Tăng cường huy động và quản lý điều hành vốn tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang

tăng cường huy động và quản lý điều hành vốn tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang I. Vốn huy động và vai trò của vốn huy động đối với hoạt động của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giangII. Công tác huy động vốn tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang Chương II: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động và quản lý điều hành vốn tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giangIII. Giải pháp quản lý và điều hành nguồnvốn IV. Kiến nghị với Quỹ TW1/ Kiến nghị đối với Quỹ TW về chính sách, giải pháp huy động vốn .

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tăng cường huy động và quản lý điều hành vốn tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận xét qua các số liệu về huy động vốn : Huy động vốn năm sau cao hơn năm trước. Nhưng thực tế so với kế hoạch giao tỷ lệ huy động vốn chưa cao (năm 2003 đạt 84 %). Hà giang là một Tỉnh miền núi, ngân sách khó khăn, nợ đọng khối lượng xây dựng cơ bản còn nhiều, tình hình tài chính các doanh nghiệp còn rất yếu kém nên các nguồn vốn Chi nhánh có thể huy động được rất hạn chế. (hình 2) Biểu 3 : Công tác cho vay Đơn vị tính : Triệu đồng Năm Nội dung Kế hoạch Thực hiện % hoàn thành 2000 2001 2002 2003 - C/vay tín dụng Trung ương - C/vay tín dụng địa phương - C/vay kiên cố hoá kênh mương - C/vay tín dụng Trung ương - C/vay tín dụng địa phương - C/vay kiên cố hoá kênh mương – C/vay tín dụng Trung ương - C/vay tín dụng địa phương - C/vay kiên cố hoá kênh mương – C/vay tín dụng Trung ương - C/vay tín dụng địa phương - C/vay kiên cố hoá kênh mương 24.890 58.530 15.000 61.904 31.690 28.000 66.853 18.651 23.000 51.102 25.600 35.000 10.630 55.440 15.000 46.652 22.600 20.000 55.953 9.940 23.000 50.855 25.600 35.000 42 % 94,7 % 100 % 75 % 71,3 % 71,4 % 83,7 % 53,3 % 100 % 99,5% 100 % 100 % Nhận xét về kết quả cho vay : Cho vay kiên cố hoá kênh mương luôn luôn hoàn thành kế hoạch bởi đây là nguồn vốn ưu đãi, không lãi suất, nguồn cho vay được Nhà nước cấp hoàn toàn. Cho vay các dự án Trung ương cũng có nhiều thuận lợi, các dự án này luôn được đảm bảo nguồn vốn đầy đủ, kịp thời. Bên cạnh đó thì các dự án địa phương quá trình giải ngân gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, Chi nhánh phải tự cân đối nguồn vốn trên cơ sở vốn được cấp và vốn Chi nhánh tự huy động. Cụ thể qua các năm như sau : * Năm 2000 : + Công tác tín dụng trung ương : - Kế hoạch cho vay 24.890 triệu đồng. - Thực hiện 10.630 triệu đồng . Do năm 2000 là năm đầu tiên thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nên việc thực hiện nhiệm vụ này còn nhiều hạn chế. Dự án đủ điều kiện và có khả năng hoàn vốn thấp, nguồn vốn đáp ứng nhu cầu cho vay còn thiếu. Do đó giải ngân (cho vay) chỉ đạt 42 % so với kế hoạch được giao. + Công tác tín dụng địa phương : Kế hoạch giao 58.530 triệu đồng, thực hiện 55.440 triệu đồng - đạt 94,7 %. + Vay kiên cố hoá kênh mương : Đạt 100 % kế hoạch . * Năm 2001 : + Công tác tín dụng trung ương : Cho vay đầu tư trồng rừng nguyên liệu giấy cho 3 Lâm trường của Công ty Nguyên liệu giấy Vĩnh phú và thanh toán khối lượng hoàn thành các công trình giao thông, kế hoạch 2001 là 61.904 triệu đồng thực hiện 46.652 triệu đồng - đạt 75 % kế hoạch. Cũng như năm 2001 việc giải ngân các dự án tín dụng trung ương gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, tiến độ thi công, nghiệm thu khối lượng hoàn thành chậm chưa kịp tiến độ đã ảnh hưởng tới việc giải ngân các dự án trung ương. + Công tác tín dụng địa phương : Kế hoạch giao 31.690 triệu đồng thực hiện 22.600 triệu đồng - đạt 71,3 % kế hoạch. * Năm 2002 : + Công tác tín dụng trung ương : Kế hoạch giao cho vay các dự án trung ương năm 2002 là 66.853 triệu đồng, thực hiện 55.953 triệu đồng. Năm 2002 việc cho vay các dự án tín dụng trung ương đã cao hơn so với 2 năm trước đó, nhưng so với kế hoạch cũng chỉ đạt 83,7 %. Nguồn vốn đã cân đối đủ nhưng do tiến độ thi công công trình của các đơn vị thi công chậm nên Quỹ không giải ngân theo đúng kế hoạch. + Công tác tín dụng địa phương : Kế hoạch giao 18.651 triệu đồng, thực hiện 9.940 triệu đồng - đạt 53,3 %. Kết quả thực hiện công tác giải ngân dự án địa phương năm 2003 không cao do các dự án đăng ký kế hoạch vay vốn từ đầu năm, khi thẩm định không đủ điều kiện để giải ngân nên Chi nhánh không cho vay. Vì vậy đã ảnh hưởng nhiều tới công tác giải ngân. * Năm 2003 : + Công tác tín dụng trung ương : Kế hoạch giao cho vay các dự án trung ương là 51.102 triệu đồng, giải ngân 50.855 triệu đồng - đạt 99,5 %. Năm 2003 kết quả đạt được cao do nguồn vốn khó khăn nên các đơn vị thi công đã thanh quyết toán nhanh khối lượng hoàn thành, số vốn còn lại là 5 % giữ chờ quyết toán. + Công tác tín dụng địa phương : Cũng như công tác tín dụng trung ương Chi nhánh đã chủ động trong việc thẩm định, tìm những dự án có đủ điều kiện, có khả năng sinh lời và hoàn trả vốn đúng quy định, kế hoạch giải ngân được xem xét điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp nên kế hoạch giao 25.600 triệu, thực hiện 25.600 triệu - đạt 100 %. Biểu 4 : Công tác thu nợ gốc Đơn vị tính : Triệu đồng Năm Nội dung Kế hoạch Thực hiện % hoàn thành 2000 2001 2002 2003 - C/vay tín dụng Trung ương - C/vay tín dụng địa phương - C/vay kiên cố hoá kênh mương - C/vay tín dụng Trung ương - Tín dụng địa phương - Kiên cố hoá kênh mương - Tín dụng Trung ương - Tín dụng địa phương - Kiên cố hoá kênh mương - Tín dụng Trung ương - Tín dụng địa phương - Kiên cố hoá kênh mương 154 5.817 0 871 19.140 0 1.124 23.485 7.500 35.000 40.000 15.000 154 6.058 0 963 17.913 0 1.176 23.156 7.500 34.622 35.000 15.000 100 % 104 % 110,5 % 93,6 % 104,6 % 98,6 % 100 % 98,9 % 87,5 % 100 % Nhận xét về công tác thu nợ : Do ngay từ đầu các dự án vay vốn được thẩm định kỹ lưỡng và việc quyết định cho vay tiến hành theo đúng trình tự quy định về các điều kiện đảm bảo vay vốn nên việc cho vay đã thu được nhiều kết quả khả quan, mặc dù nợ quá hạn vẫn còn nhưng rất nhỏ so với tổng dư nợ. Đó là do kế hoạch thu nợ được giao luôn được Chi nhánh dùng mọi biện pháp đốc thu để đạt được kết quả như trên. Công tác thu nợ đối với các khoản cho vay kiên cố hoá kênh mương luôn đạt 100 % nhờ sự quan tâm có trách nhiệm của Tỉnh đối với các dự án này. Biểu 5 : Công tác thu nợ lãi đơn vị tính : Triệu đồng Năm Nội dung Kế hoạch Thực hiện % hoàn thành 2000 2001 2002 2003 - Thu lãi dự án Trung ương - Thu lãi dự án địa phương - Thu lãi, phí ODA - Thu lãi dự án Trung ương - Thu lãi dự án địa phương - Thu lãi, phí ODA - Thu lãi dự án Trung ương - Thu lãi dự án địa phương - Thu lãi, phí ODA - Thu lãi dự án Trung ương - Thu lãi dự án địa phương - Thu lãi, phí ODA 9 1.357 0 257 4.487 26,693 221 4.049 103 2.000 3.024 28 12 2.371 0 155 4.481 26,693 211 3.925 103 1.995 2.810 28 133 % 175 % 60,3 % 99,8 % 100 % 95,5 % 97 % 100 % 99,8 % 92.9 % 100 % Nhận xét qua số liệu thu lãi : Chỉ tiêu thu nợ lãi đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của Chi nhánh Quỹ, nó ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và các khoản chi phí phục vụ nhiệm vụ của Chi nhánh. Do đó Chi nhánh đã tìm mọi biện pháp, tăng cường cho công tác thu lãi, kết quả thu lãi qua các năm đều đạt trên 90 %. Biểu 6 : Kết quả thu - chi qua các năm Đơn vị tính : đồng Năm Thu Chi Chênh lệch thu - chi 2000 2001 2002 2003 3.065.826.532 5.970.106.545 4.802.607.303 5.268.852.998 863.795.462 1.221.557.418 1.293.249.810 1.714.263.431 2.202.031.070 4.748.549.127 3.509.357.493 3.554.589.567 + Các khoản thu gồm : Thu từ hoạt động nghiệp vụ : Thu lãi cho vay, lãi phạt quá hạn, lãi phạt các dự án bản lãnh trả không đúng hạn, lãi tiền gửi của Quỹ tại các Ngân hàng thương mại, thu phí dịch vụ bảo lãnh, thu phí uỷ thác, thu cấp bù chênh lệch lãi suất, thu phí dịch vụ thanh toán, thông tin và ngân quỹ... - Thu từ hoạt động tài chính : Thu lãi từ tín phiếu, trái phiếu Chính phủ, thu phí dịch vụ tư vấn đầu tư, thu từ hoạt động cho thuê tài sản... - Thu từ hoạt động bất thường : Các khoản thu phạt, thu thanh lý nhượng bán tài sản, thu chênh lệch do đánh giá lại tài sản thế chấp khi chủ đầu tư không trả được nợ (tài sản hình thành từ vốn vay của Quỹ), thu xoá nợ vay nay thu hồi được... + Các khoản chi gồm : - Chi hoạt động nghiệp vụ : Trả lãi tiền vay, trả lãi tiền gửi, trả lãi trái phiếu, chi phí huy động vốn, chi phí dịch vụ thanh toán, chi phí uỷ thác đầu tư, chi phí dịch vụ đầu tư, chi phí dự phòng rủi ro về tỷ giá, trích quỹ dự phòng rủi ro... - Chi phí quản lý : Chi cho cán bộ viên chức của Quỹ ( chi lương, BHXH, y tế, kinh phí công đoàn, chi ăn giữa ca, trợ cấp khó khăn theo quy định của pháp luật, trang phục làm việc, phương tiện bảo hộ lao động theo quy định); Chi khấu hao tài sản cố định; Chi cho hoạt động quản lý và công vụ (mua sắm vật tư văn phòng, cước phí về bưu điện, truyền tin, báo chí, tài liệu, điện nước, yê tế, xăng dầu, công tác phí, tuyên truyền hội họp, bảo dưỡng sửa chữa tài sản, thanh tra kiểm tra, đào tạo huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, chi tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng vi tính, ngoại ngữ ngắn hạn cho cán bộ viên chức của Quỹ , bốc dỡ, vận chuyển kho quỹ...). - Chi bất thường khác : Chi phí cho việc thu hồi các khoản nợ đã xoá, chi phí để thu các khoản phạt theo quy định, chi bảo hiểm tài sản và các loại bảo hiểm khác theo quy định, Chi chênh lệch do đánh giá lại tài sản thế chấp khi chủ đầu tư không trả nợ được (tài sản hình thành từ vốn vay của Quỹ), chi hỗ trợ các hoạt động đoàn thể của Quỹ HTPT theo quy định của Nhà nước (không bao gồm các khoản đóng góp ủng hộ các công đoàn ngành, địa phương, tổ chức xã hội và các cơ quan khác), các khoản chi khác theo thực tế phát sinh và có chứng từ hợp lý. (hình 3) 2. Thực trạng huy động vốn 2.1. Diễn biến quy mô vốn huy động Biểu 7 : Tăng trưởng huy động vốn qua các năm Đơn vị tính : triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Vốn huy động 5.000 12.000 13.000 16.000 Chênh lệch so với năm trước (±) 7.000 1.000 3.000 Tốc độ tăng trưởng (%) 140 8 23 Nhận xét qua số liệu : - Năm 2000 là năm đầu tiên thực hiện nhiệm vụ của Quỹ, cũng như các công việc khác Quỹ lần đầu tiên thực hiện nhiệm vụ huy động vốn do đó còn có nhiều hạn chế. Vì vậy kết quả huy động chỉ được 5.000 triệu đồng ( bằng 50% kế hoạch giao). - Năm 2001 là năm thứ 2 thực hiện nhiệm vụ này.Vì vậy kết quả huy động đã thay đổi đáng kể, kết quả đạt được 12.000 triệu đồng (bằng 80% kế hoạch giao). - Năm 2002 kết quả huy động cũng chưa cao chỉ đạt 13.000 triệu đồng (bằng 81 % kế hoạch). - Năm 2003 Chi nhánh đã cố gắng phấn đấu thực hiện nhiệm vụ huy động vốn và kết quả đã đạt được 84 % kế hoạch. Nhìn chung kết quả hoạt động vốn tại Chi nhánh chưa cao, so với kế hoạch được giao chỉ đạt tối đã ở mức 84 %. Nhưng thực tế đây cũng là một dấu hiệu quan trọng đáng khích lệ. (Hình 4) 2.2. Cơ cấu vốn huy động Biểu 8 : Kết cấu nguồn vốn huy động Đơn vị tính : Triệu đồng Kết cấu so với tổng nguồn Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Tổng nguồn Vốn huy động 107.500 5.000 177.500 12.000 224.500 13.000 268.700 16.000 % kết cấu 4,7 % 6,7 % 5,8 % 6 % Nhận xét qua số liệu : Nhìn chung nguồn vốn huy động rất nhỏ sơ với tổng nguồn. Do nguồn vốn huy động tại Chi nhánh chỉ được phép huy động theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do Quỹ Trung ương giao và việc thực hiện kế hoạch huy động vốn tại Chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì huy động vốn gặp khó khăn và còn phụ thuộc vào chỉ tiêu huy động được giao nên vốn để phục vụ công tác cho vay gặp khó khăn, thực hiện kế hoạch cho vay thấp do không đủ vốn. (hình 5) 2.3. Quan hệ cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn huy động Biểu 9:Hiệu suất sử dụng vốn huy động. Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Vốn huy động Vốn huy động sử dụng 5.000 5.000 12.000 12.000 13.000 13.000 16.000 16.000 % sử dụng vốn 100 100 100 100 Nhận xét qua các số liệu : Do vịêc huy động vốn của Chi nhánh thực hiện theo kế hoạch hàng năm Quỹ TW giao và việc huy động vốn của Chi nhánh so với kế hoạch hàng năm đều chưa đạt tỷ lệ hoàn thành tối đa. Nên vốn huy động phục vụ cho vay không đủ so với nhu cầu. Vì vậy số vốn huy động được đều được sử dụng hết 100 %. (Hình 6) 3. Đánh giá tình hình huy động vốn 3.1. Cơ sở để đánh giá Chỉ tiêu chính để đánh giá như sau : - Kết quả thực hiện công tác nguồn vốn : Kết quả này được so sánh với năm trước, so với chỉ tiêu kế hoạch, số cùng kỳ năm trước... để từ đấy thấy được sự tăng trưởng theo số tuyệt đối, số tương đối. - Cơ cấu nguồn vốn, tăng trưởng so với tổng dư nợ - Đánh giá mặt tích cực và những mặt tồn tại của công tác huy động vốn trong năm., cơ cấu nguồn vốn huy động, các hình thức huy động vốn, điều hành vốn, lãi suất điều chuyển. - Phân tích nguyên nhân và giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề phát sinh mới , những mặt còn tồn tại. 3.2. Những kết quả đạt được Qua số liệu huy động vốn tại Chi nhánh qua các năm ta thấy hoạt động huy động vốn đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng về tài sản cũng như thúc đẩy hoạt động của Chi nhánh. Tuy hoạt động huy động của Chi nhánh chưa cao so với kế hoạch và mục tiêu đề ra nhưng Chi nhánh Hà giang là một trong những đơn vị trong hệ thống Quỹ HTPT hoàn thành tốt công tác huy động vốn bởi những điều kiện khó khăn về cơ chế, tình hình thực tế tại địa phương của Hà giang là một Tỉnh nghèo xuất phát điểm thấp, hàng năm Nhà nước phải cấp kinh phí đến trên 90 %. Kết quả đó đạt được là do Chi nhánh đã chú trọng tới công tác huy động vốn, công tác thẩm định và công tác cho vay cũng được chú trọng. Điều đó cũng góp phần cho công tác huy động vốn đạt được kết quả. Đó là việc thẩm định để quyết định đầu tư vào các dự án thực sự có hiệu quả kinh tế – chính trị - xã hội cao, việc quyết định cho vay và công tác thu hồi nợ cũng góp phần thúc đẩy công tác huy động vốn ngày một hiệu quả hơn. Chi nhánh đã chú trọng tới hình thức huy động, xuất phát từ đặc điểm riêng của hệ thống Quỹ HTPT trong việc huy động vốn Chi nhánh đã lựa chọn hình thức huy động phù hợp, bỏ ra chi phí huy động là nhỏ nhất để huy động. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và đảm bảo quyền lợi của khách hàng khi có vốn huy động vào Chi nhánh. Chính vì vậy mà kết quả huy động vốn đã đạt được tuy chưa cao những cũng đáng khích lệ trong điều kiện vốn rất khó khăn như hiện nay và đặc biệt hơn nữa là tại địa bàn Tỉnh Hà giang. Hợp đồng tiền gửi, tiền vay của khách hàng được Chi nhánh chấp nhận cho thế chấp khi vay những dự án đủ điều kiện theo quy định của Quỹ TW với lãi suất ưu đãi cũng đã khuyến khích khách hàng lựa chọn Quỹ là bạn đồng hành trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 3.3. Những tồn tại và nguyên nhân Tuy đã đạt được những kết quả trong công tác huy động vốn, nhưng thực tế chưa cao và chưa hoàn thành kế hoạch đề ra do còn có những tồn tại chưa được khắc phục. 3.3.1. Nguyên nhân là do hệ thống Quỹ chưa có hệ thống thanh toán và kho quỹ như các Ngân hàng theo quy định. Quỹ vẫn phải thực hiện thanh toán qua hệ thống các Ngân hàng thương mại trên địa bàn. Vì vậy việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy đối tượng huy động vốn rất rộng nhưng được huy động trong phạm vi rất hẹp. Ví dụ : Tiền của các đơn vị nhàn rỗi trong thời gian ngắn nếu muốn gửi tiền vào quỹ phải thực hiện gửi vào Quỹ sau đó Quỹ lại thực hiện việc gửi vào các Ngân hàng, như thế sẽ mất thời gian và hiệu quả sử dụng không cao. Chính vì chưa có hệ thống thanh toán trực tiếp và hệ thống thanh toán nội bộ nên Quỹ chỉ huy động chủ yếu của các đơn vị có quan hệ tín dụng hoặc cấp phát thanh toán vốn uỷ thác với Quỹ. 3.3.2.công tác huy động vốn, quản lý và điều chuyển vốn trong toàn hệ thống Quỹ còn chưa mềm dẻo, mà cứng nhắc. Có nơi còn để tồn đọng vốn trong thời gian khá dài, trong khi đó có nơi thì lại thiếu vốn. Như đã nói ở phần trên do chưa có hệ thống thanh toán nội bộ nên việc điều chuyển nguồn vốn của hệ thống Quỹ HTPT từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn gặp nhiều khó khăn, mất thời gian do việc luân chuyển chứng từ thanh toán từ nơi này đến nơi khác phải qua nhiều khâu trung gian đó là các Ngân hàng thương mại nơi các Chi nhánh Quỹ mở tài khoản tiền gửi thanh toán. 3.3.3. Hình thức huy động vốn còn bị thu hẹp: Cùng hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nhưng các Ngân hàng thương mại được phép áp dụng rất nhiều hình thức huy động vốn, mà đối tượng có thể huy động vốn được rất rộng, rất lớn là các hộ dân , các cá nhân thì Quỹ lại chưa được phép huy động của các đối tượng này. 3.3.4. Lãi suất huy động : Lãi suất đối với vốn huy động của Chi nhánh Quỹ phụ thuộc vào từng thời kỳ quy định của Quỹ Trung ương, Chi nhánh không chủ động điều chỉnh cho phù hợp với các Ngân hàng được do đó việc thu hút khách hàng sẽ hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó những khoản vốn đã huy động được khi hết hạn hợp đồng nếu khách hàng không rút thì chuyển kỳ hạn mới và lãi không được nhập vào gốc do đó cũng không thu hút được khách hàng gửi tiền vào Quỹ. 3.3.5. Chi phí huy động vốn : Thực hiện công tác huy động vốn cũng cần phải có chi phí. Nhưng hiện tại Quỹ HTPT TW chưa ban hành định mức cụ thể chi phí cho công tác huy động vốn. 3.3.6. Huy động vốn trong hệ thống Quỹ còn mất cơ cấu cân đối : Nguồn vốn huy động của Quỹ HTPT chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn, trong khi đó cho vay trung hạn và dài hạn chiếm tỷ lệ cao (90%). Theo đánh giá 6 tháng đầu năm 2003 nguồn vốn ngắn hạn chiếm 12,7 %, cho vay ngắn hạn chỉ chiếm có 6 %. Trong khi đó các Ngân hàng thương mại huy động vốn ngắn hạn chiếm 80% cho vay trong hạn chiếm có 40 % là đã cảnh báo nguy cơ mất cân đối cơ cấu và khả năng thanh toán. Như vậy huy động vốn và cho vay như hiện nay của hệ thống Quỹ rất mất cân đói và khả năng thanh toán sẽ hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Chương II giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường huy động và quản lý điều hành vốn tại chi nhánh quỹ HTPT hà giang I/ Kế hoạch phát triển trong năm 2004 Trong năm 2003 Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đã vạch ra nhiều phương hướng, cũng như nhiều chiến lược khác nhau. Trong công tác huy động vốn Chi nhánh đã dự kiến tăng trưởng huy động vốn bình quân là 5 %. Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đã đề ra mục tiêu phải tạo lập được nguồn vốn vững chắc, có tốc độ tăng trưởng cao nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình phát triển và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bao gồm vốn trung và dài hạn, vốn ngắn hạn hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu. Từng bước nâng cao chất lượng nguồn vốn huy động, đa dạng hoá nguồn vốn, phong phú về hình thức huy động. Một số cơ sở trong việc định hướng nguồn vốn những năm tiếp theo: - Đảm bảo đủ nguồn vốn cho vay tín dụng đầu tư phát triển theo phân cấp huy động và quyết định cho vay của Chi nhánh. - Xây dựng các chỉ tiêu phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa bàn Tỉnh Hà giang. - Cân đối nguồn vốn sử dụng trong năm kế hoạch. - Chất lượng nguồn vốn, sử dụng vốn trong năm kế hoạch - Nghiên cứu, ứng dụng các sản phẩm, công nghệ huy động vốn mới của toàn hệ thống... II/ các giải pháp trong công tác huy động vốn Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của Quỹ HTPT đã đa dạng hơn, bao gồm cho vay dài hạn, trung hạn , hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu... theo đó nhu cầu về vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cũng tăng từ 3-5 lần so với các năm trước đây. Mặt khác Chính phủ cũng đổi mới cách thức giao kế hoạch vốn tín dụng ĐTPT trong đó nguồn vốn cho vay chủ yếu do Quỹ HTPT tự tổ chức huy động. Đây thực sự là bài toán khó trong giai đoạn hiện nay khi nhu cầu về vốn nội tệ của nền kinh tế rất lớn. Lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng của các tổ chức tín dụng liên tục tăng và các tổ chức này cũng đang gặp khó khăn trong công tác huy động vốn. Đứng trước tình hình như vậy, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước, song song với việc đẩy mạnh công tác thu hồi nợ vay để tạo nguồn ngày 12 / 8/ 2002 Tổng giám đốc Quỹ đã có văn bản số 1564 HTPT-KHNV thực hiện đổi mới một bước công tác huy động vốn . Nếu trước đây công tác huy động vốn chỉ chủ yếu thực hiện ở Quỹ TW thì nay đã giao một phần cho các Chi nhánh Quỹ. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề ở các Chi nhánh Quỹ đặc biệt là các Chi nhánh Quỹ ở các Tỉnh có điều kiện kinh tế chưa phát triển trong đó đặc biệt hơn nữa là Tỉnh Hà giang, một trong một số Tỉnh nghèo nhất cả nước, kinh tế chậm phát triển, điều kiện thiên nhiên khí hậu khắc nghiệt , xuất phát điểm thấp thì nhiệm vụ mới này càng khó khăn nặng nề. Để thực hiện được nhiệm vụ trên một cách tích cực và có hiệu quả Chi nhánh cần thực hiện một số giải pháp sau: 1/ Đề xuất với UBND Tỉnh hỗ trợ trong công tác huy động vốn Chi nhánh phải khẩn trương phối hợp với các Ban, Ngành xây dựng và trình UBND Tỉnh đề án huy động vốn trên đại bàn. Trên cơ sở đó UBND Tỉnh ban hành quy chế huy động vốn cho TD ĐTPT trên địa bàn. Đây là hành lang pháp lý quan trọng làm cơ sở cho Chi nhánh huy động và tiếp nhận các nguồn vốn trong Tỉnh. Trong điều kiện của Tỉnh kinh tế xã hội phát triển chậm, một số nguồn vốn cần được UBND Tỉnh chỉ đạo huy động gồm : 1.1. Nguồn vốn từ kinh phí bảo hành công trình của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định, có thể huy động được với số lượng lớn. UBND Tỉnh cần có định hướng cho các đơn vị gửi nguồn kinh phí bảo hành công trình tại Chi nhánh Quỹ HTPT. 1.2. Nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ bảo lãnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa của địa phương. UBND Tỉnh cần chỉ đạo các ban ngành chức năng trong Tỉnh sớm hình thành và đưa vào hoạt động quỹ bảo lãnh tín dụng các doanh nghiệp nhỏ và vừa của địa phương theo quy định cuỉa Chính phủ, trong đó nguồn vốn của Quỹ này cần gửi tập trung tại Chi nhánh Quỹ HTPT , tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ nhận uỷ thác của Chi nhánh Quỹ HTPT và tận dụng được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi phục vụ cho công tác tín dụng ĐTPT tại địa phương. 1.3. Nguồn vốn từ các tổ chức bảo hiểm ( ngoài Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam) hiện nay các tổ chức bảo hiểm được Nhà nước cho phép thành lập rất đa dạng. Do đó Chi nhánh cần tiếp cận để huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này. 1.4. Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Quỹ đầu tư địa phương, hiện nay trong Tỉnh chưa có Quỹ này, nếu có Chi nhánh cần tận dụng để huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các Quỹ này trên cơ sở có ý kiến chỉ đạo của UBND Tỉnh. 1.5. Nguồn vốn từ các tổ chức Tài chính và các tổ chức tín dụng khác, trong tình hình chung, các tổ chức này cũng đang gặp khó khăn về nguồn vốn. Tuy nhiên có một số tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng có thể có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi , nên có thể tận dụng nguồn này để tập trung vốn cho vay tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu. 1.6. Nguồn vốn từ các khoản đảm bảo tiền vay Quỹ HTPT, trong một số trường hợp có thể huy động nguồn từ các khoản đảm bảo tiền vay Quỹ HTPT nếu chủ đầu tư bảo đảm tiền vay bằng tiền. 1.7. Nguồn vốn từ khấu hao cơ bản, quỹ phát triển sản xuất ở các doanh nghiệp. Đối với Tỉnh kinh tế xã hội còn chậm phát triển UBND Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước như cơ chế ưu tiên trong việc vay vốn thì Quỹ cũng có thể huy động được nguồn vốn này. 2. Cơ cấu lại nguồn vốn huy động Đối với Quỹ HTPT nguồn vốn bao gồm : Vốn Nhà nước cấp hàng năm để đầu tư phát triển, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và nguồn vốn Chi nhánh tự huy động để cho vay tín dụng đầu tư phát triển theo phân cấp và cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu... Do đó Chi nhánh sẽ lên kế hoạch cụ thể mục tiêu cho vay trong năm đối với từng dự án để từ đó có kế hoạch huy động vốn được sát với nhu cầu cho vay các dự án có hiệu quả kinh tế – chính trị – xã hội. Đối với các nguồn vốn huy động có kỳ hạn theo quy định sẽ được điều chuyển quản lý tập trung trong toàn hệ thống, Chi nhánh sẽ căn cứ vào kế hoạch cụ thể giao trong năm của Quỹ TW giao cho Chi nhánh để huy động. Đối với nguồn vốn huy động cho vay theo phân cấp và cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu chi nhánh sẽ có kế hoạch cụ thể để huy động nhằm tăng số dư nợ vay trong năm của Chi nhánh. 3. Tiếp thục đẩy mạnh chính sách khách hàng Khách hàng chính là điều kiện sống còn và phát triển của Chi nhánh. Do đó trong năm 2004 Chi nhánh sẽ có những kế hoạch cụ thể đối vời khách hàng như sau : Kiến nghị với Quỹ TW về lãi suất huy động vốn sao cho phù hợp với điều kiện tại Tỉnh Hà giang. Tổ chức Hội nghị khách hàng nhằm tuyên truyền hơn nữa về hoạt động của Quỹ cũng như các quyền lợi của khách hàng được hưởng khi tham gia vào hoạt động của Quỹ. Tiếp tục thay đổi lề lối làm việc tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái vui vẻ khi giao dịch tại Quỹ. Phục vụ khách hàng chu đáo nhiệt tình , luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Do đó cần vạch ra một chính sách cụ thể, vận động toàn bộ cán bộ viên chức trong Chi nhánh tham gia. Tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhanh nhất cho khách hàng khi gửi cũng như khi rút tiền. Bởi chất lượng phục vụ khách hàng là một nhân tố hết sức quan trọng để giúp Chi nhánh có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho Chi nhánh Quỹ vì chất lượng phục vụ khách hàng là con đường ngắn nhất, bền vững nhất giúp Chi nhánh Quỹ chiến thắng trong việc cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại cùng hoạt động trên địa bàn trong công tác huy động vốn và các công tác khác như cho vay... 4. Tăng cường các hoạt động dịch vụ liên quan đến huy động vốn - Tư vấn khách hàng : Trình độ dân trí ở Việt nam chưa cao, đặc biệt là tại Tỉnh Hà giang một trong những một số Tỉnh nghèo nhất cả nước thì lĩnh vực tín dụng đầu tư phát triển và các hoạt động khác của Quỹ HTPT là còn khá mới mẻ. Vì thế Quỹ cần phải có những thông tin , giải thích kỹ càng cho khách hàng hiểu về Quỹ HTPT, cung cấp những thông tin có thể giúp cho khách hàng lựa chọn các hình thức gửi tiền phù hợp nhất .... - Tiếp tục mở rộng dịch vụ Homebanking : Khách hàng chỉ cần ở nhà cũng biết được các thông tin về tỷ giá, lãi suất, xem thông tin về các dịch vụ khách hàng, theo dõi số dư, số phát sinh trên tài khoản ... 5. Nâng cao tỷ trọng hợp đồng tiền gửi, tiền gửi thanh toán trong nguồn vốn huy động. Trong các hình thức huy động vốn thì hình thức hợp đồng vay vốn sẽ có nhiều khó khăn cho Quỹ, mất thời gian, chi phí để thực hiện. Trong khi đó hình thức mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Chi nhánh Quỹ có nhiều thuận lợi và đã thu được kết quả tốt trong việc huy động vốn từ hình thức này. Vì vậy Chi nhánh cần phát huy hơn nữa việc thu hút số lượng khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Chi nhánh Quỹ. 6. Nâng cao uy tín của Chi nhánh Quỹ HTPT, tạo lòng tin với khách hàng gửi tiền. Việc chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác mang đầy tính rủi ro, người gửi tiền luôn muốn đồng tiền của mình được an toàn và sinh lợi nên họ phải gửi nó vào nơi đáng tin cậy. Để nâng cao uy tín trên thị trường, Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang phải chú trọng đến công tác thanh khoản, tránh rơi vào tình trạng thiếu hụt vốn thanh toán dù chỉ là tạm thời bởi vì điều này sẽ làm mất lòng tin của khách hàng đối với Chi nhánh Quỹ. Vì vậy hoạt động của Chi nhánh Quỹ HTPT phải đảm bảo an toàn hiệu quả. 7.Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ Công tác kiểm tra giám sát rất quan trọng đối với bất kỳ đơn vị nào khi thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào. Do đó cần phải tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện nhiệm vụ tại Chi nhánh Quỹ từ việc thẩm định các dự án vay vốn, huy động vốn đến công tác cho vay và thu hồi nợ. Khi công tác kiểm tra giám sát được tăng cường thì sẽ kịp thời đưa ra được biện pháp xử lý phù hợp. Phải có công tác kiểm tra giám sát thì mới biết được việc thực hiện công tác thẩm định, huy động vốn, cho vay có đúng quy trình đã được Quỹ TW ban hành, các dự án vay vốn có đảm bảo đầy đủ các điều kiện theo quy định hay không, hiệu quả của dự án đó như thế nào, sẽ ảnh hưởng tới việc thu hồi nợ đến đâu ... Đối với công tác huy động vốn, cần phải kiểm tra giám sát để phát hiện những vi phạm pháp luật, những rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh tiền tệ, những tòn tại yếu kém trong công tác huy động vốn từ đó báo cáo kịp thời để các phòng có kế hoạch sửa đổi kịp thời. Những sai phạm, không đúng với kế hoạch đề ra trong công tác huy động vốn cần được báo cáo kịp thời, Chi nhánh Quỹ phải theo dõi sát sao quá trình huy động vốn, số vốn huy động được sử dụng như thế nào... Chi nhánh nên có bộ phận kiểm tra giám sát hoạt động độc lập tách riêng với các bộ phận khác. Các văn ban mới ban hành, quy chế mới cần được thông báo kịp thời đến toàn thể cán bộ, đặc biệt là những cán bộ thực hiện công tác kiểm tra. 8. Một số giải pháp khác trong công tác huy động vốn Từ khi luật doanh nghiệp có hiệu lực, hàng loạt các doanh mới ra đời với nhu cầu vay vốn rất lớn để ĐTPT sản xuất, theo đó nhu cầu vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng tăng nhanh nhằm đáp ứng các nhu cầu đó. Hai năm gần đây, mỗi năm kế hoạch vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước giao cho Quỹ HTPT thực hiện là 25.000 tỷ đồng, trong đó số vốn Quỹ cần huy động để cho vay khoảng 15.000 tỷ đồng, tăng từ 3 – 5 lần. Xuất phát từ tình hình trên Quỹ TW đã khẩn trương xây dựng chiến lược huy động vốn, coi đây là một trong các nhiệm vụ trong tậm phải hoàn thành nhằm chủ động đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn ngày càng lớn cho tín dụng ĐTPT và hỗ trợ xuất khẩu. Do đó một số gải pháp góp phần thực hiện nhiệm vụ huy động vốn đó là : 8.1. Rà soát lại các văn bản pháp quy trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách về công tác huy động vốn của hệ thống Quỹ HTPT. Cơ chế khai thác và sử dụng nguồn vốn cần đựơc hoàn thiện. Hoàn thiện việc xác định lãi suất huy động vốn cho phù hợp với thị trường vốn từng thời kỳ. Các kỳ hạn huy động vốn phải đa dạng, hấp dẫn và phù hợp với nhu cầu của các nhà đầu tư. Vì có thể nói lãi suất và kỳ hạn huy động vốn là hai nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại trong việc tổ chức triển khai công tác huy động vốn, nên phải được thường xuyên theo dõi chặt chẽ để điều chỉnh linh hoạt sao cho phù hợp, hấp dẫn các nhà đầu tư trên thị trường vốn hiện nay. 8.2. Chi nhánh chủ động kế hoạch hoá nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, đó là việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để lập kế hoạch huy động vốn và sử dụng vốn. Trong khâu lập kế hoạch cần kết hợp giữa kế hoạch huy động vốn tổng thể dài hạn với kế hoạch ngắn hạn hàng năm, quý và xác định cụ thể cơ cấu nguồn vốn huy động trung dài hạn, ngắn hạn. Kế hoạch vốn huy động hàng năm phải bám sát với nhu cầu thực tế sử dụng vốn. Khi xây dựng đựơc cơ chế thanh toán nội bộ, đảm bảo chủ động, linh hoạt trong việc điều chuyển, điều hoà nguồn vốn, tránh lãng phí và sử dụng vốn kém hiệu quả. 8.3. Đa dạng hoá hình thức phát hành và thanh toán : cùng với việc duy trì và tăng số lượng vốn huy động từ các tổ chức truyền thống như bảo hiểm, tiết kiệm bưu điện ... cần xúc tiến ngay việc mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng để thực hiện các hình thức huy động vốn mới đa dạng, linh hoạt hơn. Tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ bằng nhiều hình thức khác nhau qua thị trường chứng khoán tập trung. Quỹ có thể phát hành trực tiếp, phát hành đấu thầu, bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành. Phát hành trực tiếp được coi là ưu tiên vì qua đó Quỹ chủ động được nguồn vốn , đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng vốn. 8.4. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dung ĐTPT : Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư nhằm lựa chọn các dự án có hiệu quả kinh tế thực sự, có khả năng hoàn trả vốn nhanh để quay vòng nhanh đồng vốn. Kiểm soát chặt chẽ trong khâu thanh toán sao cho việc sử dụng vốn bảo đảm đúng mục đích, không để thất thoát , lãng phí vốn trong đầu tư và xây dựng. III/ giải pháp Quản lý và điều hành nguồn vốn Trong bất cứ hoạt động nào ta biết vấn đề vốn đặc biệt quan trọng nó mang tính sống còn của các cá nhân, đơn vị, tổ chức hay doanh nghiệp. Bên cạnh việc huy động vốn đủ để thực hiện các mục tiêu của mình, người ta vẫn thường nhắc đến yêu cầu về quản lý điều hành vốn với chất lượng cao nhất , phù hợp nhất. Hệ thống Quỹ HTPT với tính chất là tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng không thể không đáp ứng những yêu cầu đó. Từ 2 năm trở lại đây thị trường vốn đã trở nên “nóng bỏng” và luôn như người lên cơn sốt, huy động vốn ngày càng trở lên khó khăn, việc quản lý và điều hành nguồn vốn tại Quỹ HTPT làm sao để đạt hiệu quả cao nhất càng trở nên cấp thiết. Vậy trong công tác quản lý điều hành nguồn vốn tín dụng ĐTPT nên quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau : 1. Quỹ HTPT TW phải là trung tâm điều chuyển , điều hoà vốn. Toàn bộ các nguồn vốn phát sinh tại các Chi nhánh Quỹ bao gồm thu hồi nợ vay, vốn huy động ... được tập trung về Quỹ TW. Tuy nhiên tập trung không có nghĩa là tất cả các vốn đều phải chuyển hết về Quỹ TW , bởi tại các Chi nhánh Quỹ cũng có những nhu cầu sử dụng vốn thường xuyên, vì vậy cần thiết phải giữ lại một phần vốn nhất định tại các Chi nhánh Quỹ để đảm bảo cho các nội dung đó. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần vận dụng “tồn ngân” và “thấu chi” sao cho phù hợp để đạt được các mục tiêu của mình ( Tồn ngân chỉ sự có mặt của đồng tiền trong két (hay tài khoản) và có khả năng sử dụng tức thời, thấu chi chỉ sự sử dụng đồng vốn quá khả năng hiện có tại một thời điểm nào đó ). Với tồn ngân, Chi nhánh Quỹ chỉ được giữ lại một phần vốn nhất định, theo định mức tồn ngân do Quỹ TW quy định. Nói một cách khác, định mức tồn ngân là định mức vốn tối đa (gồm tồn quỹ tiền mặt, số dư tiền gửi của Chi nhánh Quỹ mở tài các ngân hàng thương mại trên địa bàn) được phép duy trì tại Chi nhánh Quỹ nhằm đáp ứng nhu cầu về chi tiêu nội bộ thường xuyên và nhu cầu chi trả tiền gửi không kỳ hạn của Chi nhánh Quỹ. Như vậy toàn bộ số vốn dư ra so với định mức tồn ngân sẽ được chuyển về tập trung tại Quỹ TW, bằng cách này tất cả các vốn từ các nguồn khác nhau của tất cả các Chi nhánh Quỹ còn dư dù ít dù nhiều so với định mức tồn ngân sẽ được tập trung về một điểm, từ đó điều hoà trở lại những nơi dự án đang cần vốn. Thực hiện biện pháp này cho phép giải quyết được tình trạng nơi thừa nơi thiếu vốn tại các Chi nhánh Quỹ, đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất, tiết kiệm được chi phí vốn do nếu nơi thiếu vốn không được điều hoà theo cách này sẽ phải huy động để đáp ứng các nhiệm vụ của mình và phải chịu lãi suất huy động (chi phí vốn) trong khi nơi thừa vốn cũng phải chịu lãi suất huy động vốn. Nhưng việc sử dụng định mức tồn ngân cũng chưa phải là tối ưu mà vẫn tồn tại những mặt hạn chế của nó. Trong những trường hợp nhất định, khi Chi nhánh Quỹ chưa huy động đủ vốn để đáp ứng những nhu cầu giải ngân cho các dự án trung và dài hạn hoặc hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn mà trách nhiệm huy động vốn thuộc Chi nhánh Quỹ thì việc áp dụng thuần tuý định mức tồn ngân sẽ trở nên cứng nhắc, không linh hoạt và không đáp ứng được nhiệm vụ tín dụng ĐTPT đặt ra. Và trong trường hợp đó “thấu chi “ đặc biệt trở nên hữu dụng, tức là các Chi nhánh Quỹ có thể sử dụng số vốn lớn hơn định mức tồn ngân, phần lớn hơn đó được điều chuyển về từ Quỹ TW. Tuy nhiên việc thấu chi cũng chỉ được trong một chừng mực nhất định, đó chính là “hạn mức thấu chi “, nói cách khác hạn mức thấu chi là giới hạn tối đa mà Chi nhánh Quỹ được phép thấu chi trong một thời kỳ. Tuy nhiên để đảm bảo tính thống nhất và điều hoà vốn trong toàn hệ thống và góp phần nâng cao trách nhiệm huy động và sử dụng vốn trong tín dụng, việc thấu chi cũng chỉ được phép trong khoảng thời gian nhất định theo thời hạn thấu chi do Quỹ HTPT quy định. Như vậy định mức tồn ngân và hạn mức thấu chi tỏ ra có rất nhiều ưu điểm trong tình hình hiện nay , bản thân các công cụ này có tính tương hỗ lẫn nhau, vận dụng hợp lý các công cụ này sẽ cho phép chúng ta quản lý điều hành nguồn vốn được tập trung thống nhất, góp phần cân đối vốn chung trong toàn hệ thống. 2. Dù là Quỹ HTPT hay các Chi nhánh Quỹ việc sử dụng vốn đều phải chịu những chi phí vốn nhất định. Thực hiện nguyên tắc này cần thiết phải xác định rõ rằng : về cơ bản chi phí vốn này không chỉ đơn thuần là lãi suất huy động vốn mà bao gồm cả lãi suất huy động nguồn vốn đó và chi phí khác. Trong các trường hợp thông thường , chi phí này là chi phí sử dụng vốn hoặc phí điều chuyển vốn. Phí điều chuyển vốn phản ánh việc điều chuyển vốn về Quỹ TW và Chi nhánh Quỹ được hưởng. Còn phí sử dụng vốn phản ánh việc sử dụng vốn do đơn vị khác huy động được điều chuyển về, nếu phần vốn được điều chuyển về Chi nhánh là nguồn vốn do chính Chi nhánh ấy huy động thì mức phí này là bằng không. Với những trường hợp đặc biệt khác, phần chi phí khác này bao gồm những mức phí khác nhau, nếu vượt hạn mức và thời hạn thấu chi thì sẽ bao gồm cả phí vượt thấu chi tương ứng. Việc xác định những mức phí hợp lý theo các nội dung này sẽ có tác dụng tích cực góp phần nâng cao trách nhiệm huy động vốn, khắc phục tư tưởng ỷ lại bởi lẽ nếu các đơn vị không tích cực huy động vốn thì sẽ phải chịu chi phí vốn rất cao do dùng nguồn mà các đơn vị khác huy động được ( khoản chi phí này sẽ bị đánh thẳng vào khoán chi thường xuyên của các đơn vị) và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị trong toàn hệ thống, trong đó đặc biệt quan trọng là kế hoạch hoá nguồn vốn và cho vay, thu nợ vốn tín dụng. 3. Hạn mức thấu chi, định mức tồn ngân và các mức phí do Quỹ TW quy định căn cứ vào đặc điểm hoạt động và tình hình thực tế của các Chi nhánh Quỹ, có tính đến việc điều chuyển chung trong toàn hệ thống, trong đó vấn đề quan trọng là căn cứ vào tình hình huy động vốn , khả năng cân đối vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong từng thời kỳ cụ thể, đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với những điều kiện khác nhau, trong những thời kỳ khác nhau. Ngoài ra hai công cụ này cũng phải có chu kỳ xác định như nhau để đảm bảo tính nhất quán và tính tích cực hỗ trợ lẫn nhau. Có thể nói, yêu cầu về quản lý và điều hành nguồn vốn của hệ thống Quỹ HTPT đang đặt ra những vấn đề cấp bách , việc sử dụng các công cụ về chi phí, về định mức tồn ngân và hạn mức thấu chi trên cơ sở quán triệt hướng đi quản lý tập trung thống nhất sẽ giúp khai thác và huy động được nhiều hơn các nguồn vốn phục vụ tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, góp phần tiết kiệm chi phí, điều hoà vốn được kịp thời hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. IV.KIến nghị với quỹ HTPT trung ương 1/ Kiến nghị đối với Quỹ TW về chính sách giải pháp huy động vốn: Công tác huy động vốn có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ xuất khẩu của các Chi nhánh Quỹ HTPT. Vì vậy Quỹ TW cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây để giúp các Chi nhánh Quỹ HTPT xác định và có những giải pháp huy động vốn phù hợp với từng Chi nhánh. 1.1.Quỹ HTPT Trung ương cần bổ sung chức năng huy động vốn ngắn hạn bằng VNĐ, huy động vốn từ các thành phần kinh tế và huy động vốn bằng ngoại tệ từ các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng nhằm đa dạng hoá các công cụ và nguồn vốn. 1.2. Chính phủ cho phép mở rộng hoạt động của Quỹ HTPT bao gồm cả việc bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhằm khuyến khích các chủ đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách gửi kinh phí bảo hành công trình, chờ quyết toán vào Quỹ HTPT. 1.3. Đa dạng hoá các hình thức phát hành trái phiếu , cho phép các Chi nhánh được phát hành trái phiếu trực tiếp tại địa bàn nhằm tận dụng tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong các thành phần kinh tế. 1.4. Hoạt động huy động vốn yêu cầu phải có kinh phí, do đó Quỹ TW cần nghiên cứu xây dựng và sớm ban hành định mức chi phí cho công tác huy động vốn. 2. Kiến nghị về giải pháp điều hành vốn 2.1. Hoàn chỉnh việc thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước Hiện nay hệ thống Quỹ HTPT chưa có hệ thống thanh toán nộ bộ. Do đó gặp nhiều khó khăn trong quá trình thanh toán các nghiệp vụ cho vay, thu nợ... qua các Chi nhánh Quỹ HTPT. Để đảm bảo việc thanh toán các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của Quỹ HTPT thì Quỹ TW cần khẩn trương đề xuất với Ngân hàng Nhà nước cho Quỹ được thanh toán trực tiếp qua Ngân hàng Nhà nước như các Ngân hàng thương mại hiện nay. Điều đó sẽ giúp cho Quỹ hoạt động thuận lợi rất nhiều : Đó là việc chuyển tiền cho các chủ dự án, các bên thi công trình về thời gian sẽ ngắn lại, không phải phụ thuộc vào các Ngân hàng thương mại mà hiện nay các Chi nhánh Quỹ phải gửi tiền và nhờ thanh toán hộ. Việc thu nợ cũng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi các đơn vị vay vốn nộp tiền trả nợ không phải nộp qua các ngân hàng thương mại nơi Quỹ đang gửi tiền... 2.2 Việc giao chỉ tiêu huy động vốn của Quỹ TW Tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang vào ngày 25 tháng cuối quí theo quy định Chi nhánh đều lập kế hoạch huy động vốn quí sau gửi về Quỹ TW. Khi lập kế hoạch Chi nhánh dự trù các nguồn vốn có thể huy động được, cơ cấu huy động sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn tín dụng của Chi nhánh. Tuy nhiên khi giao kế hoạch, Quỹ TW thường giao vượt lên nhiều so với kế hoạch Chi nhánh đã lập, vì vậy rất khó khăn cho Chi nhánh khi thực hiện kế hoạch huy động vốn và ảnh hưởng tới vốn giải ngân các dự án do thiếu vốn. 3. Kiến nghị về công tác tổ chức và đào tạo cán bộ 3.1. Kiến nghị về công tác tổ chức : Bộ phận làm công tác huy động vốn phải được kiện toàn từ Trung ương đến các Chi nhánh Quỹ, công tác huy động vốn đối với hệ thống Quỹ rất mới, đòi hỏi người cán bộ phải có chuyên môn nghiệp vụ, khả năng thuyết phục khách hàng có hiệu quả, giải quyết công việc nhanh chính xác, phải có tâm huyết với công việc và có trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ được phân công. Do đó Phòng kế hoạch – nguồn vốn hiện tại có 2 cán bộ là chưa đủ để thực hiện nhiệm vụ chung của phòng cũng như nhiệm vụ huy động vốn, cần phải bổ xung cán bộ cho bộ phận này. Bên cạnh đó nhiệm vụ huy động vốn là nhiệm vụ sống còn và quyết định tới mọi hoạt động của Chi nhánh. Vì vậy các phòng nghiệp vụ khác cần hỗ trợ, tạo điều kiện để nhiệm vụ này được thực hiện một cách hiệu quả nhất. 3.2. Kiến nghị về công tác đào tạo cán bộ: Để thực hiện tốt bất kỳ nhiệm vụ nào thì ngoài hành lang pháp lý, cơ chế để hoạt động thì nguồn nhân lực đóng một vai trò rất quan trọng, nguồn nhân lực quyết định thành hay bại khi thực hiện các nhiệm vụ. Vì vậy đối với hệ thống Quỹ mới ra đời và phát triển việc duy trì và phát triển nguồn nhân lực là một việc vô cùng quan trọng, trong thời đại của Công nghệ thông tin, nguồn nhân lực đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp thì trình độ công nghệ thông tin tin học cũng là một điều kiện quan trọng để hoàn thành tốt mọi công việc được giao. Đối với Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang, ngay từ đầu tuyển dụng cán bộ đã thực hiện theo đúng quy định của Quỹ TW về tiêu chuẩn trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do đó tổng số cán bộ viên chức 1987 người thì đại học 14 người chiếm 74 %. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ đã đáp ứng được yêu cầu về công tác chuyên môn. Nhưng trình độ tin học – công nghệ thông tin thì còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy việc phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Chi nhánh cũng cần phải khắc phục. - ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi phải giải quyết được 3 vấn đề chính là đầu tư trang thiết bị phần cứng, thiết kế xây dựng phần mềm và xây dựng nguồn nhân lực công nghệ thông tin để quản lý vận hành và khai thác hệ thống thông tin, trong đó duy trì và phát triển nguồn nhân lực CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả đầu tư phát triển CNTT. Nhìn lại nguồn nhân lực CNTT của hệ thống Quỹ nói chung và Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang nói riêng so với các tổ chức tương tự trong hệ thống Ngân hàng , Tài chính, Thuế, Kho bạc, chúng ta thấy còn rất nhiều bất cập và đáng lo ngại. Tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang chưa có một cán bộ nào có trình độ, được đào tạo chuyên ngành CNTT. Theo quy định và yêu cầu về công việc mỗi Chi nhánh Quỹ cần có từ 1- 3 cán bộ tin học thì tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang chưa có, và trong phạm vi cả hệ thống thì mới có 41/61 Tỉnh, Thành có cán bộ trình độ đại học CNTT, các cán bộ tin học ngoài việc phụ trách tin học như quản lý, bảo trì, sửa chữa phần cứng, phần mềm, họ phải kiêm nhiệm thêm nhiều nhiệm vụ khác như nhập dữ liệu, làm báo cáo, tại Chi nhánh Hà giang thì cán bộ tin học kiêm nhiệm còn phải thực hiện công tác chuyên môn của cán bộ tín dụng, cho vay thu hồi nợ, đi đòi nợ dài ngày tại các địa bàn xa đơn vị làm việc, có khi đi cả tuần mới về. Chính vì vậy mà công tác này đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai nhiệm vụ, nó đã làm ảnh hưởng rất nhiều và làm gián đoạn công việc. Do đó Chi nhánh cần sớm tuyển dụng cán bộ để đáp ứng yêu cầu về công việc trong giai đoạn mới. Bên cạnh đó cần tổ chức đào tạo các cán bộ nghiệp vụ tại Chi nhánh để có thể thực hiện được các công việc liên quan đến tin học – CNTT, giải pháp đó là: 3.1. Đối với đội ngũ chuyên tin học cần tập trung đào tạo chuyên sâu để có những cán bộ kỹ thuật giỏi trong các lĩnh vực : Phân tích, thiết kế, phát triển phần mềm, quản trị cơ sở dữ liệu, nghiên cứu áp dụng công nghệ ngân hàng như thanh toán điện tử, chuyển tiền điện tử, chữ ký điện tử, thiết lập hệ thống thông tin tín dụng, thông tin phòng ngừa rủi ro, ngoài việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ tin học phải nghiên cứu nắm chắc một cách hệ thống quy trình nghiệp vụ của Quỹ HTPT ... Về hình thức đào tạo tập trung ngắn hạn tại phòng đào tạo Quỹ TW theo nội dung chương trình thống nhất. Chọn lọc để cử một số cán bộ theo học các chương trình đào tạo nâng cao do các trung tâm đào tạo CNTT tổ chức. 3.2. Đối với đào tạo tin học cho cán bộ nghiệp vụ , do đội ngũ cán bộ đông việc tập trung đào tạo tin học cơ bản sẽ khó được thực hiện, do vậy Chi nhánh Quỹ phải tự tổ chức đào tạo hoặc phối hợp với các cơ sở đào tạo tin học tại địa phương để thực hiện. 3.3. đào tạo, phổ cập kiến thức CNTT cho cán bộ lãnh đạo các cấp nhằm nâng cao nhận thức về CNTT, nắm được khả năng hỗ trợ của CNTT trong việc tin học hoá nghiệp vụ, sử dụng các chức năng cơ bản để khai thác hệ thống thông tin phục vụ lãnh đạo. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên thì phải có chính sách đối với đội ngũ cán bộ tin học : Cán bộ tin học phải thường xuyên tiếp xúc với hệ thống máy chủ, thiết bị mạng với môi trường điện từ trường cao, thời gian làm việc hàng ngày thường xuyên kéo dài do tính chất công việc, nên đề nghị Quỹ TW cần xem xét chi phụ cấp độc hại cho cán bộ tin học. - Để triển khai nhiệm vụ mới cho vay ngắn hạn HTXK đòi hỏi cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng, kế toán không những nắm chắc về chuyên môn nghiệp vụ còn cần phải có vốn tiếng anh nhất định về chuyên ngành tín dụng để đọc và dịch các hợp đồng xuất khẩu. Do đó Quỹ cần mở các lớp học ngắn hạn về tiếng anh chuyên ngành này. Như vậy việc đọc và dịch các hợp đồng xuất khẩu chính xác sẽ giúp cho việc huy động vốn và quyết định cho vay có hiệu quả. Kết luận Trước những diễn biến phức tạp của thị trường tài chính quốc tế : Lãi suất giảm mạnh, thị trường cổ phiếu có nhiều biến động, nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng ngày càng nhiều ... hơn lúc nào hết, vai trò huy động vốn của Quỹ HTPT nói chung và nhu cầu về vốn trên địa bàn Tỉnh trong việc huy động vốn của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang nói riêng được đặc biệt quan tâm chú trọng và là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu. Nhận thức rõ được tầm quan trọng đó , Quỹ HTPT nói chung và Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang nói riêng đã tìm tòi, nghiên cứu các phương thức huy động vốn mới sao cho thu hút được nhiều khách hàng đến với Quỹ HTPT. Những kết quả tuy nhỏ trong công tác huy động vốn mà Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đã đạt được trong những năm 2000 – 2003 rất đáng ghi nhận và đáng khích lệ, bởi Tỉnh Hà giang là một Tỉnh miền núi cực Bắc của Tổ quốc, nơi có khi hậu khắc nghiệt, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, xuất phát điểm để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thấp. Các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh hầu hết tình hình tài chính còn yếu kém. Hoạt động chính của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang là tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Để thực hiện tốt và có hiệu quả công việc này nhằm đem lại những kết quả tốt đẹp, thúc đẩy kinh tế xã hội của Tỉnh phát triển. Ngoài việc thẩm định dự án , quyết định cho vay thì huy động vốn đóng vai trò rất quan trọng để thực hiện những công việc đó. Muốn cung cấp được ngày càng lớn khối lượng vốn cho đầu tư phát triển thì Quỹ HTPT đã và sẽ tận dụng tốt ưu thế về khách hàng (khách hàng lớn của hệ thống Quỹ HTPT như các Công ty Bảo hiểm, Bưu điện, ngành Điện, Bảo hiểm xã hội ...) và lợi thế này sẽ tiếp tục được Quỹ HTPT tận dụng và phát huy hơn nữa trong những năm tiếp theo. Đối tượng huy động vốn của Quỹ HTPT còn hạn chế, một lượng tiền rất lớn nhàn rỗi trong các hộ gia đình, các cá nhân Quỹ HTPT vẫn chưa có chủ trương, chính sách, cơ chế huy động. Nhưng những đối tượng này sẽ là khách hàng tương lai của Quỹ HTPT. Hình thức huy động và lãi suất huy động chưa thực sự linh hoạt và thông thoáng, nhưng Quỹ HTPT đã đang sử đổi dần cho phù hợp với xu thế chung trong thị trường hiện nay. Đây sẽ là những điều kiện thuận lợi để giúp công tác huy động vốn của Quỹ HTPT sẽ ngày một thuận lợi và thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Mặc dù trong công tác huy động vốn của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang còn một số bất cập, còn nhiều điều chưa hợp lý nhưng toàn hệ thống và Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang đã có những giải pháp hữu hiệu, hướng đi đúng đắn để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đảm bảo nguồn vốn luôn an toàn ổn định vốn cho tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tuy kết quả huy động vốn 4 năm qua chưa cao, nhưng mức tăng trưởng và tỷ lệ hoàn thành kế hoạch trong công tác huy động vốn năm sau cao hơn năm trước trong thời gian đó là do Chi nhánh đã áp dụng được nhiều hình thức huy động vốn, vốn huy động với kỳ hạn đa dạng, lãi suất huy động có lúc thấp hơn so với quy định của Quỹ TW và sự phấn đấu nhiệt tình trong công tác của Lãnh đạo cũng như các phòng nghiệp vụ trong Chi nhánh./. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Ngô Hướng & Tô Kim Ngọc (chủ biên – 2001) Giáo trình lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng, NXB Thống kê - Hà nội. 2. Bộ Tài chính (tháng 6 năm 2000) Hệ thống các văn bản pháp quy về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, NXB Tài chính – Hà nội. 3. Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang ( năm 2000) Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang năm 2000. 4. Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang ( năm 2001) Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang năm 2001. 5. Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang ( năm 2002) Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang năm 2002. 6. Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang ( năm 2003) Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang năm 2003. 7. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển số 3 (tháng 7+8+9/2002) 8. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển số 1(5) (tháng 1+2+3/2003) 9. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển số 2(6) (tháng 4+5+6/2003) 10. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển số 4(8) năm 2003 Nhận xét của đơn vị nơi thực tập Nhận xét của giáo viên hướng dẫn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTăng cường huy động và quản lý điều hành vốn tại Chi nhánh Quỹ HTPT Hà giang.doc