Tóm tắt cơ bản về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam

Như Website Chính phủ đã đưa tin, ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại toàn cầu (WTO), kết thúc chặng đường 11 năm với hơn 200 cuộc đàm phán song phương và đa phương đầy khó khăn, phức tạp. Để trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, nên Việt Nam yêu cầu và được WTO chấp nhận lộ trình thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh . Về cam kết đa phương Kết quả mà Việt Nam đàm phán được là trong khoảng thời gian 12 năm (không muộn hơn 31/12/2018) WTO chấp nhận coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu Việt Nam chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường" đối với Việt Nam. Chế độ "phi thị trường" này chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, dù Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi Việt Nam vào WTO. Riêng trường hợp Việt Nam vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì sẽ được xem xét, xử lý theo quy định của WTO. Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ ngành dệt may. Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm, nhìn chung Việt Nam duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, Việt Nam còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính khuyến nông (như hỗ trợ thủy lợi) là trợ cấp "xanh", được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất, nhập khẩu hàng hóa, tuân thủ quy định WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm. Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của Việt Nam trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo, tạp chí .

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1958 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt cơ bản về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa các công ty nước ngoài trên thị trường nội địa cũng như trong việc tranh thủ các cơ hội mới để đẩy mạnh xuất khẩu. 4. Năng lực của  đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn yếu: Tuy đã được tăng cường nhiều trong thời gian qua nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng. CÁC DOANH NGHIỆP PHẢI LÀM GÌ TRONG TIẾN TRÌNH HNKTQT Doanh nghiệp là trung tâm của hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế chỉ có thể thành công với sự nỗ lực tối đa của các doanh nghiệp vì các doanh nghiệp cụ thể hóa những cơ hội và đấu tranh vượt qua các thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Để có thể hạn chế tối thiểu những bất lợi và tận dụng tối đa các cơ hội do HNKTQT đem lại, các doanh nghiệp cần triển khai sớm những việc sau đây: 1. Nghiên cứu quán triệt các chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tê: nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW để có định hướng đúng đắn, đồng thời đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu rõ nội dung cụ thể của các chương trình hợp tác trong khuôn khổ các tổ chức WTO, ASEAN, APEC, ASEM, v.v… nhằm định hình được rõ nét những việc mình cần làm, trước mắt  và lâu dài, cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chung của cả nước. 2. Sự thành công trong quá trình hội nhập  kinh tế tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của từng doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải tự xác định chiến lược riêng cho đơn vị mình. Một mặt, phải quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung đầu tư cho sản xuất các mặt hàng có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh, lấy thị trường làm định hướng. Mặt khác, cần khai thác các cơ hội từ các cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, khuyếch trương đầu tư. Hạch toán chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Xem thị trường trong nước là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Chiến lược 2 trọng điểm sản xuất và kinh doanh tiêu thụ là đòi hỏi rất thực tiễn đảm bảo thắng lợi cho mỗi doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 3. Cần nắm vững các cam kết cụ thể về ưu đãi thuế quan, cắt giảm hàng rào phi quan thuế, cắt giảm Quota, hạn chế số lượng, chế độ giấy phép, thủ tục và chế độ hải quan, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh động thực vật, v.v... Các doanh nghiệp cần đảm bảo rằng các thông tin, tư liệu trên đây phải luôn được cập nhật. UBQG-HTKTQT, Bộ Thương mại và các Bộ, Ngành chủ quản là các cơ quan có trách nhiệm phải cung cấp, hướng dẫn các doanh nghiệp phân tích, sử dụng các thông tin, tư liệu này. 4. Các doanh nghiệp cần có bộ phận chuyên trách về hội nhập kinh tế quốc tế để biến các thông tin, cam kết quốc tế của Việt Nam thành lợi ích của chính đơn vị mình. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần: -        Thực hiện đúng các thủ tục để được hưởng ưu đãi khi đàm phán, ký kết hợp đồng, nhằm đẩy mạnh được xuất khẩu sang các thị trường có ưu đãi; -        Nghiên cứu đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, tăng năng suất... để đảm bảo cạnh tranh được với hàng nhập khẩu khi Việt Nam thực hiện cam kết cắt giảm thuế quan; -        Xây dựng chương trình hành động cụ thể của mình kết hợp giữa năng lực sản xuất với năng lực kinh doanh để đảm bảo không ngừng nâng cao sức cạnh tranh, kết hợp với các lợi thế cam kết quốc tế, đưa được hàng của mình ra thị trường nước ngoài, khẳng định được vị trí trên trường quốc tế; -        Nghiên cứu tình hình thị trường, cập nhật chính sách kinh tế-thương mại của các nước nhập khẩu hàng của Việt Nam. 5. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, các doanh nghiệp cần quan tâm tổng kết thực tiễn, đối chiếu với các cam kết quốc tế về những vấn đề cụ thể như: chính sách của các nước đối với hàng hóa cuả Việt Nam thế nào? mức thuế cao hay thấp? những trở ngại, bất hợp lý của các chế độ, chính sách, thủ tục phi quan thuế trong xuất nhập khẩu và đầu tư đối với ta để phản ánh cho các cơ quan Nhà nước tổng hợp đưa ra đàm phán đòi các nước sửa đổi. Các doanh nghiệp cần thông qua các đơn vị chủ quản hoặc các Hiệp hội ngành hàng để phản ánh nguyện vọng và đóng góp thiết thực vào việc xây dựng chiến lược và phương án đàm phán cụ thể với từng tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. 6. Vấn đề đào tạo cán bộ ở các doanh nghiệp: cần được phân loại, qui hoạch theo yêu cầu công việc để đào tạo đúng năng lực, sở trường. Đào tạo cần kết hợp đáp ứng những yêu cầu mới phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt cần lưu ý đào tạo 3 loại cán bộ sau đây: -     Công nhân lành nghề trong từng lĩnh vực, dây chuyền sản xuất. -     Cán bộ có trình độ kinh doanh quốc tế giỏi: am hiểu sản xuất, am hiểu thị trường, kỹ thuật đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng và giỏi ngoại ngữ. -     Cán bộ pháp lý đủ trình độ tư vấn kinh doanh và giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. 7. Các nhà sản xuất và các nhà phân phối phải xây dựng mạng lưới phân phối sâu rộng để bảo vệ quyền lợi lâu dài trên thị trường trong nước. 8. Phải liên kết với nhau tạo nên sức mạnh mới của doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường trong nước và đi ra thị trường thế giới. 10 lợi ích khi gia nhập WTO  (Xem chi tiết) Hệ thống giúp xúc tiến các hòa ước. Các tranh luận được điều khiển mang tính xây dựng. Các quy tắc làm cho cuộc sống dễ dàng hơn với tất cả mọi người. Tự do giao dịch giúp cắt giảm chi phí. Cung cấp nhiều chọn lựa hơn về sản phẩm và chất lượng. Thương mại làm tăng thu nhập. Thương mại kích thích tăng trưởng kinh tế. Các nguyên tắc căn bản nâng cao mức sống. Các chính phủ đuợc bảo vệ bởi các hàng lang pháp lý. Hệ thống khuyến khích xây dựng chính phủ tốt. Tuy nhiên, có một số các thỏa thuận của WTO bao gồm các điều khoản liên quan đến môi trường, ví dụ như: · Điều XX của Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) (và cũng là Điều 14 của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ - GATS): các chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá nhằm bảo vệ đời sống và sức khoẻ của con người, động vật, thực vật được miễn trừ khỏi các quy tắc thông thường của GATT trong những điều kiện nhất định. · WTO cho phép đề xuất và áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (tức là các tiêu chuẩn sản phẩm và công nghiệp), trong đó có các biện pháp an toàn và vệ sinh thực phẩm nhằm mục đích bảo vệ môi trường;  · Về hoạt động thương mại trong nông nghiệp, WTO cho phép các chương trình môi trường được miễn trừ khỏi việc cắt giảm chính sách trợ giá của Chính phủ; · Về chính sách trợ giá và bù thuế, WTO cho phép trợ giá đến 20% giá thành cố định khi áp dụng các luật môi trường mới; · Về chính sách sở hữu trí tuệ, WTO cho phép các chính phủ có thể từ chối cấp bằng cho các phát minh đe dọa cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật, hoặc gây rủi ro thiệt hại nghiêm trọng tới môi trường (Điều 27 của Hiệp định về Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại - TRIPS). Như vậy, việc gắn kết các quy định về môi trường trong các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương (Multilateral Environmental Agreements-MEAs) với các hoạt động thương mại quốc tế được thể hiện và thực hiện thông qua các hiệp định thương mại đa phương của WTO.  Các thách thức về môi trường khi gia nhập WTO Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan tới môi trường ngày càng được các nước sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ thuật. Những biện pháp này, thường được gọi là các “hàng rào xanh”, và được các nước phát triển và đang phát triển ở trình độ cao sử dụng tương đối phổ biến và hiệu quả trong việc kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường và bảo vệ các ngành sản xuất có liên quan trong nước. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một số “hàng rào xanh” do các nước phát triển đưa ra chính là các thách thức về môi trường trong hoạt thương mại quốc tế khi gia nhập WTO. Có 2 loại “hàng rào xanh” thường được áp dụng, đó là: 1.Áp dụng đánh thuế tài nguyên: các nước phát triển xây dựng các tiêu chuẩn hàng hoá trong đó quy định nghiêm ngặt hàm lượng tài nguyên thô như là một biện pháp bảo vệ môi trường, ngăn chặn khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, hàng hoá của các nước đang phát triển muốn nhập khẩu vào các nước này sẽ phải chịu thuế nhiều hơn vì hàm lượng tài nguyên thô lớn, điều đó hạn chế lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển trong sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên;  2. Sử dụng các tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn, dán nhãn sinh thái như rào cản bảo hộ sản phẩm sản xuất trong nước, chống lại các sản phẩm và công nghệ nhập khẩu với lý do các sản phẩm và công nghệ này không đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm của nước sở tại. Trong lịch sử hoạt động của mình, WTO và trước đó là GATT đã phải xem xét nhiều vụ việc tranh chấp của các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng “hàng rào xanh”. Ở đây đưa ra 2 vụ việc điển hình được nhắc đến nhiều trong thương mại quốc tế:  ·  Vụ kiện “cá ngừ-cá heo” do Mexico và một số nước khác kiện Hoa Kỳ trong khuôn khổ GATT vào năm 1991: Tại vùng biển nhiệt đới phía Tây Thái Bình Dương, cá ngừ vàng thường bơi thành đàn phía dưới đàn cá heo. Khi đánh bắt cá ngừ bằng lưới, thường cá heo cũng bị mắc lưới, sau đó dù có được gỡ ra khỏi lưới và thả lại vào biển, cá heo vẫn bị chết. Chính vì vậy Hoa Kỳ đã ban hành tiêu chuẩn bảo vệ cá heo đối với các tàu đánh bắt cá ngừ trong vùng biển này. Nếu 1 nước xuất khẩu cá ngừ vào Hoa Kỳ không chứng tỏ được với các cơ quan thẩm quyền Hoa Kỳ về việc tuân thủ tiêu chuẩn này thì Hoa Kỳ sẽ cấm nhập khẩu cá từ nước đó. Đây chính là lý do Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá ngừ từ Mexico. Tuy nhiên, GATT đã không chấp thuận vụ kiện này vì cho rằng Hoa Kỳ không vi phạm các quy định của GATT. Sau đó vào năm 2002, Hoa Kỳ và Mexico đã hoà giải vụ việc “ngoài khuôn khổ pháp luật”. · Vụ kiện của Canada chống Cộng đồng Châu Âu thực hiện cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang: Ngày 28/ 5 1998, Canada đã yêu cầu Cộng đồng Châu Âu tổ chức hội đàm về các biện pháp do Pháp áp đặt nhằm cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang, dựa trên các quy định của Nghị định của Chính phủ Pháp ngày 24/11/1996. Sau đó ngày 8/10/1998, Canada yêu cầu thành lập Bồi thẩm đoàn của WTO để giải quyết. Ngày 18/10/2000 và sau đó ngày 12/3/2001 Bồi thẩm đoàn và Ban kháng cáo của WTO đã lần lượt từ chối không can thiệp vào lệnh của Pháp cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang vì cho rằng các hiệp định của WTO ủng hộ các nước thành viên bảo vệ sức khỏe và an toàn của con người theo mức độ mà các nước này thấy phù hợp. Các cơ hội về môi trường khi gia nhập WTO Khi chính thức là thành viên WTO, Việt Nam sẽ được đối xử công bằng hơn trong thương mại quốc tế, nhất là khi các nước muốn áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với Việt Nam. Ví dụ khi Hoa Kỳ muốn áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về kháng sinh đối với hàng nông thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam thì Hoa Kỳ phải có trách nhiệm thông báo với Việt Nam về các quy định kỹ thuật này ít nhất là trước 60 ngày theo nguyên tắc minh bạch hoá và cũng phải đảm bảo rằng các sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ cũng phải áp dụng những quy định này theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Điều này trước đây và hiện nay Việt Nam vẫn thường bị phân biệt đối xử khi xuất khẩu sản phẩm sang Châu Âu và Bắc Mỹ. Hay khi chúng ta muốn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với thực  phẩm khi nhập vào Việt Nam để ngăn ngừa dịch bệnh thì chúng ta cũng có quyền ban hành những quy định kỹ thuật cho sản phẩm này đảm bảo các biện pháp vệ sinh an toàn, miễn rằng các quy định này phải được thông báo trước với các nước thành viên, không gây những cản trở không cần thiết trong thương mại và sản phẩm trong nước cũng được áp dụng các quy định này. Việc giải quyết các vụ kiện thương mại liên quan đến môi trường trong khuôn khổ WTO có một ví dụ rất thú vị về việc phá “hàng rào xanh” nhờ áp dụng quy tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO. Đó là vụ kiện được biết đến như “vụ kiện tôm-rùa biển” do Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan chống lại lệnh cấm nhập khẩu của Hoa Kỳ. Đầu năm 1997 Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đưa ra vụ kiện chống Hoa Kỳ ban hành lệnh cấm nhập khẩu tôm và các sản phẩm từ tôm với lý do bảo vệ rùa biển. Theo Luật các giống loài quý hiếm Hoa Kỳ ban hành năm 1973, ngư dân Hoa Kỳ đánh bắt tôm cần phải sử dụng dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc lưới để bảo vệ loài giống đang có nguy cơ diệt chủng vì các hoạt động của con người. Năm 1989, tại điều 609 Luật Dân sự Hoa Kỳ, quy định này đã được áp dụng cả đối với các tàu đánh bắt tôm của các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ .Ban kháng cáo của WTO cho rằng các biện pháp của Hoa Kỳ bảo vệ rùa biển là phù hợp với Điều XX của GATT,  tuy nhiên lại không phù hợp với nguyên tắc tối huệ quốc. Lý do là đã có sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối với các thành viên khác nhau của WTO. Trước đó, tuân theo quy định của Điều 11 và Điều 12 Hiệp định TBT, Hoa Kỳ đã dành ưu đãi cho các nước vùng biển Caribbe bằng sự trợ giúp kỹ thuật và tài chính và cho phép có giai đoạn chuyển đổi dài để ngư dân các nước này có thể sử dụng các dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc vào lưới khi đánh bắt tôm và xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Gia nhập WTO, Việt nam sẽ còn có cơ hội giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý của WTO để xây dựng và sử dụng hợp lý "hàng rào xanh" nhằm mục đích bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, đồng thời bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường. Các giải pháp đáp ứng Tham gia WTO, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để hội nhập xu thế toàn cầu hoá trong phát triển kinh tế, đảm bảo vừa bảo vệ quyền lợi của mình, vừa phù hợp với các quy định của quốc tế. Riêng trong lĩnh vực các hoạt động thương mại có liên quan đến môi trường, cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp trước mắt sau đây: · Ban hành các quy định về cấm nhập khẩu các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hàng hoá thân thiện môi trường (nhãn sinh thái – ecolabel), các quy định cụ thể về thuế và phí môi trường và các quy định về cơ sở khoa học áp dụng các biện pháp “hàng rào xanh” phù hợp với quy định của WTO; · Tích cực, chủ động tham gia vòng đàm phán Doha, mạnh dạn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương và của WTO để giải quyết một cách bình đẳng các tranh chấp thương mại quốc tế · Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ước môi trường mà Việt Nam đã ký kết tham gia với các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Nghiên cứu kỹ và có giải pháp chính sách đồng bộ về quản lý thương mại các hàng hoá và dịch vụ liên quan đến môi trường · Chuẩn bị tốt nguồn lực để vượt qua các hàng rào kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về môi trường của quy trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, coi đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận cấu thành trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI VỀ MÔI TRƯỜNG KHI GIA NHẬP WTO 03:46-17/11/2006 Trong các hoạt động liên quan đến các vấn đề môi trường, nhiệm vụ duy nhất của WTO là nghiên cứu các vấn đề xuất hiện khi các chính sách môi trường có tác động đáng kể đến thương mại. Các thành viên của WTO cho rằng WTO không phải là cơ quan môi trường, vì vậy không muốn can thiệp vào các chính sách môi trường quốc gia hoặc quốc tế, hoặc thiết lập các tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, có một số các thỏa thuận của WTO bao gồm các điều khoản liên quan đến môi trường, ví dụ như: · Điều XX của Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại (GATT) (và cũng là Điều 14 của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ - GATS): các chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá nhằm bảo vệ đời sống và sức khoẻ của con người, động vật, thực vật được miễn trừ khỏi các quy tắc thông thường của GATT trong những điều kiện nhất định. · WTO cho phép đề xuất và áp dụng các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (tức là các tiêu chuẩn sản phẩm và công nghiệp), trong đó có các biện pháp an toàn và vệ sinh thực phẩm nhằm mục đích bảo vệ môi trường; · Về hoạt động thương mại trong nông nghiệp, WTO cho phép các chương trình môi trường được miễn trừ khỏi việc cắt giảm chính sách trợ giá của Chính phủ; · Về chính sách trợ giá và bù thuế, WTO cho phép trợ giá đến 20% giá thành cố định khi áp dụng các luật môi trường mới; · Về chính sách sở hữu trí tuệ, WTO cho phép các chính phủ có thể từ chối cấp bằng cho các phát minh đe dọa cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật và thực vật, hoặc gây rủi ro thiệt hại nghiêm trọng tới môi trường (Điều 27 của Hiệp định về Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại - TRIPS). Như vậy, việc gắn kết các quy định về môi trường trong các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương (Multilateral Environmental Agreements-MEAs) với các hoạt động thương mại quốc tế được thể hiện và thực hiện thông qua các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Các thách thức về môi trường khi gia nhập WTO Các biện pháp quản lý thương mại có liên quan tới môi trường ngày càng được các nước sử dụng như những biện pháp quan trọng của hệ thống hàng rào kỹ thuật. Những biện pháp này, thường được gọi là các “hàng rào xanh”, và được các nước phát triển và đang phát triển ở trình độ cao sử dụng tương đối phổ biến và hiệu quả trong việc kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến môi trường và bảo vệ các ngành sản xuất có liên quan trong nước. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một số “hàng rào xanh” do các nước phát triển đưa ra chính là các thách thức về môi trường trong hoạt thương mại quốc tế khi gia nhập WTO. Có 2 loại “hàng rào xanh” thường được áp dụng, đó là: 1. Áp dụng đánh thuế tài nguyên: các nước phát triển xây dựng các tiêu chuẩn hàng hoá trong đó quy định nghiêm ngặt hàm lượng tài nguyên thô như là một biện pháp bảo vệ môi trường, ngăn chặn khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, hàng hoá của các nước đang phát triển muốn nhập khẩu vào các nước này sẽ phải chịu thuế nhiều hơn vì hàm lượng tài nguyên thô lớn, điều đó hạn chế lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển trong sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên; 2. Sử dụng các tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn, dán nhãn sinh thái như rào cản bảo hộ sản phẩm sản xuất trong nước, chống lại các sản phẩm và công nghệ nhập khẩu với lý do các sản phẩm và công nghệ này không đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm của nước sở tại. Trong lịch sử hoạt động của mình, WTO và trước đó là GATT đã phải xem xét nhiều vụ việc tranh chấp của các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng “hàng rào xanh”. Ở đây đưa ra 2 vụ việc điển hình được nhắc đến nhiều trong thương mại quốc tế: ·  Vụ kiện “cá ngừ-cá heo” do Mexico và một số nước khác kiện Hoa Kỳ trong khuôn khổ GATT vào năm 1991: Tại vùng biển nhiệt đới phía Tây Thái Bình Dương, cá ngừ vàng thường bơi thành đàn phía dưới đàn cá heo. Khi đánh bắt cá ngừ bằng lưới, thường cá heo cũng bị mắc lưới, sau đó dù có được gỡ ra khỏi lưới và thả lại vào biển, cá heo vẫn bị chết. Chính vì vậy Hoa Kỳ đã ban hành tiêu chuẩn bảo vệ cá heo đối với các tàu đánh bắt cá ngừ trong vùng biển này. Nếu 1 nước xuất khẩu cá ngừ vào Hoa Kỳ không chứng tỏ được với các cơ quan thẩm quyền Hoa Kỳ về việc tuân thủ tiêu chuẩn này thì Hoa Kỳ sẽ cấm nhập khẩu cá từ nước đó. Đây chính là lý do Hoa Kỳ cấm nhập khẩu cá ngừ từ Mexico. Tuy nhiên, GATT đã không chấp thuận vụ kiện này vì cho rằng Hoa Kỳ không vi phạm các quy định của GATT. Sau đó vào năm 2002, Hoa Kỳ và Mexico đã hoà giải vụ việc “ngoài khuôn khổ pháp luật”. · Vụ kiện của Canada chống Cộng đồng Châu Âu thực hiện cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang: Ngày 28/ 5 1998, Canada đã yêu cầu Cộng đồng Châu Âu tổ chức hội đàm về các biện pháp do Pháp áp đặt nhằm cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang, dựa trên các quy định của Nghị định của Chính phủ Pháp ngày 24/11/1996. Sau đó ngày 8/10/1998, Canada yêu cầu thành lập Bồi thẩm đoàn của WTO để giải quyết. Ngày 18/10/2000 và sau đó ngày 12/3/2001 Bồi thẩm đoàn và Ban kháng cáo của WTO đã lần lượt từ chối không can thiệp vào lệnh của Pháp cấm nhập khẩu amiang và các sản phẩm chứa amiang vì cho rằng các hiệp định của WTO ủng hộ các nước thành viên bảo vệ sức khỏe và an toàn của con người theo mức độ mà các nước này thấy phù hợp. Các cơ hội về môi trường khi gia nhập WTO Khi chính thức là thành viên WTO, Việt Nam sẽ được đối xử công bằng hơn trong thương mại quốc tế, nhất là khi các nước muốn áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với Việt Nam. Ví dụ khi muốn áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về kháng sinh đối với hàng nông thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam thì Hoa Kỳ phải có trách nhiệm thông báo với Việt Nam về các quy định kỹ thuật này ít nhất là trước 60 ngày theo nguyên tắc minh bạch hoá và cũng phải đảm bảo rằng các sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ cũng phải áp dụng những quy định này theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Điều này trước đây và hiện nay Việt Nam vẫn thường bị phân biệt đối xử khi xuất khẩu sản phẩm sang Châu Âu và Bắc Mỹ. Hay khi chúng ta muốn đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với thực  phẩm khi nhập vào Việt Nam để ngăn ngừa dịch bệnh thì chúng ta cũng có quyền ban hành những quy định kỹ thuật cho sản phẩm này đảm bảo các biện pháp vệ sinh an toàn, miễn rằng các quy định này phải được thông báo trước với các nước thành viên, không gây những cản trở không cần thiết trong thương mại và sản phẩm trong nước cũng được áp dụng các quy định này. Việc giải quyết các vụ kiện thương mại liên quan đến môi trường trong khuôn khổ WTO có một ví dụ rất thú vị về việc phá “hàng rào xanh” nhờ áp dụng quy tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO. Đó là vụ kiện được biết đến như “vụ kiện tôm-rùa biển” do Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan chống lại lệnh cấm nhập khẩu của Hoa Kỳ. Đầu năm 1997 Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đưa ra vụ kiện chống Hoa Kỳ ban hành lệnh cấm nhập khẩu tôm và các sản phẩm từ tôm với lý do bảo vệ rùa biển. Theo Luật các giống loài quý hiếm Hoa Kỳ ban hành năm 1973, ngư dân Hoa Kỳ đánh bắt tôm cần phải sử dụng dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc lưới để bảo vệ loài giống đang có nguy cơ diệt chủng vì các hoạt động của con người. Năm 1989, tại điều 609 Luật Dân sự Hoa Kỳ, quy định này đã được áp dụng cả đối với các tàu đánh bắt tôm của các nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Ban kháng cáo của WTO cho rằng các biện pháp của Hoa Kỳ bảo vệ rùa biển là phù hợp với Điều XX của GATT,  tuy nhiên lại không phù hợp với nguyên tắc tối huệ quốc. Lý do là đã có sự phân biệt đối xử của Hoa Kỳ đối với các thành viên khác nhau của WTO. Trước đó, tuân theo quy định của Điều 11 và Điều 12 Hiệp định TBT, Hoa Kỳ đã dành ưu đãi cho các nước vùng biển Caribbe bằng sự trợ giúp kỹ thuật và tài chính và cho phép có giai đoạn chuyển đổi dài để ngư dân các nước này có thể sử dụng các dụng cụ ngăn chặn rùa biển mắc vào lưới khi đánh bắt tôm và xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Gia nhập WTO, Việt nam sẽ còn có cơ hội giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường thông qua việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý của WTO để xây dựng và sử dụng hợp lý "hàng rào xanh" nhằm mục đích bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, đồng thời bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường.   Các giải pháp đáp ứng Tham gia WTO, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước đi trước để hội nhập xu thế toàn cầu hoá trong phát triển kinh tế, đảm bảo vừa bảo vệ quyền lợi của mình, vừa phù hợp với các quy định của quốc tế. Riêng trong lĩnh vực các hoạt động thương mại có liên quan đến môi trường, cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp trước mắt sau đây: · Ban hành các quy định về cấm nhập khẩu các sản phẩm đã bị cấm ở thị trường nước ngoài, các quy định về nhãn hàng hoá thân thiện môi trường (nhãn sinh thái – ecolabel), các quy định cụ thể về thuế và phí môi trường và các quy định về cơ sở khoa học áp dụng các biện pháp “hàng rào xanh” phù hợp với quy định của WTO; · Tích cực, chủ động tham gia vòng đàm phán Doha, mạnh dạn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của các công ước quốc tế về môi trường hoặc các hiệp định môi trường đa phương và của WTO để giải quyết một cách bình đẳng các tranh chấp thương mại quốc tế; · Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ước môi trường mà Việt Nam đã ký kết tham gia với các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Nghiên cứu kỹ và có giải pháp chính sách đồng bộ về quản lý thương mại các hàng hoá và dịch vụ liên quan đến môi trường; · Chuẩn bị tốt nguồn lực để vượt qua các hàng rào kỹ thuật về bảo vệ môi trường. Tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các quy định về môi trường của quy trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm, coi đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường là một bộ phận cấu thành trong hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh./. Gia nhập WTO - sự cần thiết, cơ hội và thách thức Nguồn: Nhân Dân online- VŨ HỮU NGOẠN Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang là vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm trong nước và quốc tế. Có thể nói, đây là vấn đề nhạy cảm và phức tạp, vì vậy phải tìm hiểu kỹ WTO, có những hiểu biết thấu đáo cần thiết gia nhập WTO, thấy nhiều cơ hội mới, đồng thời cả những thách thức mới, và quan trọng hơn là phải chuẩn bị thật tích cực, chu đáo. WTO ra đời từ năm 1995, kế thừa GATT (Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1947 - 1994). Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi hệ thống thuộc địa kiểu cũ không còn nữa, Mỹ và Anh cùng một số nước lập ra một số loại hình tổ chức kinh tế có tính quốc tế như IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), ITO (Tổ chức Thương mại quốc tế), GATT... nhằm gây ảnh hưởng và truyền bá "giá trị phương Tây", chủ yếu là "giá trị Mỹ", trong điều kiện có hai hệ thống thế giới - tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. GATT được hình thành dưới hình thức "Nghị định thư", sau gọi là "Hiệp định chung". GATT hình thành năm 1947 với 23 nước, cho đến năm 1994 có 128 nước tham gia. Ðến năm 1995 ra đời WTO với tư cách là một tổ chức kinh tế thế giới - có tổ chức, có điều lệ, quy định chặt chẽ hơn, nói đúng hơn là bớt lỏng hơn GATT hoặc ITO trước kia. WTO hiện có 148 nước tham gia và có hàng chục nước đang đệ đơn xin tham gia, có trụ sở ở Geneva, có Chủ tịch và Ban thư ký chuyên trách, hiện có biên chế hơn 500 người. Những nước giàu thường có vài chục người đại diện ở WTO, những nước nghèo thường ít hơn, thậm chí kiêm nhiệm (như cán bộ Ðại sứ quán kiêm nhiệm) hoặc không có. Những thành viên có thực lực mạnh trong thương trường, theo đó có tiếng nói áp đảo trong WTO, là Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada... trong đó nổi trội hơn cả vẫn là Mỹ. Với sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu, khi chủ nghĩa xã hội không còn tồn tại như một hệ thống chặt chẽ, thì WTO trở thành công cụ cho một thị trường thế giới thống nhất theo chủ nghĩa tư bản hiện đại. Mỹ đã biến WTO thành một "câu lạc bộ kinh tế", "một diễn đàn kinh tế" rộng lớn, một thương trường vô cùng rộng lớn, chiếm 90% lưu thông hàng hóa trên thế giới, đương nhiên hoạt động theo quỹ đạo của các nước tư bản phát triển, giàu có nhất thế giới, trước hết là Mỹ. Ðiều đó vừa nói lên rằng các nước đang phát triển và kém phát triển không thể đứng ngoài WTO, đồng thời, cũng nói lên rằng khi tham gia sẽ là một thách thức lớn. Những cơ chế chính của WTO: Thứ nhất, trước hết và quan trọng hơn hết là hạ thấp, tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan, cho xuất nhập khẩu tự do, tất nhiên với một danh mục hàng hóa nhất định. Xu hướng chung là thuế quan tiến tới số 0, cuối cùng chỉ còn quy định thuế quan đối với số ít hàng nông sản và sản phẩm có tính tài nguyên. Hiện nay, tuy thuế quan có cao thấp khác nhau đối với từng loại hàng hóa và đối với từng nước, nhưng mức thuế quan bình quân đối với tất cả các thành viên WTO là 6%, đối với các nước phát triển là 3%, đối với các nước đang phát triển là 10%, riêng đối với Trung Quốc khoảng 17%. Còn đối với nước ta thì đây là điều khá quyết liệt và khá phức tạp đang diễn ra trong đàm phán. Chẳng hạn, để bảo vệ nông sản trong nước thì nước ta cần mức thuế cao đối với nông sản nhập, nhưng đối với các nước có hàng nông sản có sức cạnh tranh cao thì lại yêu cầu nước ta hạ thấp thuế suất đó. Và, dĩ nhiên xu hướng mậu dịch tự do còn đòi hỏi gắn liền với xóa bỏ hàng rào thuế quan là phải xóa bỏ cấp hạn ngạch (quota), cho lưu thông hàng hóa tự do. Ðó cũng là nói chung, nói xu hướng, còn về cụ thể thì phụ thuộc vào tương quan sức mạnh kinh tế của các bên đối tác. Chẳng hạn, EU và Mỹ có điều ràng buộc Trung Quốc: Khi nhận thấy hàng dệt - may của Trung Quốc xuất khẩu vào EU và Mỹ quá nhiều thì EU và Mỹ có thể lại áp dụng hạn ngạch. Ðây đang là một điểm thời sự nóng hổi trong WTO mà Trung Quốc đang phản ứng mạnh mẽ về cách đối xử không bình đẳng trong luật chơi của WTO. Cơ chế xóa bỏ hàng rào thuế quan, xóa bỏ cấp hạn ngạch (quota) đương nhiên được lợi nhiều nhất là các nước tư bản phát triển, có nền ngoại thương mạnh, trước hết là Mỹ. Các nước đang phát triển và kém phát triển cũng được lợi nhưng lợi ít hơn, thậm chí kèm theo cả những thách thức mới. Thứ hai,  có Hiệp định chung gồm hàng trăm điều, quy định bắt buộc đối với tất cả các thành viên WTO, với một số hàng hóa nhất định. Ngoài ra, còn có hàng chục hiệp định quy định riêng cho một số hàng hóa, cho quan hệ mậu dịch song phương hoặc ba, bốn bên... Trong đó đáng chú ý có một thể lệ rất đặc thù là một hiệp định thỏa thuận giữa hai thành viên bất kỳ đều có giá trị áp dụng đối với tất cả các thành viên của WTO. Thứ ba, WTO không quy định về giá cả. Chính vì thế vẫn có cạnh tranh và càng có cạnh tranh quyết liệt một khi không còn công cụ hàng rào thuế quan và hạn ngạch xuất nhập khẩu. Thứ tư, WTO là nơi giải quyết xung đột trong buôn bán quốc tế. Nếu đứng ngoài WTO thì về phương diện thuế quan thường hay xung đột, hay trả đũa nhau, những mắc mứu va chạm chỉ giải quyết tay đôi, dễ xảy ra mạnh được yếu thua. Chẳng hạn, vấn đề cá ba-sa hay giá tôm của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, nếu Việt Nam là thành viên của WTO thì sự kiện tụng phải đưa ra WTO chứ không thể tùy tiện do Mỹ áp đặt. Nếu đứng trong tổ chức để giải quyết xung đột thì ta cũng không bị đơn độc, lẻ loi. Ðương nhiên, chúng ta cũng không nên ngây thơ hiểu rằng điều này chỉ có lợi cho nước yếu, trái lại còn mang theo cả những thách thức, bởi vì đôi khi kết quả giải quyết xung đột còn phụ thuộc vào những sự vận động, những sức ép ngoài hành lang, mà muốn thắng cuộc thì phải chịu những tốn kém về tài chính nhất định. Thứ năm, vì có điều lệ chung và lại có những điều lệ riêng cho hàng hóa mậu dịch song phương, tay ba, tay tư... cho nên WTO còn có cơ chế đàm phán. Phải đàm phán trước khi gia nhập WTO và đàm phán để giải quyết xung đột giữa các thành viên WTO. Có những đàm phán song phương, có những đàm phán đa phương, có những đàm phán ở cấp Bộ trưởng Thương mại của tất cả các thành viên. Nói cho đúng hơn, WTO có cả một quy chế về đàm phán và cạnh tranh quốc tế. Chẳng hạn, theo quy chế này, khi xét đơn nước ta xin gia nhập thì WTO đã cử một nhóm công tác bao gồm mấy chục nước thành viên để đàm phán với Việt Nam, trong đó có Mỹ, EU (mà EU có đến 25 nước), Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Australia, New Zealand, Trung Quốc, Cuba, Ấn Ðộ,... Trong quá trình đàm phán chúng ta phải giữ vững độc lập tự chủ, nắm vững lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời hiểu biết sâu sắc luật lệ của WTO, để đấu tranh, thương lượng, nhân nhượng nhau hợp lý. Nhìn nhận những cơ chế chính của WTO để nước ta xem xét đầy đủ cả những cơ hội và thách thức khi tham gia WTO. Chúng ta tham gia WTO để tránh lẻ loi, đơn độc trên thương trường, vừa phù hợp xu thế chung của thế giới, xu thế mậu dịch quốc tế, vừa phù hợp yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế của ta. Thế giới chúng ta đang sống vừa có chủ nghĩa tư bản vừa có chủ nghĩa xã hội. Ðó là một thực tế. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, lại xuất phát từ nền kinh tế chưa phát triển, cho nên càng cần sử dụng một số yếu tố của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tham gia WTO là xuất phát từ lý luận và thực tiễn ấy. Chính nhờ vào chỗ xóa bỏ hàng rào thuế quan, xóa bỏ hạn ngạch thực hiện mức thuế quan thấp, mà nước ta có thể dễ dàng tiếp thu những kỹ thuật mới, những công nghệ tiên tiến nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, cũng tức là chúng ta có điều kiện thực tế để tận dụng lợi thế của nước đi sau, thực hiện bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn thời gian. Trong điều kiện nước ta, việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu là lẽ sống còn của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, có xuất khẩu thì mới có vốn để nhập khẩu thiết bị, công nghệ tiên tiến cùng những sản phẩm khác của nền kinh tế tri thức. Gia nhập WTO, hạ thấp hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan, xóa bỏ hạn ngạch, là điều thuận lợi lớn đối với nước ta. Hiện nay, giá trị xuất khẩu của ta khoảng 30 tỷ USD, bằng khoảng 50% GDP, thì mối lợi ấy không phải là nhỏ. Những hàng hóa xuất khẩu có thế mạnh của ta như hàng dệt - may, giày dép, cà-phê, cao-su, thủy sản chế biến, đồ gỗ chế biến, sản phẩm lắp ráp điện tử... càng có điều kiện phát triển trên thị trường thế giới, trước mắt 70% lượng hàng dệt - may của ta xuất khẩu sang thị trường Mỹ và EU sẽ có nhiều cơ may thuận lợi nếu nâng được sức cạnh tranh. Tuy nhiên, khi là thành viên WTO thì bên cạnh nhiều thuận lợi, cơ hội lớn chúng ta còn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức mới. Trước hết, vấn đề bao trùm là "hội nhập nhưng không hòa tan", trái lại vẫn phải giữ gìn được bản sắc dân tộc, bản sắc chế độ, luôn luôn thực hiện tốt đường lối độc lập tự chủ, ngay trong xây dựng và phát triển kinh tế. Ðành rằng, khi tham gia thì phải tuân theo "luật chơi chung của WTO". Tuy nhiên, nước xã hội chủ nghĩa và nước tư bản chủ nghĩa có những khác nhau về chính sách, pháp luật, có những khác nhau về bản chất. Ðành rằng, nước ta phải rà soát, điều chỉnh, sửa đổi một số chính sách và luật lệ, song đây là điều vô cùng khó khăn, phức tạp, vì chính trên lĩnh vực này sẽ có sự đụng đầu của hai chế độ xã hội. Như thế, ở đây có nguy cơ đe dọa độc lập tự chủ, đe dọa định hướng xã hội chủ nghĩa. Tình huống này đòi hỏi ta phải đấu tranh giữ vững chủ quyền, có những nhân nhượng hợp lý, chọn "điểm đồng" để cùng chơi, khéo léo chọn những hình thức biểu hiện thích hợp đối với những "điểm không đồng" thuộc về bản chất. Thứ hai, một khi hạ thấp hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan, xóa bỏ hạn ngạch, thì cạnh tranh trong thương mại sẽ trở nên quyết liệt và quyết định thắng thua. Hàng hóa không có sức cạnh tranh sẽ không xuất khẩu được, không những thế còn bị hàng ngoại nhập khẩu đánh bại hàng nội, các doanh nghiệp trong nước có thể phá sản, trì trệ, số người thất nghiệp và thiếu việc làm có thể tăng lên. Hạ thấp hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan, xóa bỏ hạn ngạch thì hàng ngoại từ các nước có trình độ công nghệ tiên tiến, vừa rẻ lại vừa có chất lượng cao, sẽ tràn ngập vào nước ta, làm cho chủ trương "nội địa hóa" trong công nghiệp của ta sẽ mất ý nghĩa, tác dụng... nền kinh tế có thể lâm vào tình trạng lệ thuộc nước ngoài. Dĩ nhiên, không vì e ngại như vậy mà ta không dám tham gia WTO, mà chính tình huống đó buộc nền kinh tế dân tộc ta phải bừng tỉnh dậy, ra sức cải tiến tổ chức quản lý, tạo ra hàng hóa rẻ, chất lượng tốt, có sức cạnh tranh cao, thích ứng đúng quy luật của thị trường. Như thế, chính là nâng cao chất lượng phát triển của nền kinh tế nước ta, tạo ra bước ngoặt mới tiến lên của nền kinh tế nước nhà. Phải phấn đấu vượt qua thách thức này. Từ những cơ hội và thách thức trên đang yêu cầu nước ta phải chuẩn bị thật tích cực và chu đáo để tham gia WTO có hiệu quả. Một là, nâng cao hiểu biết cho toàn dân về WTO, về việc tham gia WTO, đặc biệt chú trọng đối với những người hoạt động kinh doanh, kể cả trong công nghiệp, nông nghiệp cho đến dịch vụ. Phải xây dựng ý thức nâng cao chất lượng nền kinh tế nước ta, từ ý thức và năng lực cạnh tranh cho đến vận dụng những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và quản lý, xây dựng môi trường kinh doanh đúng đắn. Ðây cũng là chuẩn bị nội lực tốt nhất, tích cực nhất để tham gia WTO. Hai là, tiếp tục xây dựng môi trường kinh doanh đúng đắn theo tinh thần bảo đảm độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từ việc bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi pháp luật và chính sách, cho đến việc sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển và chấn chỉnh quản lý các doanh nghiệp tư nhân. Ba là, tất cả các doanh nghiệp, từ công nghiệp, dịch vụ cho đến nông nghiệp đều phải nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dù hàng hóa xuất khẩu hay lưu thông nội địa. Bốn là, tiến hành đàm phán tích cực, khéo léo trên cơ sở hiểu biết tường tận luật lệ của WTO, thị trường thế giới, tình hình thị trường và luật pháp kinh tế của các nước đối tác chính trong WTO, hiểu biết sâu sắc, kiên định vững vàng về đường lối chính trị, đường lối kinh tế, đường lối đối ngoại, đường lối quốc phòng an ninh của Ðảng và Nhà nước ta. Ðặc biệt, phải vững vàng, cẩn trọng trong những lĩnh vực rất nhạy cảm, liên quan đến độc lập tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa, chẳng hạn những lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, bưu chính - viễn thông, truyền thông đại chúng... Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Ðảng và Nhà nước không chia sẻ với ai quyền lực nắm và sử dụng các công cụ tư tưởng, qua đó thực hiện quyền lực truyền bá và bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng. Về thực chất đó cũng là bảo đảm một chế độ, một nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Việc tham gia WTO là một yêu cầu khách quan của sự phát triển nền kinh tế nước ta, theo đó có những cơ hội mới xen lẫn những thách thức mới. Vận dụng tốt cơ hội, vượt qua được thách thức thì việc gia nhập WTO sẽ đánh dấu một bước ngoặt trên con đường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trên con đường phát triển kinh tế nước nhà. Chuẩn bị tích cực, chu đáo sẽ là một phần của sự bảo đảm tham gia WTO có hiệu quả. Những Nguyên Tắc Hoạt Động Của WTO 1. Không phân biệt đối xử. Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho sản phẩm của một nước thứ ba (Đãi ngộ Tối huệ quốc-MFN). Mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của công dân nước mình đối xử ưu đãi hơn so với sản phẩm của người nước ngoài (Đãi ngộ quốc gia-NT). 2. Thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán. Các hàng rào cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thỏa thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. 3. Dễ dự đoán. Các công ty, nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài có thể vững tin rằng các rào cản thương mại (gồm hàng rào cản quan thuế, phi quan thuế và các rào cản khác) sẽ không được dựng lên tùy tiện; ngày càng có thêm những cam kết về mặt pháp lý trong việc giảm thuế suất và mở cửa thị trường trong WTO. 4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. Hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. 5. Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi. Dành cho các nước chậm phát triển nhiều thời gian hơn để điều chỉnh, tính linh hoạt cao hơn và những ưu đãi đặc biệt. Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã khẳng định quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế tăng tốc. Việc vào WTO sẽ mang lại những cơ hội, cũng như thách thức mới cho nước ta. Cơ hội khi gia nhập WTO 1.Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam. 2. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rõ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. 3. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. 4. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. Thách thức của việc gia nhập WTO Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là: 1. Sức ép cạnh tranh Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với "bầu vú bao cấp" của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến. Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập WTO có thể sẽ mang lại khó khăn nhiều hơn bởi chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp khó có thể diễn ra trong một sớm, một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả chấp nhận được đối với lĩnh vực nông nghiệp. 2. Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Đây là thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. 3. Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế - thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài. Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây là thách thức to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân hơn nữa, khắc phục "sức ỳ" của tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại. 4. Thách thức về nguồn nhân lực Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Từ những cơ hội cũng như thách thức đó, hiện nay Việt Nam đang đẩy nhanh công tác chuẩn bị gia nhập WTO. Về chuẩn bị điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ thành viên, thời gian qua Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đã khẩn trương đẩy nhanh chương trình xây dựng pháp luật. Quá trình rà soát văn bản pháp luật đã tiến hành ở Trung ương. Bộ Tư pháp đang tiếp tục hướng dẫn các tỉnh rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, có đối chiếu với quy định của WTO và cam kết của nước ta. Các địa phương cũng đang khẩn trương, nghiêm túc tiến hành rà soát, điều chỉnh các quy định, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - đầu tư để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản của Nhà nước và cam kết quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang đẩy mạnh triển khai các chương trình hành động thực hiện các hiệp định của WTO như Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (IL); Hiệp định về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs); Hiệp định về kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS)… Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đã tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày…; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế. Ngoài ra, nên tiếp tục củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế… Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTóm tắt cơ bản về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.doc