Thực trạng và giải pháp phát triển thẻ tín dụng quốc tế Master Card ở Việt Nam

Mục lụcThẻ tín dụng 1Khái niệm thẻ tín dụng 1Đặc điểm 1Cách thức hoạt động 2Phân loại 2Các tiện ích của thẻ tín dụng . 4Nhược điểm của thẻ tín dụng 5Một số hình ảnh về thẻ tín dụng 5Thẻ tín dụng quốc tế Master Card 6Tổ chức thẻ quốc tế Master Card 6Thành viên phát hành và thanh toán thẻ . 7Thực trạng và giải pháp phát triển thẻ Master Card ở Việt Nam 8Thực trạng sử dụng thẻ Master Card tại Việt Nam . 8Các giải pháp phòng ngừa giả mạo thẻ 11

doc16 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3928 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển thẻ tín dụng quốc tế Master Card ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG Thẻ tín dụng Khái niệm thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng là một hình thức thay thế cho việc thanh toán trực tiếp, được phát hành bởi một tổ chức (là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng) để cho người tiêu dùng vay tiền để trả cho người bán hàng. Hình thức thanh toán này được thực hiện dựa trên uy tín. Chủ thẻ không cần phải trả tiền mặt ngay khi mua hang. Thay vào đó, Ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người bán và Chủ thẻ sẽ thanh toán lại sau cho ngân hàng khoản giao dịch. Thẻ tín dụng cho phép khách hàng trả dần số tiền thanh toán trong tài khoản. Chủ thẻ không phải thanh toán toàn bộ số dư trên bảng sao kê giao dịch hàng tháng. Tuy nhiên, chủ thẻ phải trả khoản thanh toán tối thiểu trước ngày đáo hạn đã ghi rõ trên bảng sao kê. Đặc điểm: Biểu tượng của tổ chức phát hành thẻ Bản vi mạch trên thẻ (EMV chip) Ảnh nổi 3 chiều Mã số thẻ (16 chữ số) Biểu tượng của loại thẻ Thời gian có hiệu lực của thẻ Cách thức hoạt động: Thẻ tín dụng được phát hành sau khi nhà cung cấp dịch vụ tín dụng duyệt chấp nhận tài khoản thẻ, sau đó chủ thể có thể sử dụng nó để mua sắm tại các điểm bán hàng chấp nhận loại thẻ Khi mua sắm, người dùng thẻ cam kết sẽ trả tiền cho nhà phát hành thẻ. Chủ thẻ thể hiện cam kết này bằng cách ký tên lên hóa đơn có ghi chi tiết của thẻ cùng với số tiền, hoặc bằng cách nhập một mật mã cá nhân (PIN). Ngoài ra nhiều điểm bán hàng cũng chấp nhận cách thức xác minh qua điện thoại hoặc xác minh qua internet cho những giao dịch được gọi là vắng thẻ hoặc vắng chủ thẻ. Chủ thẻ cũng có thể rút tiền mặt từ tài khoản thẻ tín dụng (tiền mặt ứng trước) nếu muốn. Người ta sử dụng nhiều hệ thống điện tử để xác minh trong vòng vài giây tính hợp lệ của thẻ cũng như kiểm tra xem hạn mức tín dụng của thẻ còn đủ chi trả cho lần mua sắm đó không. Việc xác minh được thực hiện bằng một đầu đọc thẻ kết nối vào ngân hang thu nhận của người bán hàng. Hàng tháng, chủ thẻ nhận được một bảng kê trong đó thể hiện các giao dịch thực hiện bằng thẻ, các khoản phí và tổng số tiền nợ. Sau khi nhận bảng kê, chủ thẻ có quyền khiếu nại bác bỏ một số giao dich mà họ cho là không đúng. Nếu không khiếu nại gì trước ngày đến hạn, chủ thẻ phải trả một phần tối thiểu định trước, hoặc nhiều hơn, hoặc trả hết món nợ. Nhà cung cấp dịch vụ sẽ tính lại trên phần nợ (thường là với lãi suất cao hơn lãi suất của hầu hết những hình thức vay nợ khác). Nhiều tổ chức tài chính có thể sắp xếp việc trả nợ tự động, cắt tiền từ tài khoản ngân hàng của chủ thẻ (nếu có đủ tiền) để tránh trễ hạn nợ. Phân loại thẻ tín dụng: Phân loại: Gồm 2 loại: thẻ tín dụng quốc tế và thẻ tín dụng nội địa Thẻ tín dụng quốc tế là thẻ do các tổ chức thẻ quốc tế như Visa, MasterCard phát hành Thẻ tín dụng nội địa là các thẻ tín dụng được các ngân hàng nhằm mục đích sử dụng trong phạm vi nội địa Chủ thẻ phải đảm bảo khả năng thanh toán của mình, có 2 hình thức đảm bảo thanh toán phổ biến là ký quỹ và không ký quỹ. Với hình thức ký quỹ, khách hàng phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán thẻ từ 110% hạn mức tín dụng yêu cầu trở lên (số tiền trong tài khoản đảm bảo thanh toán sẽ được hưởng lãi) hoặc thế chấp sổ tiết kiệm hoặc phong tỏa một số tiền trong tài khỏan thanh toán của khách hàng tại ngân hàng cung cấp thẻ để đảm bảo thanh toán thẻ . Với hình thức không ký quỹ, khách hàng phải cung cấp các giấy tờ chứng minh thu nhập khác cho ngân hàng như bản sao hợp đồng lao động, giấy xác nhận công tác, giấy xác nhận mức lương… Một số loại thẻ tín dụng: Charge Card – hay còn gọi là department store card, bao gồm tất cả các loại thẻ tín dụng cấp phát bởi các công ty bán lẻ như: Sears, JC Penney, Macy’s, Target, K-Mart,…, loại thẻ này hạn chế cho phếp người sử dụng chỉ được sử dụng mua hang của công ty cấp thẻ đó mà thôi. VD: Sears chỉ nhận ở các tiệm của Sears, khách hang sang tiệm khác mua thì không thể trả tiền bằng thẻ Sears được. Gasoline Card – hay thẻ đổ xăng như: Texaco, Shell, BP (Bristish Petroleum)…, loại này cũng tương tự như loại Department Store Card, khách hang chỉ sử dụng để đổ xăng tại các cây xăng và mua đồ vặt do cây xăng của hiệu đó bán mà thôi. VD: bạn cầm thẻ của hang Shell thì chỉ có thể đổ xăng và mua quà vặt ở Shell mà thôi American Express: Regular American Express Card là loại thẻ thường có màu xanh lá cây đậm. Nếu bạn không có nhiều tín dụng tốt và có lợi tức thấp thì khi xin họ sẽ cấp cho loại này. Credit line thì không giới hạn, tùy theo số tiền bạn có trong trườn mục ngân hàng. Loại này bạn phải trả lệ phí hằng năm rất cao ( khoảng $79USD/năm). Hóa đơn được gởi cho bạn mỗi tháng và trả hết 1 lần. Ví dụ: trong tháng vừa rồi bạn xài $500 thì phải trả hết 1 lần $500 American Express Gold Card: Điều kiện là bạn phải có lợi tức trên $30.000 USD/năm. Cách sử dụng cũng như loại trên. American Express Platinum: Khác với 2 loại trên, loại này chỉ dành cho những khách hàng được ưu đãi mà thôi, số tiền chỉ định được tiêu xài lên tới $100.000 USD mà không đòi hỏi khách phải có tiền trong tài khoản ngân hàng. Bill vẫn phải thanh toán 1 lần như 2 loại trên Các tiện ích của thẻ tín dụng: Tiện lợi: Thẻ nhỏ và gọn, có thể thanh toán dễ dàng khắp mọi nơi ( tại Việt Nam có khoảng 42 nghìn điểm và cửa hàng chấp nhận thẻ) Linh hoạt trong chi tiêu: Không như thẻ ATM, với thẻ tín dụng cho phép người tiêu dùng có thể mua sắm hoặc rút tiền mặt mà không cần bỏ trước đồng nào vào tài khoản, vì ngân hàng sẽ ứng trước vào đó bằng hạn mức tín dụng dao động từ 10-100 triệu đồng tùy theo nhu cầu và mức thu nhập của chủ thẻ. Do đó , khi bạn yêu thích hoặc cần một món hàng, nhưng không có sãn tiền mặt hay không đủ tiền trong tài khoản để mua, với thẻ credit card, bạn chỉ đơn giản thanh toán bằng thẻ, đem món hàng về nhà và trả sau 30-45 ngày ( tùy ngân hàng) không bị tính lãi. Được chấp nhận toàn cầu: Thẻ tín dụng được phát hành bởi các ngân hàng uy tín được chấp nhận thanh toán toàn cầu, kể cả thanh toán cho các giao dịch trên thực tế lẫn trên mạng. Nếu cần tiền mặt, bạn cũng có thể dùng thẻ tín dụng để rút ở khắp mọi nơi. Đơn giản hóa việc chi tiêu: Hàng tháng, bạn sẽ nhận được một bàng kê trong đó thể hiện các giao dịch của thẻ, các khoản phí và tổng số tiền nợ. Sau khi nhận bảng kê, bạn có quyền khiếu nại một số giao dịch mà bạn cho là không đúng. Trước ngày đến hạn, bạn phải trả một phần tối thiểu định trước ( tại Việt Nam khoảng 10% món nợ), hoặc rả hết món nợ (thường là với lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng) và có thể tự động cắt tiền từ tài khoản ngân hàng của bạn ( nếu có đủ tiền) để trả nợ thanh toán và sẽ thông báo lại cho bạn. An toàn: Khi bị mất tiền mặt, bạn sẽ bị mất luôn. Nhưng với thẻ, khi bị mất, bạn chỉ cần báo với ngân hàng của bạn để khóa thẻ lại. Những giá trị cộng thêm: Để khuyến khích người sử dụng thẻ, nhiều ngân hàng đưa ra các chương trình ưu đãi như tích điểm thưởng, liên kết với các thương hiệu được ưa chuộng, các trung tâm mua sắm để giảm giá cho người sử dụng thẻ của họ, quà tặng ngay khi đăng ký sử dụng thẻ. Sử dụng cho các thanh toán đặc biệt: Với thẻ tín dụng, bạn có thể mua hàng trực tuyến trên các Website bán hàng có chấp nhận hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng, book khách sạn, vé máy bay trực tuyến… trong khi không thể làm điều này bằng tiền mặt. Nhược điểm của thẻ tín dụng Thẻ tín dụng đang “tiềm tàng nguy cơ” gây vỡ nợ cho nhiều người và còn nhiều vấn đề bất ổn khác phát sinh. Đa phần những người có nguy cơ vỡ nợ là giới trẻ, họ dùng thẻ tín dụng chi tiêu một cách hoang phí trong cuộc sống hàng ngày mà không để ý đến thực tế mình có bao nhiêu tiền trong tài khoản. Đây chính là một gánh nặng cho xã hội khi chính phủ phải bao cấp cho những người này các khoản tài chính khá lớn. Một số hình ảnh về thẻ: Thẻ tín dụng quốc tế Master Card: Tổ chức thẻ quốc tế MC: MasterCard Worldwide (NYSE: MA) là một công ty đa quốc gia có trụ sở ở Purchase, New York, Mỹ. Khắp thế giới, lĩnh vực kinh doanh của công ty này là thực hiện nghiệp vụ thanh toán giữa các ngân hàng của người mua và người bán sử dụng debit và credit card thương hiệu "MasterCard" để mua sắm. MasterCard Worldwide là một công ty đại chúng kể tử năm 2006. Kể từ khi IPO lần đầu, MasterCard Worldwide là một tổ chức quốc tế bao gồm hơn 25.000 định chế tài chính ấn hành thẻ của nó. Thẻ Tín Dụng MasterCard® được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới với hơn 25 triệu điểm giao dịch mang logo MasterCard® và các chương trình ưu đãi hấp dẫn. Bốn thập kỷ qua đã chứng kiến một sự chuyển biến đáng kể trong khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trên toàn thế giới trả tiền cho các hàng hóa và dịch vụ mà họ cần. Sự gia tăng của ngành công nghiệp thanh toán điện tử đã giúp tăng trưởng kinh tế vượt qua biên giới, mang lại lợi ích cho tất cả các nơi trên thế giới. MasterCard mang lại cái nhìn sâu sắc và đổi mới vào quá trình thanh toán để làm cho thương mại dễ dàng hơn, nhanh hơn, liền mạch hơn, có ý nghĩa hơn và an toàn hơn. Quá trình hình thành và phát triển: Bắt đầu vào năm 1966 khi một nhóm các ngân hàng tạo ra một hiệp hội thành viên thuộc sở hữu mà sau này trở thành MasterCard. Năm 1968 công ty mở rộng sự hiện diện của Mexico, Nhật Bản và châu Âu, đánh dấu sự bắt đầu của sự cam kết của mình để trở thành mạng thanh toán hàng đầu thế giới. Thông qua những năm 1980, MasterCard tiếp tục xây dựng trên lời hứa này, mang lại những lợi thế của thanh toán điện tử đến các vùng mới và các thị trường trên toàn cầu. MasterCard đã trở thành thẻ thanh toán đầu tiên phát hành tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, và công ty cũng tung ra Maestro ®, chương trình ghi nợ trực tuyến đầu tiên của thế giới toàn cầu thực sự, trong quan hệ đối tác với quốc tế Europay. Thập kỷ tới thanh toán điện tử trở nên tích hợp chặt chẽ hơn nữa vào cuộc sống của người dân, một sự thay đổi hoạt động của MasterCard là đầu tư vốn vào phát triển công nghệ mới cải thiện thuận tiện, tốc độ và hiệu quả. MasterCard cũng phát động chiến dịch quảng cáo "vô giá", nâng cao thương hiệu của người tiêu dùng và sự khác biệt kết nối của công ty với người tiêu dùng. Khám phá các cách thức mới để cung cấp giá trị dịch vụ chất lượng cho khách hàng, MasterCard đưa ra MasterCard Advisors vào năm 2001, cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Cùng năm đó, MasterCard đã hoàn thành nâng cấp,tăng cường khả năng xử lý các giao dịch một cách an toàn và ngay lập tức trên toàn thế giới. MasterCard tích hợp với Europay quốc tế vào năm 2002, thiết lập một cấu trúc thống nhất toàn cầu của công ty và cũng có thể trở thành một công ty cổ phần tư nhân. Đến năm 2005, MasterCard đã cam kết một chiến lược mới, tập trung vào khách hàng, xếp theo hàng tư vấn và chế biến khả năng của mình với vai trò lâu dài của nó như là một công ty mẹ. Mô hình kinh doanh ba tầng kết tinh định vị của công ty như một bộ xử lý nhượng quyền, và cố vấn đặt nền móng cho quá trình chuyển đổi mô hình quản trị minh bạch hơn và cung cấp công ban đầu trong năm 2006. Hôm nay và xa hơn nữa, MasterCard trên toàn thế giới tiếp tục cung cấp một sự kết hợp độc đáo về chuyên môn, cái nhìn sâu sắc ngành công nghiệp hàng đầu này và các nguồn tài nguyên trên toàn cầu tích hợp các công ty thúc đẩy để cung cấp dịch vụ tốt hơn. MasterCard cam kết đổi mới và phát triển nhiều sản phẩm và dịch vụ tiện ích cho thị trường Thành viên phát hành và thanh toán thẻ: Trong xu thế kinh tế hoá toàn cầu, đối với ngân hàng thì việc cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi cho khách hàng  ngày càng được  chú  trọng. Mặc khác, Việt Nam đang hội nhập, việc ứng dụng công nghệ hiện đại dần được mở rộng.  Từ đó sự cạnh tranh cũng trở nên khốc liệt hơn. Mastercard là loại thẻ  đã rất phổi biến ở nước ngoài, có khoảng  25 triệu điểm giao dịch có biểu tượng Master card trên thế giới, nay đã được du nhập vào Việt Nam. Hiện nay hầu như các ngân hàng ở Việt Nam đều có sản phẩm thẻ này. Ví dụ như: Ngân hang Á Châu, ngân hàng Sacomebank, ngân hàng  Vietcombank, ngân hang  HSBC… Tuỳ vào chiến lược của mỗi ngân hàng mà tiện ích, điều kiện đăng ký và cách thức đăng ký sẽ có những điểm khác nhau ... Nhưng  về cơ bản thì đều giống  nhau như: Thẻ Mastercard có thể thanh toán tiền mua hàng hoá và dịch vụ trên internet, các siêu thị.... hay các nơi chấp nhận thẻ POS trên toàn thế giới, ngoài ra còn có những chương trình khuyến mãi cho chủ thẻ này.... Thực trạng và giải pháp phát triển thẻ tín dụng quốc tế Master Card ở Việt Nam Thực trạng sử dụng thẻ tín dụng Master Card tại Việt Nam Việc sử dụng thẻ thanh toán quốc tế không tránh khỏi các bất cập. Thứ nhất là việc thu phí chuyển đổi ngoại tệ của các ngân hàng khá cao. Gần như tất cả các ngân hàng đều thu phí chuyển đổi ngoại tệ (Khi dùng thẻ thanh toán hàng hóa/dịch vụ bằng ngoại tệ sẽ bị thu phí chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ). Kể từ đầu năm 2011, hầu hết các ngân hàng đều tăng mức phí này, điển hình như Techcombank ngày 25/1/2011 thu phí 2,5%/tổng số tiền thanh toán, đến ngày 18/3/2011 tới đây tăng lên 4,5%/tổng số tiền thanh toán. Còn tại hầu hết các ngân hàng khác, mức phí dao động từ 2% - 4,5%/tổng số tiền thanh toán và tùy thuộc vào loại thẻ (Visa hay Master card…). Cá biệt, đối với ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, mỗi giao dịch nước ngoài thu thêm 10% phí trên tổng số tiền giao dịch (giao dịch 1000$ thu 100$ tiền phí), nếu rút tiền mặt ở nước ngoài thì khách hàng phải nộp thêm 75.000 đồng và phí dịch vụ ở các ngân hàng khác. Với HSBC phí giao dịch ngoại tệ là 7%, mới hạ xuống 4,5%/tổng số tiền giao dịch từ ngày 04/03/2011. Việc thu phí này khiến nhiều người sử dụng cảm thấy khá bất tiện bởi tính ra, mức chênh lệch 4,5% hoàn toàn không nhỏ. Nếu lấy tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 16/3/2011 là 20.658 đồng/USD thì tính ra người sử dụng sẽ phải trả với tỷ giá khoảng 21.587 đồng/USD (chênh lệch 4,5% tiền phí). (*) Phí của tổ chức thẻ Visa/Master card tùy từng thời kỳ (**) Thẻ ATM hiện tại chỉ được sử dụng tại máy ATM của Ngân hàng Standard Chartered tại các nước: Hồng Kông, Singapore, UAE, Bahrain, Malaysia, Trung Quốc, Philippines và Pakistan. HSBC hạ phí chuyển đổi ngoại tệ xuống 4,5% từ ngày 04/3/2011. Thứ hai là việc đảm bảo an toàn về thông tin, nhất là đối với các khách hàng sử dụng thẻ tín dụng. Việc sử dụng thẻ để thanh toán trên internet cũng dễ bị hacker lấy cắp mã PIN và tài khoản nếu người dùng bất cẩn sử dụng tại các máy tính công cộng hoặc bị gài phần mềm gián điệp tại máy tính mình mà không biết. Mỗi năm thế giới mất hàng tỷ đô la từ các thẻ tín dụng bị tin tặc đánh cắp thông tin. Một số thẻ tín dụng mã PIN được ghi ngay trên mặt sau của thẻ tín dụng, do đó khách hàng phải đảm bảo luôn theo dõi quá trình quẹt thẻ của nhân viên thu ngân, hoặc nếu mất thẻ phải báo ngay lại cho ngân hàng để khóa thẻ. Thứ ba, việc chứng minh thu nhập để mở thẻ credit (có sao kê bảng lương, chứng minh thu nhập khác, hóa đơn điện nước, hộ khẩu..v..v) là một phiền phức giấy tờ thủ tục với nhiều người . Thông thường, hạn mức đối với thẻ tín dụng gấp đôi thu nhập hàng tháng của khách hàng (đối với khách hàng không có thế chấp). Tại Vietcombank, nếu phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở tài sản bảo đảm, khách hàng sẽ phải mở tài khoản deposit với mức thế chấp là 125% (ví dụ tài khoản có 12,5 triệu đồng được tiêu 10 triệu đồng). Tài sản bảo đảm: tiền mặt, sổ tiết kiệm, phong tỏa tài khoản tiền gửi tại Vietcombank, các loại giấy tờ có giá trị do VCB/các ngân hàng/tổ chức tài chính khác phát hành…. Đối với phát hành thẻ trên cơ sở tín chấp, chỉ chấp nhận đối với tài khoản trả lương qua Vietcombank, Hợp đồng lao động và/hoặc giấy xác nhận của tổ chức/công ty về thu nhập của các nhân đề nghị phát hành thẻ, cam kết của công ty/ tổ chức (theo mẫu của VCB). Còn trong trường hợp như của VIB, khách hàng thế chấp bằng hình thức phong tỏa tài khoản, sổ tiết kiệm thì tỷ lệ Giá trị tài sản đảm bảo/Hạn mức tín dụng là 110% (có 110 đồng được tiêu 100 đồng); Bất động sản hoặc tài sản cầm cố, thế chấp khác, tỷ lệ giá trị TSĐB/Hạn mức tín dụng là 150%. Tín chấp: Đối với doanh nghiệp: Hạn mức tối đa lên đến 200 triệu; đối với cá nhân: Hạn mức linh hoạt cho từng đối tượng khách hàng khác nhau, theo đó hạn mức tối đa cấp lần đầu là 200 triệu, hạn mức tối đa cấp các lần tiếp theo là 300 triệu. Thứ tư, khách hàng phải trả phí thường niên quản lý thẻ, ví dụ ở HSBC là 300.000 đồng/năm, ở VCB đối với thẻ Visa hạng Vàng là 200.000 đồng/thẻ/năm, hạng chuẩn là 100.000 đồng/năm, tại ACB Maser card/Visa phí thường niên đối với thẻ chuẩn là 300.000 đồng/năm, thẻ vàng là 400.000 đồng/năm… Trao đổi với CafeF, Ths.Trần Trọng Quốc Khanh – Giám đốc trung tâm Vàng Á Châu nguyên trưởng phòng ngoại hối ACB cho biết mức phí thẻ thanh toán cao là do số người sử dụng rất ít. Nếu số lượng người sử dụng tăng lên thì chắc chắn mức phí sẽ giảm xuống nhiều. Khi đó người dân sẽ không phải ra ngân hàng mua ngoại tệ mặt để đi công tác. Nó cũng là cách minh bạch hóa chi tiêu nhất là các chi tiêu núp dưới danh nghĩa công tác phí, hay chi phí hợp lý khác. Dù sao, đây là giải pháp tốt nhất đối với các nhu cầu cấp bách đối với người dân hiện nay khi không mua được USD tại các NHTM. Phòng ngừa giả mạo thẻ Một số hình thức giả mạo thẻ Giả mạo trong hoạt động phát hành thẻ Đơn phát hành thẻ giả mạo: Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành thẻ với các thông tin giả mạo do không thẩm định kỹ các thông tin khách hàng cung cấp trên hồ sơ xin phát hành thẻ. Thông tin không chínhx ác dẫn đến những khó khăn cho ngân hàng khi muốn liên hệ với chủ thẻ và đặt ngân hàng trước nguy cơ tổn thất tín dụng khi chủ thẻ sử dụng thẻ nhưng không có đủ khả năng thanh toán hoặc chủ thẻ cố tình lừa đảo để chiếm dụng tiền của ngân hàng. Thẻ  giả: Thẻ có thể được làm  giả dưới các hình thức: Thông tin dập nổi trên thẻ bị sửa lại, thẻ bị mã hóa lại băng từ, thẻ trắng nhưng đã được mã hóa băng từ hoặc thẻ bị làm giả hoàn toàn dựa trên các dữ liệu của thẻ thật. Thẻ giả được sử dụng sẽ gây tổn thất cho ngân hàng phát hành bởi vì theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch mang mã số BIN của Ngân hàng phát hành. Đây là loại hình rủi ro có tỷ lệ cao, thường được tội phạm thẻ sử dụng rộng rãi, phổ biến nhất. Thẻ bị dập nổi lại: là loại thẻ giả mà các thông tin trên thẻ được dập lại  bằng công nghệ đơn giản trên nền phôi thẻ bị mất cắp, thất lạc.Các thông tin an ninh trên thẻ giống như thẻ thật nhưng có thể dể dàng kiểm tra và phát hiện bằng mắt thường. Có thể phát hiện thẻ giả khi đối chiếu thông tin in nổi ở mặt trước thẻ với các thông tin in chìm trên băng chữ ký mặt sau của thẻ hoặc với dữ liệu trên băng từ khi đọc thẻ qua máy EDC. Thẻ bị mã hóa lại băng từ: là loại thẻ giả mà các thông tin trên băng từ đã bị mã hóa lại trong khi vẫn giữ nguyên các thông tin dập nổi trên thẻ và thường được sử dụng tại các ĐVCNT có trang bị máy EDC. Loại hình thẻ giả mạo này thường có liên quan đến tội phạm có tổ chức vì yêu cầu sử dụng công nghệ hiện đại hơn. Chúng ta có thể phát hiện được thẻ giả bằng cách so sánh dữ liệu trên băng từ khi đọc thẻ qua máy EDC với các thông tin dập nổi trên thẻ. Thẻ trắng: là loại thẻ mô phỏng đầy đủ chức năng của một thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, được sử dụng tại ĐVCNT cấu kết với tội phạm thẻ hoặc tại các điểm bán hàng tự động không được kiểm soát chặt chẽ. Do loại hình này thực hiện với sự cấu kết thông đồng chặt chẽ của ĐVCNT nên rất khó phát hiện. Thẻ trắng cũng đã được mã hóa nhưng không hề dập nổi các thông tin lên mặt trước của thẻ như: ngân hàng phát hành, số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ……. Thẻ bị làm giả hoàn toàn: là sản phẩm thẻ giả tinh vi nhất, là hoạt động của tội phạm thẻ có tổ chức. Thẻ rất hoàn chỉnh với băng từ được mã hóa dựa trên việc lấy cắp dữ liệu trên băng từ của thẻ thật và trên phôi thẻ có đầy đủ những yếu tố như thẻ thật. Thẻ gỉa chỉ bị phát hiện nếu thực hiện đầy đủ chính xác quy trình chấp nhận thanh toán thẻ Thẻ  mất cắp, thất lạc: Rủi ro xảy xa khi thẻ bị mất cắp, thất lạc và bị sử dụng trước khi chủ thẻ thông báo cho ngân hàng phát hành để có các biện pháp chấm dứt sử dụng hoặc thu hồi thẻ. Thẻ bị mất cắp thất lạc cũng có thể bị tội phạm thẻ sử dụng làm thẻ giả như trường hợp thẻ giả. Đôi khi giả mạo có liên quan đến chủ thẻ cố tình báo mất thẻ và sau đó sử dụng thẻ. Chủ  thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng phát hành gửi: Là trường hợp thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng  thực hiện giao dich trong quá trình chuyển từ ngân hàng phát hành đến chủ thẻ. Việc xác định thẻ bị ăn cắp trên đường mất nhiều thời gian do khoảng thời gian chủ thẻ nhận được thẻ và gửi xác nhận cho ngân hàng thường kéo dài, đôi khi chủ thẻ khiếu nại là không nhận được thẻ thì ngân hàng mới phát hiện được. Tài khoản của chủ thẻ  bị lợi dụng: Rủi ro này phát sinh khi ngân hàng phát hành nhận được những yêu cầu thay đổi thông tin của chủ thẻ, đặc biệt là thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không xác minh kỹ nên ngân hàng phát hành đã gửi thẻ về địa chỉ như yêu cầu mà không đến tay chủ thẻ thật. tài khoản của chủ thẻ thật đã bị người khác lợi dụng sử dụng Giả mạo trong hoạt động thanh toán thẻ Đơn vị chấp nhận thẻ giả mạo: Đơn vị chấp nhận thẻ cố tình đăng ký các thông tin không chính xác với ngân hàng thanh toán. Ngân hàng thanh toán sẽ chịu tổn thất khi không thu được những khoản đã tạm ứng cho những ĐVCNT này trong trường hợp ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ hoặc cố tình tạo ra các hoá đơn hoặc giao dịch giả mạo để chiếm dụng vốn của ngân hàng. Đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng với tội phạm thẻ: Có hai hình thức thông đồng của đơn vị chấp nhận thẻ: CPP – Common Purchase Point: Là hiện tượng một đơn vị chấp nhận thẻ hoặc một địa điểm được xác định là lưu trữ dữ liệu thẻ và sử dụng vào mục đích tạo các thẻ giả hoặc thực hiện các giao dịch giả mạo. Đơn vị chấp nhận thẻ có thể nhận thức hoặc không nhận thức được hành vi này POC – Point of Compromise: Đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng với chủ thẻ chấp nhận thanh toán những thẻ giả ( thẻ bị sửa đổi, thẻ trắng, thẻ skimming…) Thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng thẻ  qua thư, điện thoại ( Mail order, telephone order ) : Đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư hoặc điện thoại và thanh toán trên cơ sở các thông tin như: loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ…… Đơn vị chấp nhận thẻ và ngân hàng thanh toán có thể chịu tổn thất nếu như chủ thẻ thực không phải là khách đặt mua hàng của ĐVCNT và giao dịch đó bị từ chối thanh toán. Nhân viên đơn vị chấp nhận thẻ  sửa đổi thông tin trên các hóa  đơn thẻ hoặc in nhiều hóa  đơn thanh toán của một thẻ. Trong trường  hợp này nhân viên khi thực hiện giao dịch đã cố tình in nhiều hóa đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó nhân viên sẽ mạo nhận chủ thẻ hoàn tất giao dịch và nộp các hóa đơn thanh toán còn lại để đòi tiền, chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Ngoài ra nhân viên tại ĐVCNT cũng có thẻ sửa đổi hoá đơn giao dịch, ghi tăng giá trị giao dịch mà không được sự đồng ý của chủ thẻ để lấy tiền tạm ứng của ngân hàng Sao chép và tạo băng từ  giả ( Skimming ): Trên các thiết bị đọc thẻ tại ĐVCNT có thể bị cài thêm thiết bị để thu thập các thông tin trên băng từ của thẻ thật thanh toán tại các ĐVCNT hoặc nhân viên ĐVCNT có thể câu kết với các tổ chức tội phạm đọc dữ liệu thẻ thật bằng các thiết bị chuyên dùng riêng b. Nguyên nhân Hiện nay mạng lưới cung ứng dịch vụ thanh toán ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở rộng với hàng ngàn máy ATM và POS. Nhưng công nghệ hỗ trợ lại chưa cao. Các tổ chức thẻ quốc trế triển khai các công cụ xác thực do tội phạm thẻ có khá đủ thông tin về thẻ bị lợi dụng.Trong khi tổ chức tội phạm với những thủ đoạn mới, sử dụng các thiết bị công nghệ hiện đại, có sự móc nối với nước ngoài lại càng nhiều. Tỷ lệ giả mạo trong các giao dịch thanh toán thẻ tại Việt Nam có lúc cao gấp 3 lần thế giới và gấp gần 10 lần khu vực. Thẻ nói chung và thẻ Master card nói riêng là một lĩnh vực vẫn còn khá mới mẻ đối với ngân hàng Việt Nam nên chưa có đầy đủ các chế tài xử lý. Để có thể phòng ngừa rủi ro cho việc sử dụng thẻ Master card cần rất nhiều sự hợp tác từ khách hàng và đơn vị chấp nhận thẻ, nhưng hiện nay sự hợp tác này tại Việt Nam vẫn còn rất thấp. Người sử dụng nhiều khi vẫn chưa hiểu hết công dụng của Master card, và chưa ý thức được vai trò của mình trong việc bảo mật thông tin thẻ, phòng tránh giả mạo thẻ. Sự phối hợp của các ngân hàng trong hoạt động trong quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc sử dụng Master card mang lại rất nhiều tiện ích cho doanh nghiệp trong việc thanh toán tuy nhiên để phòng ngừa rủi ro giao dịch giả mạo, doanh nghiệp phải áp dụng các phương pháp quản lý rủi ro nội bộ, tuy nhiên các phương án xác thực khách hàng chặt chẽ lại tạo nhiều phiền phức cho khách hàng dẫn tới việc hạn chế mua hàng. Về trình độ chuyên môn: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ là một nghiệp vụ mới, cán bộ chưa được đào tạo chuyên nghiệp và có bài bản về lĩnh vực này. Chủ yếu cán bộ tiến hành công việc bằng kinh nghiệm có được trong quá trình làm việc và qua sách vở nên không thể tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu cũng như đôi khi không có phản ứng kịp thời đối với những biến động mới xảy ra. Đề xuất giải pháp Hoàn thiện tổ chức hoạt động Quản lý rủi ro trong hệ thống thẻ. Nâng cao trình độ chuyên môn đạo đức cán bộ thẻ. Xây dựng hệ thống chấm  điểm và phân loại khách hàng. Thông tin hướng dẫn sử dụng thẻ  an toàn. Thiết lập các hạn mức sử dụng và chấp nhận thẻ Hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra công tác thanh toán thẻ tại các ĐVCNT. Theo dõi các báo cáo hoạt động thẻ và chương trình quản lý rủi ro toàn cầu của các Tổ  chức thẻ quốc tế. Phát hành thẻ chip thay thế thẻ mã hoá bằng băng từ. Xây dựng hệ thống dự  phòng cho hoạt động thẻ. Phối hợp với các tổ chức kinh doanh thẻ  trong nước và quốc tế trong công tác ngăn ngừa và  phát hiện rủi ro.  Thắt chặt quản lý rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh thẻ, đặc biệt là các mảng kinh doanh thẻ nội địa, nhằm giảm tổn thất kinh doanh, củng cố lòng tin của công chúng và xây dựng thị trường thẻ hoạt động lành mạnh. Cần nghiên cứu xây dựng chuẩn riêng về thẻ thanh toán hoặc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về bảo mật, an toàn dữ liệu trong lĩnh vực kinh doanh thẻ tại Việt Nam. Hội Thẻ ngân hàng cần khuyến khích, hỗ trợ các hội viên chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ chip với lộ trình phù hợp, Sử dụng các hệ thống giám sát giao dịch thẻ, công cụ quản lý rủi ro hiện đại, nhằm kiểm soát tốt rủi ro mà vẫn đảm bảo hoạt động kinh doanh không bị gián đoạn...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp phát triển thẻ tín dụng quốc tế Master Card ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan