong Báo cáo về vụ Canada đánh thuế chống trợ cấp đối với ngô nhập khẩu từ Hoa kỳ., Ban Hội thẩm nhận thấy rằng yếu tố suy thoái giá trên thị trường thế giới chủ yếu bắt nguồn do một chương trình trợ cấp của Hoa kỳ theo Luật Nông nghiệp 1985. Rõ ràng là nếu sự giảm giá mạnh trên thị trường thế giới diễn ra phổ biến thì tình trạng này sẽ ảnh hưởng đến các nông dân trồng ngô của Canada. Các nông dân trồng ngô của Canada sẽ chịu tác động của tình trạng này ngay cả khi Canada không hề nhập khẩu ngô từ Hoa kỳ mà chỉ nhập khẩu từ các nước thứ ba, hoặc khi Canada là nước không nhập khẩu ngô từ nước ngoài, hoặc khi Canada là nước xuất khẩu chứ không nhập khẩu ngô. Trong mỗi trường hợp kể trên, giá ngô tại thị trường Canada vẫn sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự suy thoái giá ngô thế giới. Như vậy, tình trạng giá ngô tại thị trường Canada bị ép giảm xảy ra trong mọi trường hợp. Do đó, việc đánh thuế chống trợ cấp sẽ trái với Điều 6.4 GATT 1947 vốn quy định rằng việc giá bị ép giảm hoặc ngăn cản không cho tăng do các nguyên nhân khác sẽ không được quy cho hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp. Do cơ quan điều tra của Canada không đưa ra được bằng chứng nào cho thấy ngô nhập khẩu được trợ cấp từ Hoa kỳ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự sụt giá ngô tiêu thụ tại Canada nên Ban Hội thẩm kết luận rằng quyết định đánh thuế chống trợ cấp của Canada là không phù hợp. Ngoài ra, mục đích của việc đánh thuế chống trợ cấp theo quan điểm của Ban Hội thẩm là nhằm cho phép nước nhập khẩu đối phó với thiệt hại do hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra chứ không phải thiệt hại do một sự sụt giảm chung của giá trên thị trường thế giới. Khi giá thế giới của sản phẩm liên quan giảm trên diện rộng, chỉ có biện pháp thuế nhập khẩu áp dụng chung cho mọi nguồn hàng nhập khẩu, chứ không phải là thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu từ một nước cụ thể, mới có thể chứng tỏ tính hiệu quả trong việc kéo giá trong nước lên. 4. Thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống trợ cấp theo quy định của WTO Trên cơ sở hồ sơ đề nghị áp dụng thuế chống trợ cấp (dưới đây gọi tắt là hồ sơ đề nghị) hợp lệ và đầy đủ bằng chứng của ngành sản xuất trong nước hoặc của đại diện cho ngành đó, cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu (dưới đây gọi tắt là cơ quan điều tra) sẽ tiến hành điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ của trợ cấp, thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước và mối liên hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại đó. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tiến hành tham vấn với các bên liên quan (như nhà sản xuất nước ngoài, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu sản phẩm đang bị điều tra, các hiệp hội liên quan, nhà sản xuất hoặc hiệp hội liên quan trong nước nhập khẩu, chính phủ nước xuất khẩu, v.v...) để làm rõ các vấn đề cần điều tra. Kết quả của việc điều tra có thể đi đến quyết định (i) đánh thuế chống trợ cấp nếu các điều kiện và thủ tục quy định được đáp ứng; (ii) không đánh thuế chống trợ cấp trong trường hợp không hội đủ các điều kiện, trợ cấp dưới mức ngưỡng cho phép, lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp hoặc thiệt hại gây ra không đáng kể, v.v...); hoặc (iii) nước nhập khẩu chấp nhận các cam kết tự nguyện do nhà xuất khẩu nước ngoài hoặc chính quyền nước xuất khẩu đưa ra. Sau khi đã có kết luận bước đầu về sự tồn tại của trợ cấp và thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước do hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu có thể áp dụng biện pháp tạm thời để ngăn chặn thiệt hại tiếp tục xảy ra trong quá trình điều tra. Hiệp định SCM cũng quy định về quá trình điều tra, phương pháp điều tra, các biện pháp tạm thời được phép áp dụng trong quá trình điều tra và cách thức đánh thuế chống trợ cấp chính thức sau khi có kết luận điều tra cuối cùng. 2.1 Nộp hồ sơ Việc điều tra để xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của trợ cấp nước ngoài thường được tiến hành trên cơ sở đề nghị bằng văn bản của ngành sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu, hoặc của một nhóm các nhà sản xuất đại diện cho ngành đó. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép trong một số trường hợp đặc biệt khi đủ bằng chứng về trợ cấp của nước ngoài, thiệt hại và quan hệ nhân quả giữa trợ cấp và thiệt hại, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu có thể quyết định bắt đầu tiến hành điều tra mặc dù không có hồ sơ của ngành sản xuất hoặc đại diện ngành đề nghị điều tra đánh thuế chống trợ cấp. Hồ sơ đề nghị cần cung cấp các thông tin chủ yếu sau: - Thông tin về các nhà sản xuất của nước nhập khẩu ký tên trong hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng thuế chống trợ cấp; mô tả về sản lượng và giá trị sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu của các đối tượng này; danh sách tất cả các nhà sản xuất hoặc hiệp hội các nhà sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu mà các đối tượng ký tên trong hồ sơ đề nghị có thông tin; - Mô tả đầy đủ về sản phẩm nhập khẩu bị điều tra áp dụng thuế chống trợ cấp; nước xuất xứ hoặc xuất khẩu sản phẩm đó; giới thiệu về từng nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài mà các đối tượng ký tên trong hồ sơ đề nghị có thông tin; danh sách những nhà nhập khẩu sản phẩm đang bị đề nghị điều tra áp dụng thuế chống trợ cấp; - Bằng chứng về sự tồn tại, giá trị và bản chất của trợ cấp mà hàng nhập khẩu đang được hưởng; - Bằng chứng về việc thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập khẩu phải gánh chịu là do hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp gây ra, bao gồm thông tin về mức tăng khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp, tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đến giá sản phẩm tương tự tại thị trường nước nhập khẩu và ảnh hưởng hệ quả của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu, thể hiện qua các yếu tố và chỉ tiêu lien quan đến tình trạng ngành như sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, v.v.; Cơ quan điều tra sẽ kiểm tra tính đại diện của những người ký tên trong hồ sơ đề nghị cũng như tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng nêu trong hồ sơ này để đi đến quyết định có đủ căn cứ bắt đầu điều tra hay chưa. Về tính đại diện của hồ sơ: hồ sơ chỉ được coi là thoả mãn yêu cầu về tính đại diện cho ngành sản xuất liên quan tại nước nhập khẩu nếu được sự ủng hộ của các nhà sản xuất chiếm hơn 50% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của tất cả các nhà sản xuất hoặc ủng hộ hoặc phản đối đề nghị điều tra đánh thuế chống trợ cấp Lưu ý rằng ngoài những nhà sản xuất ủng hộ hoặc phản đối đề nghị điều tra đánh thuế chống trợ cấp thì còn có cả những nhà sản xuất trung lập, tức là không thể hiện sự ủng hộ hay phản đối. Sản lượng của những nhà sản xuất này không được tính đến khi so sánh giữa tương quan sản lượng của những nhà sản xuất ủng hộ và phản đối đề nghị điều tra. Hiệp định SCM cũng cho phép người làm công (employees) hoặc đại diện những người làm công cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự trong nước được quyền nộp hồ sơ đề nghị điều tra hoặc được bày tỏ sự ủng hộ đối với đề nghị điều tra đánh thuế chống trợ cấp. . Đồng thời, tổng sản lượng của các nhà sản xuất tại nước nhập khẩu thể hiện sự ủng hộ đối với đề nghị điều tra phải chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của ngành sản xuất sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp. Nói một cách đơn giản, sản lượng cộng gộp của những nhà sản xuất ủng hộ đề nghị điều tra phải lớn hơn sản lượng cộng gộp của những nhà sản xuất phản đối đề nghị này và phải chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng của ngành liên quan. Trước khi bắt đầu điều tra, nước có sản phẩm xuất khẩu là đối tượng bị đề nghị điều tra sẽ được mời tham vấn nhằm làm rõ các vấn đề có liên quan đến nội dung hồ sơ đề nghị cũng như nhằm đi đến nhất trí một giải pháp được các bên cùng nhất trí để giải quyết vấn đề. Hiệp định SCM không giải thích thế nào được coi là một giải pháp được các bên cùng nhất trí mà để tuỳ ý các nước liên quan thỏa thuận với nhau. Do đó, giai đoạn tham vấn có vai trò như một khâu hòa giải sớm giữa chính phủ hai nước có liên quan. 2.2. Quá trình điều tra Theo qui định của Hiệp định SCM, điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp phải kết thúc trong thời hạn 12 tháng, và trong trường hợp đặc biệt chỉ được kéo dài tới tối đa là 18 tháng kể từ khi chính thức bắt đầu điều tra. Các bên liên quan trong quá trình điều tra gồm: - Nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài; hoặc - Nhà nhập khẩu sản phẩm đang bị điều tra về trợ cấp; hoặc - Hiệp hội kinh doanh hay thương mại mà đa số thành viên là các nhà sản xuất, xuất khẩu, hoặc nhập khẩu sản phẩm đang bị điều tra về trợ cấp; - Nhà sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu; hoặc - Hiệp hội kinh doanh hay thương mại có đa số thành viên cũng sản xuất sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu; - Các đối tượng khác. Các bên liên quan được cơ quan điều tra của nước nhập khẩu thông báo về cuộc điều tra, yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ điều tra và được tạo cơ hội để trình bày những bằng chứng và lập luận, giải trình về các vấn đề liên quan trong quá trình điều tra. Ngoài ra, các bên liên quan cũng được quyền tiếp cận thong tin mà cơ quan điều tra của nước nhập khẩu nắm giữ, trừ những thông tin mật. Các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm bị điều tra làm đầu vào sản xuất hoặc các hiệp hội người tiêu dùng tại nước nhập khẩu nếu sản phẩm bị điều tra thường được phân phối thông qua kênh bán lẻ cũng có quyền được cơ quan điều tra tạo cơ hội để trình bày hoặc cung cấp thông tin liên quan tới trợ cấp, thiệt hại và quan hệ nhân quả đang được tiến hành điều tra. Diễn biến của quá trình điều tra có thể được tóm tắt như sau: (i) Ngay sau khi chính thức bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu phải công bố quyết định tiến hành điều tra và thông báo cho chính phủ nước xuất khẩu có sản phẩm bị điều tra cũng như các bên có quyền lợi lien quan. Công bố này cần bao gồm các nội dung như: tên nước xuất khẩu và sản phẩm bị điều tra, ngày bắt đầu điều tra, tóm tắt các căn cứ mà những người đứng tên trong hồ sơ đề nghị điều tra đưa ra về trợ cấp và thiệt hại, địa chỉ lien lạc của cơ quan điều tra, thời hạn dành cho các nước quan tâm và các bên lien quan bày tỏ quan điểm. Các nhà xuất khẩu và chính phủ nước xuất khẩu sẽ được cung cấp toàn văn hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng thuế chống trợ cấp mà cơ quan điều tra đã nhận được. Các bên liên quan khác cũng được quyền yêucầu cơ quan điều tra cho phép tiếp cận văn bản hồ sơ này; (ii) Cơ quan điều tra gửi bản câu hỏi điều tra cho các nhà xuất khẩu, nhà sản xuất của nước xuất khẩu và chính phủ nước xuất khẩu có sản phẩm đang bị điều tra. Các đối tượng được gửi câu hỏi điều tra sẽ được dành tối thiểu 30 ngày kể từ ngày nhận được câu hỏi để hoàn thành bản trả lời. Bản câu hỏi điều tra thường bao gồm các yêu cầu về: thông tin chung về doanh nghiệp (hình thức pháp nhân, các cổ đông lớn, mô hình tổ chức; công ty mẹ/con, chi nhánh, các sản phẩm của doanh nghiệp, v.v.); mô tả sản phẩm liên quan; số liệu thống kê (về sản lượng, doanh số, doanh thu ròng, năng lực sản xuất, công suất, tồn kho/dự trữ, số lượng nhân công, giá trị đầu tư, v.v.); thông tin về xuất khẩu sản phẩm liên quan sang nước nhập khẩu (các giao dịch xuất khẩu với khách hàng quan hệ và có quan hệ, v.v.); thông tin về chương trình/biện pháp trợ cấp; v.v. (iii) Trong quá trình điều tra, các bên liên quan và chính phủ nước xuất khẩu có quyền đề nghị với cơ quan điều tra tạo cơ hội cho trình bày các bằng chứng, thông tin liên quan cũng như ý kiến, nhận xét bằng lời trực tiếp hoặc thong qua văn bản. Tuy nhiên, mọi trình bày của các bên liên quan lẫn của đại diện chính phủ nước xuất khẩu cuối cùng đều phải thể hiện lại dưới dạng văn bản để tổng hợp vào hồ sơ. Các quyết định của cơ quan điều tra cũng chỉ được căn cứ trên cơ sở các thông tin, lập luận lưu dưới dạng văn bản này. (iv) Điều tra thực tế tại cơ sở (on-the-spot investigation): Cơ quan điều tra có thể tiến hành các chuyến điều tra tại lãnh thổ nước xuất khẩu nếu cần thiết, nhưng phải thông báo trước một khoảng thời gian hợp lý cho chính phủ nước xuất khẩu và không gặp phải sự phản đối của chính phủ này. Ngoài ra, cơ quan điều tra cũng có thể tiến hành điều tra tại cơ sở của nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài và xem xét các hồ sơ lưu trữ của doanh nghiệp đó nếu được sự đồng ý của doanh nghiệp và chính phủ nước liên quan sau khi nhận được thông báo về ý định điều tra của cơ quan điều tra. Thông thường các cuộc điều tra tại cơ sở được tiến hành sau khi cơ quan điều tra đã nhận được trả lời bản câu hỏi điều tra nhằm thẩm tra các thông tin đã nhận được hoặc thu thập thêm thông tin còn thiếu. (v) Nếu chính phủ nước xuất khẩu hoặc bên liên quan nào từ chối cung cấp các thông tin cần thiết trong thời hạn hợp lý hoặc cố tình ngăn cản điều tra thì cơ quan điều tra được quyền đưa ra các kết luận sơ bộ và chính thức căn cứ theo những dữ kiện thực tế mà cơ quan này có thể thu thập được (facts available). (vi) Khi cơ quan điều tra đã có kết luận sơ bộ về vụ việc: - Nếu mức trợ cấp thấp hơn mức ngưỡng cho phép (de minimis Mức ngưỡng này là 1% giá trị mỗi đơn vị sản phẩm bị điều tra đối với trợ cấp do nước thành viên phát triển sử dụng, là 2% với nước thành viên đang phát triển và 3% với nước thành viên kém phát triển nhất, nước thành viên đang phát triển có GNP bình quân đầu người mỗi năm dưới 1.000 USD và nước thành viên đang phát triển đã chấm dứt trợ cấp xuất khẩu trước năm 2003. ), hoặc khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp thực tế hoặc có tiềm năng là không đáng kể, hoặc thiệt hại không đáng kể thì cơ quan điều tra sẽ chấm dứt điều tra. - Nếu kết luận sơ bộ cho thấy rằng có tồn tại trợ cấp và thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước là do hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra: + cơ quan điều tra có thể áp dụng các biện pháp tạm thời để ngăn chặn thiệt hại xảy ra trong quá trình điều tra. Biện pháp tạm thời có thể dưới hình thức thuế chống trợ cấp tạm thời (provisional duties) được bảo đảm bằng một khoản tiền đặt cọc (cash deposit) hoặc cam kết nộp thuế (bond) với giá trị tương đương với mức trợ cấp tạm tính. Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là ngày thứ 61 tính từ ngày chính thức bắt đầu điều tra về trợ cấp và chỉ được kéo dài tối đa 4 tháng; + thay vì áp dụng biện pháp tạm thời, cơ quan điều tra có thể chấp thuận cam kết tự nguyện của chính phủ nước xuất khẩu hoặc nhà xuất khẩu: chính phủ nước xuất khẩu cam kết chấm dứt hoặc hạn chế trợ cấp hoặc áp dụng biện pháp khác để điều chỉnh tác động của trợ cấp .Biện pháp khác để điều chỉnh tác động của trợ cấp. chẳng qua là cách nói ngoại giao để đề cập tới các biện pháp hạn chế định lượng (Theo tài liệu .The Law of Subsidies under GATT/WTO system.). . Nhà xuất khẩu cam kết tăng giá sản phẩm xuất khẩu tới mức đủ để loại bỏ thiệt hại do trợ cấp gây ra cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu và cam kết này được sự đồng ý của chính phủ nước xuất khẩu; Quá trình điều tra có thể bị đình chỉ hay chấm dứt khi cơ quan điều tra của nước nhập khẩu chấp thuận các cam kết trên. Tuy nhiên, nếu chính phủ nước xuất khẩu hoặc cơ quan điều tra nước nhập khẩu vẫn muốn hoàn tất cuộc điều tra đã khởi xướng thì điều tra vẫn được tiếp tục. Nếu kết luận điều tra cuối cùng cho thấy không có trợ cấp hoặc thiệt hại thì cam kết tự động hết hiệu lực, trừ trường hợp chính do sự tồn tại của cam kết mà điều tra mới đi đến kết luận đó. Nếu kết luận điều tra cuối cùng cho thấy có trợ cấp và thiệt hại thì cam kết vẫn tiếp tục được thi hành; (vi) Quyết định đánh thuế chống trợ cấp chính thức và thu thuế: - Trong thời hạn hợp lý trước khi đưa ra kết luận điều tra cuối cùng, cơ quan điều tra phải thông báo cho chính phủ nước xuất khẩu và các bên liên quan về các dữ kiện thực tế mà cơ quan này đã căn cứ vào đó để quyết định áp dụng thuế chống trợ cấp hay không áp dụng để các bên có đủ thời gian bảo vệ lợi ích của mình. + Nếu điều tra đã thực hiện theo đúng thủ tục và trình tự quy định và đi đến kết luận rằng các điều kiện để đánh thuế chống trợ cấp đã hội đủ, cơ quan điều tra sẽ xác định mức thuế chống trợ cấp cần thiết và ra quyết định đánh thuế chống trợ cấp chính thức. Mức thuế này không được lớn hơn giá trị của trợ cấp vì mục đích của việc đánh thuế chỉ là nhằm loại bỏ thiệt hại do trợ cấp gây ra đối với ngành sản xuất trong nước. Nếu trước đó thuế tạm thời đã được tạm tính và tạm thu dưới hình thức nhà nhập khẩu đặt cọc một khoản tiền hoặc nộp cam kết nộp thuế (bond) thì sau khi có quyết định cuối cùng, cơ quan điều tra có thể tính lại khoản thuế chính xác phải thu cho thời gian áp dụng thuế tạm thời trước đó theo mức thuế chính thức. Nếu khoản tiền tạm tính và tạm thu trước đó thấp hơn thuế chính thức thì nhà nhập khẩu không phải nộp thêm phần tiền chênh lệch, còn nếu lớn hơn thuế chính thức thì nhà nhập khẩu sẽ được hoàn lại phần tiền chênh lệch (nếu trước đó phải đặt cọc) hoặc được trả lại cam kết nộp thuế (bond); + Nếu kết luận điều tra cuối cùng là không có trợ cấp hoặc thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước thì nhà nhập khẩu sẽ được hoàn lại mọi khoản tiền đặt cọc hoặc được trả lại cam kết nộp thuế (bond) đã nộp trước đó; - Trong trường hợp đặc biệt khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại khó có thể khắc phục và do khối lượng lớn hàng nhập khẩu được nước ngoài trợ cấp gây ra trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, cơ quan này có thể quyết định đánh thuế chống trợ cấp chính thức cả với các sản phẩm từ nước trợ cấp được nhập khẩu vào trong nước trong phạm vi 90 ngày trước ngày bắt đầu áp dụng thuế tạm thời nhằm ngăn chặn thiệt hại tái diễn. 2.3. Nguyên tắc áp dụng và rà soát thuế chống trợ cấp 2.3.1. Nguyên tắc áp dụng thuế chống trợ cấp - Mức thuế chống trợ cấp không được cao hơn giá trị trợ cấp tính theo đơn vị sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp; - Thuế chống trợ cấp phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu từ tất cả các nước bị xác định là có trợ cấp gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu, trừ hàng nhập khẩu từ những nước đã tuyên bố chấm dứt trợ cấp hoặc đã đưa ra cam kết và được cơ quan điều tra chấp thuận. Tuy nhiên, mức thuế cụ thể áp dụng với hàng nhập khẩu của mỗi nước khác nhau cũng khác nhau phụ thuộc vào mức độ trợ cấp và thiệt hại cụ thể của từng trường hợp. - Nếu có nhà xuất khẩu do thuộc nước xuất khẩu bị áp dụng thuế chống trợ cấp nhưng trên thực tế đã không được điều tra (vì một lý do nào đó chứ không phải do từ chối hợp tác với cơ quan điều tra) thì cơ quan điều tra sẽ phải tiến hành điều tra nhanh để xác định một mức thuế riêng hợp lý cho nhà xuất khẩu đó. 2.3.2. Thời hạn áp dụng và rà soát thuế chống trợ cấp Thuế chống trợ cấp được áp dụng chừng nào còn cần thiết để đối phó với trợ cấp của nước ngoài gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, để ngăn chặn việc lạm dụng thuế chống trợ cấp, Hiệp định SCM quy định thời hạn áp dụng thuế chống trợ cấp tối đa là 5 năm kể từ ngày bắt đầu áp dụng. Nếu muốn kéo dài thời hạn trên thì cơ quan điều tra bắt buộc phải tiến hành rà soát việc áp dụng thuế chống trợ cấp theo các thủ tục như điều tra mới trước khi thời hạn áp dụng 5 năm nói trên kết thúc. Cơ quan điều tra có thể chủ động tiến hành rà soát hoặc tiến hành rà soát theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Trong trường hợp rà soát khi có yêu cầu, điều kiện để tiến hành rà soát là khoảng thời gian từ lúc áp dụng thuế chống trợ cấp chính thức cho đến lúc có đề nghị rà soát đã đủ dài và đơn đề nghị phải cung cấp được các thông tin hợp lý chứng minh cho sự cần thiết phải tiến hành rà soát. Mục đích của việc rà soát theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước là để xác định xem có cần tiếp tục đánh thuế để đối phó với trợ cấp hay không, nếu thay đổi mức thuế hoặc chấm dứt đánh thuế thì thiệt hại có thể tiếp diễn hay tái diễn hay không. Cơ quan điều tra phải cố gắng kết thúc rà soát càng nhanh càng tốt, thông thường trong vòng 12 tháng kể từ ngày bắt đầu tiến hành rà soát. Trong khi chờ kết luận rà soát của cơ quan điều tra, thuế chống trợ cấp vẫn tiếp tục được áp dụng. Nếu kết luận rà soát cho thấy vẫn cần áp dụng thuế chống trợ cấp, thuế này có thể được áp dụng tiếp trong vòng 5 năm kể từ ngày có kết luận nói trên.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrợ cấp và các biện pháp đối kháng.doc
Tài liệu liên quan