Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam

Tất cả trẻ em Việt Nam có quyền được hưởng nền tảng giáo dục hòa nhập, sẽ giúp các cháu lớn lên thành những công dân hữu ích và khỏe mạnh. Như đã bàn ở phần trên, giai đoạn quá độ sang hệ thống giáo dục hòa nhập sẽ đòi hỏi nhiều bước, và quan hệ đối tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, cán bộ nhà trường và gia đình để bảo đảm chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em, đặc biệt là những trẻ em bị thiệt thòi. Việt Nam giờ đây có cơ hội tăng cường quyền được giáo dục cho tất cả TKT theo Luật Người Khuyết tật mới và để tạo lập một hệ thống chăm sóc mới khuyến khích hòa nhập TKT vào cộng đồng và các trường chung, hơn là vào các trường chuyên biệt, các trại trẻ mồ côi và những kiểu cơ sở chăm sóc tập trung khác.

pdf53 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức của Công ước LHQ về quyền của người khuyết tật” Tạp chí Luật pháp và Thương mại quốc tế. 34: 287-321. (2007). 40 Điều 21 của Dự thảo Luật Người khuyết tật nên được viết lại để ghi nhận rằng mặc dù hệ thống giáo dục hòa nhập hoàn toàn hiện nay chưa có tại Việt Nam, hệ thống này sẽ phải là mục đích tiến tới. Triển khai và thực thi một hệ thống giáo dục hòa nhập đầy đủ là cần thiết và sẽ cần một tiến trình cải cách – có lẽ phải mất nhiều năm – để có được hòa nhập hoàn toàn cho TKT vào hệ thống giáo dục chung. 8.2. Môi trường phù hợp trong các chương trình giáo dục Theo CRPD, một môi trường phù hơpự được xác định là “phương thuốc chữa trị cần thiết và thích hợp và điều chỉnh không phải để tạo thêm một gánh nặng mất hợp lý hoặc không cần thiết, ở nơi cần trong một trường hợp cụ thể, để đảm bảo NKT được thừa hưởng thực hiện trên cơ sở bình đẳng với những người khác về nhân quyền và những quyền tự do cơ bản.”205 Các quốc gia thành viên đòi hỏi phải cung cấp “môi trường cư ngụ hợp lý của những yêu cầu cá nhân.”206 Tương tự như thế, các quốc gia thành viên phải hỗ trợ sao cho họ có thể vươn tới hệ thống giáo dục chung.207 Trẻ em bị mù, điếc hoặc vừa mù vừa điếc có quyền giáo dục học tập bằng ngôn ngữ thích hợp và những dạng thức, phương tiện truyền thông cho cá nhân mình, và trong những môi trường có thể tối đa hóa sự phát triển xã hội và học tập của học sinh.208 Trong một bản thảo trước đó của Dự thảo Luật Người khuyết tật, quyền có được môi trường cư ngụ hợp lý là quyền đầu tiên được đảm bảo cho TKT trong Điều 20 (“Nhà nước đảm bảo quyền của NKT được học tập, với môi trường cư ngụ hợp lý”) ta thấy rằng khổ đoạn 1 đó của Điều 20 đã được thay đổi. Đoạn này giờ đây khẳng định rằng “Nhà nước tạo lập và đảm bảo quyền được giáo dục cho NKT theo nhu cầu của họ.”209 Điều tiếp sau đó muốn đưa TKT vào, thông qua việc cho phép những phần sau đây: tuổi bắt đầu đi học cao hơn, được miễn trừ những môn hoặc hoạt động mà trẻ em không thể tham gia thể chất được; có quyền được miễn giảm học phí ; được phép xin trợ cấp và hỗ trợ.210 Đối với những trẻ em khiếm khuyết về nghe và nói, việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille tiêu chuẩn hoặc những công cụ giáo dục khác phải có sẵn.211 Để đưa Dự thảo Luật Người khuyết tật tuân thủ với CRPD, cần thay đổi một số điểm đáng kể. Thứ nhất, ngôn từ cho bản thảo mới đây nhất cần được thay đổi bằng ngôn từ trong bản thảo trước đó mà nêu đặc biệt việc đảm bảo cho TKT có quyền ở môi trường cư ngụ hợp lý. Nếu không có môi trường cư ngụ hợp lý, sẽ rất khó khăn cho TKT được hòa nhập đầy đủ. Khổ đoạn 2 của Điều 20 đầu tiên cũng nên được thay đổi nó bắt đầu bằng việc khẳng định rằng “NKT được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định”212 Câu này là để linh hoạt cho TKT bằng cách miễn trừ không bắt buộc yêu cầu lứa tuổi cho học sinh bắt đầu đi học. Tuy nhiên, bằng việc miễn trừ TKT, như một nhóm này, điều khoản này lại duy trì một kiểu rập khuôn tư duy rằng TKT là những học sinh chậm và không thể học được. Khổ đoạn 3 của Điều 20 đầu tiên nên khẳng định chắc chắn rằng mọi người đến học tại các lớp có quyền được hưởng phiên dịch ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille và những công cụ giáo dục khác. Ngôn từ hiện nay có cải tiến hơn phiên bản trước của Luật chỉ đơn thuần khẳng định rằng trẻ em “có thể tham dự” 205 CRPD, 22-10-2007, điều 25(a). 206 Như trên tại Điều 24(2)(c). 207 Như trên tại Điều 24(2)(d). 208 Như trên tại Điều 24(3). 209 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 20(1). 210 Như trên tại Điều 20(2). 211 Như trên tại Điều 20(3). 212 Như trên tại Điều 20. 41 lớp học. Tuy nhiên vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng qua ngôn từ được sử dụng rằng trẻ em có quyền hưởng phiên dịch ngôn ngữ, chữ nổi Braille và những công cụ giáo dục khác, và ngôn từ như vậy là cần thiết để tuân thủ với CRPD. Tiếp sau, khổ đoạn 1 của Điều 21 đã không gộp được một mệnh đề nêu rõ rằng thậm chí những chương trình giáo dục chuyên biệt cũng có thể gồm những lĩnh vực hòa nhập. Với môi trường cư ngụ hợp lý, bất cứ trẻ em nào bị khuyết tật đều có thể hưởng lợi từ giáo dục hòa nhập theo một cách nào đó. Trẻ em học các lớp giáo dục chuyên biệt vẫn phải được trao cơ hội nhập vào các lớp chung trong những giai đoạn học tập nhất định của ngày học, để tương tác với những người đồng đẳng, và là một phần của xã hội chung. Cuối cùng, phương tiện giao thông đi học nên được công nhận là một quyền thể hiện môi trường cư ngụ hợp lý. Một trong nhiều lý do mà rất nhiều TKT không đi học được là thậm chí ngôi trường có thể tiếp cận được (thường thì không), không có phương tiện giao thông đưa đón học sinh đi học.213 Như vậy, sẽ là một lợi thế nếu như Chỉ thị số 03/2006/CT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ngày 2-3-2006 về việc xúc tiến thực thi những chính sách hỗ trợ NKT trong ngành giao thông vận tải được điều chỉnh để cung cấp quyền có được phương tiện giao thông vận tải tiếp cận được đối với tất cả TKT được đưa đón đến trường. Chương 3 của Luật Người khuyết tật mới cũng nên gồm có quyền của tất cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn tiếp cận được đến phương tiện giao thông để được đưa đón đến các trường học và trường dạy nghề. Nêu rõ quyền pháp lý của TKT được đến trường trên cơ sở bình đẳng với những trẻ em khác không bị khuyết tật và để có được môi trường cư ngụ cần thiết cho phép trẻ em học tập và trở nên độc lập tới mức có thể, là một bước quan trọng và cần thiết đối với Việt Nam. 9. Quyền về danh tính , khai sinh và năng lực pháp lý Điều 18 (2) của CRPD yêu cầu TKT phải được khai sinh ngay khi ra đời. Hiện nay, không có luật nào ở Việt Nam yêu cầu TKT phải được khai sinh lúc ra đời. Đăng ký khai sinh đặc biệt quan trọng ở một quốc gia như Việt Nam với dân số lượng trẻ em rất đông hiện nay đang nằm trong các cơ sở chăm sóc. Trẻ em không được khai sinh thường bị lọt khỏi những chương trình dịch vụ xã hội, bị ủy thác cuộc đời vào các trại hoặc bị bỏ rơi. Điều 12 của CRPD cho quyền có căn cước pháp lý, và nó đòi hỏi việc thiết lập những nền tảng bảo vệ để đảm bảo rằng quyền của những cá nhân được kiểm soát trong cuộc đời của mình không bị lấy đi. Việc này gồm có quyền được “đưa ra quyết định có hỗ trợ”. Những quyền này hiện nay không được bảo vệ theo pháp luật Việt Nam, và Dự thảo Luật khuyết tật cũng chưa sửa chữa vấn đề này. Thực ra một số điều khoản của Dự thảo Người khuyết tật không nhất quán với những yêu cầu bảo vệ thiết lập trong CRPD. Việc này gồm có quyền được công nhận để mở ra năng lực của TKT đưa ra lựa chọn về cuộc đời của mình. 9.1. Danh tính và khai sinh Để được đối xử bình đẳng trước pháp luật, trước hết con người ta phải được công nhận trước pháp luật. Để phòng ngừa TKT bị loại bỏ, CRPD yêu cầu rằng TKT phải được đăng ký khai sinh và có tên, quốc tịch và quyền được biết và được chăm sóc bởi cha mẹ mình.214 213 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 85. 214 CRPD, 22-10-2007, điều 18 (2). 42 Tại Việt Nam, một trẻ khuyết tật phải có giấy khai sinh được công nhận về pháp lý, được đến trường, được đăng ký thi v.v..., cũng như là được bảo vệ chống lại lao động trẻ em và lạm dụng buôn bán trẻ em.215 Tuy nhiên, nhiều TKT không được đăng ký khai sinh lúc ra đời.216 Việc này một phần là do tránh trả lệ phí khai sinh, tránh trả lệ phí phạt vì khai sinh muộn hoặc tránh những chuyện rắc rối.217 Tuy nhiên, Việt Nam không có một điều khoản cụ thể về đăng ký khai sinh cho TKT ; trách nhiệm đăng ký khai sinh cho một đứa trẻ cần phải được áp dụng bình đẳng cho tất cả trẻ em, mặc dù quy định hiện nay miễn trừ lệ phí đăng ký khai sinh cho trẻ em của các hộ nghèo. Để cải thiện tình hình đăng ký khai sinh cho TKT, chính sách miễn trừ lệ phí đăng ký khai sinh cũng nên được mở rộng để gồm có cả những gia đình có TKT và cần phải nêu cụ thể rằng TKT phải được đăng ký khai sinh giống như những trẻ em khác không bị khuyết tật.218 Dự thảo NKT cũng nên được điều chỉnh để yêu cầu rằng TKT phải được đăng ký khai sinh nhằm tuân thủ với CRPD. 9.2. Năng lực pháp lý CRPD cho phép NKT được công nhận bình đẳng trước pháp luật: (1) “các quốc gia thành viên tái khẳng định rằng NKT có quyền được công nhận ở bất cứ đâu là con người trước pháp luật” và (2) “các quốc gia thành viên phải công nhận rằng NKT có năng lực pháp lý trên cơ sở bình đẳng với những người khác trong tất cả những lĩnh vực của cuộc sống.”219 Còn đối với trẻ em, CRPD đề ra nguyên tắc “tôn trọng năng lực tham gia của TKT và tôn trọng quyền của TKT được duy trì căn cước của mình.”220 Và còn nữa là “TKT có quyền tự do diễn đạt quan điểm về tất cả những vấn đề ảnh hưởng tới chúng.”221 Quyền được công nhận bình đẳng trước pháp luật được đề ra trong rất nhiều văn bản luật Việt Nam.222 Theo Điều 5 của Bộ luật dân sự, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử với một cá nhân theo chủng tộc, địa vị xã hội, giới tính, điều kiện kinh tế, tôn giáo, trình độ giáo dục và nghề nghiệp của người đó. Điều 5 của Bộ luật dân sự tuy nhiên lại không liệt kê khuyết tật như là một lý do nghiêm cấm phân biệt đối xử. Điều này cần phải được điều chỉnh để bổ sung thêm phần khuyết tật vào danh mục liệt kê trên.223 Liên quan tới năng lực pháp lý, một người bị coi là thiếu năng lực pháp lý nếu như người đó mất khả năng đưa ra quyết định do thiểu năng trí tuệ hoặc không thể hiểu được những hành động riêng của mình. Trong trường hợp như vậy, một tòa có thể, theo đề nghị của người có quyền và lợi ích liên quan, ban hành một quyết định tuyên bố một người là như vậy dựa trên kết luận của tổ chức có năng lực khám và xem xét.224 Luật hiện nay của Việt Nam, không công nhận năng lực pháp lý của NKT, cũng không gồm có bất cứ điều khoản nào tôn trọng năng lực pháp lý của TKT như yêu cầu Trong Điều 3 của CRPD. Như vậy, nguyên tức này cần phải được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật. Trẻ em ít yếu thế và có thêm nguồn lực khi chúng lớn lên trong một môi trường tôn trọng quyền và ý kiến của chúng.225 Bổ sung thêm 215 Phân tích tình hình những chương trình và cơ sở chăm sóc thay thế tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 17, tại 35. 216 Như trên 217 Như trên 218 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, tại 30. 219 CRPD, 22-10-2007, tại Điều 12. Ghi chú: đây là một điều khoản cực kỳ sáng tạo của điều 12. Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của điều khoản này, hãy xem thêm bài viết của Michael Bach (hiện nay chưa xuất bản, nhưng đã có tại MDRI nếu yêu cầu). 220 Như trên tại Điều 3(h). 221 Như trên điều 7(3). 222 Những tài liệu này gồm Hiến pháp, Luật tố tụng dân sự, Luật xử phạt, Luật Hôn nhân Gia đình cũng như Pháp lệnh về người khuyết tật. Xem Báo cáo phân tích so sánh, 2009, tại 44. 223 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 37, tại 44. 224 Như trên 225 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 17. 43 vào việc công nhận quyền được tôn trọng đối với năng lực tham gia pháp lý của trẻ em, gia đình, trường học và cộng đồng nên tạo ra một môi trường nơi mà trẻ em có thể diễn đạt ý mình, học được những kỹ năng giải quyết vấn đề và ý kiến của trẻ em được tôn trọng.226 Các tổ chức thanh thiếu niên, những hoạt động văn hóa, trung tâm cộng đồng và những hoạt động vui chơi giải trí tất cả đều giúp sức cho lĩnh vực này.227 10. Giám sát & tăng cường Trong khi Việt Nam đã có luật và những quy định để bảo vệ quyền của NKT, giám sát và tăng cường thực hiện những luật và quy định này là việc cốt yếu để đảm bảo quyền của NKT thì hiện nay vẫn còn đang thiếu. Thiếu giám sát và tăng cường thực hiện những luật hiện có về quyền của NKT theo báo cáo là vấn đề đang lan tràn tại Việt Nam, đây là một trong những lỗ hổng quan trọng nhất trong luật Việt Nam. TKT dễ bị tổn thương do sao nhãng và lạm dụng trong cộng đồng, và đặc biệt trong những cơ sở chăm sóc. Vì những lý do này, Điều 16 CRPD yêu cầu tạo lập những hệ thống bảo trợ trẻ em mà hệ thống này sẽ phát hiện những trường hợp lạm dụng có thể xảy ra trong cộng đồng, những chương trình dựa vào cộng đồng hoặc trong các trại. UNICEF và Bộ LĐTB&XH đã phát hiện thiếu sót của hệ thống bảo trợ trẻ em tại Việt Nam là vấn đề nghiêm trọng đối với tất cả trẻ em. Hiện nay, những trường hợp lạm dụng đáng nhẽ phải báo cáo thông qua Luật khiếu tố và khiếu nại hoặc Luật tố tụng xử phạt. Những hệ thống này không được thiết kế để xử lý bản chất nhạy cảm của lạm dụng trẻ em hoặc liên quan tới TKT. UNICEF và Bộ LĐTB&XH mô tả, một hệ thống mới bảo vệ trẻ em cần phải được thiết lập gồm có những hệ thống phát hiện những trường hợp tắc trách và lạm dụng, để báo cáo, điều tra, đánh giá, phục hồi và có những biện pháp khôi phục. Bảo vệ TKT cũng cần phải được kết nhập vào hệ thống chung bảo vệ trẻ em cho tất cả trẻ em. Việc này cần gồm có tạo ra những hệ thống đặc biệt và công tác đào tạo nhân viên cũng cần phải thiết lập để đảm bảo rằng hệ thống này được áp dụng nhằm đảm bảo TKT được bảo vệ. Hệ thống chung bảo vệ trẻ em cũng cần được bổ sung thêm bằng thiết lập một hệ thống có cơ chế giám sát. Hệ thống này cần đảm bảo rằng tất cả những chương trình phục vụ TKT được kiểm soát đều đặn. Cơ chế giám sát không những chỉ bổ sung thêm cho hệ thống để báo cáo những trường hợp lạm dụng mà còn phải được thiết kế sao cho có thể phát hiện được những tình huống dẫn đến tắc trách và lạm dụng. Báo cáo thường kỳ cần phải được thông báo cho công chúng và luôn sẵn sàng trình các cấp chính quyền địa phương, khu vực và quốc gia sao cho việc cải cách này có thể được áp dụng để đáp ứng những vấn đề tiềm ẩn được phát hiện. CRPD cũng yêu cầu cần phải có một cơ quan chủ trì cấp quốc gia để giám sát việc thực thi toàn bộ CRPD. Việt Nam cần phải cử một văn phòng trong một bộ của chính phủ chịu trách nhiệm chính việc giám sát và thực thi CRPD. Văn phòng này cần phát triển và lãnh trách nhiệm cho những quy trình thu thập số liệu thường kỳ để tuân thủ với Điều 31 của CRPD. 10.1. Hệ thống bảo vệ trẻ em CRPD yêu cầu phải có một kế hoạch bảo vệ trẻ em nhằm bảo vệ TKT chống lại lạm dụng và bóc lột. Các quốc gia thành viên có nhiệm vụ ngăn ngừa lạm dụng và bóc lột TKT.228 Để phòng ngừa lạm dụng, các quốc gia thành viên phải tiến hành tất cả những biện pháp thích hợp để bảo vệ trẻ em, kể cả “bằng một 226 Như trên 227 Như trên 228 CRPD, 22-10-2007, điều 16(2). 44 điều khoản dịch vụ bảo vệ.”229 Những dịch vụ bảo vệ này phải “đảm bảo rằng những vụ bóc lột, bạo lực và lạm dụng chống lại NKT phải được phát hiện, điều tra và ở đâu thích hợp cần phải được thẩm tra.”230 Trong khi Việt Nam có rất nhiều luật liên quan tới bảo vệ trẻ em nói chung (xem Chương 5, Quyền được sống trong cộng đồng), Việt Nam thiếu một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện. Theo Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em và Nghị định số 36/2005/NĐ-CP hướng dẫn thực thi luật đó, Bộ LĐTB&XH chịu trách nhiệm chính triển khai và thực hiện một chương trình bảo vệ trẻ em.231 Tuy nhiên, hiện nay chưa có hệ thống toàn diện và thống nhất được thiết kế để phòng ngừa và đáp ứng những báo cáo lạm dụng trẻ em, và cũng chưa có những cán bộ bảo trợ xã hội để đáp ứng những trường hợp trẻ em cần bảo trợ.232 Những dịch vụ xã hội hiện có chủ yếu dựa vào những cố gắng từ thiện, ngược với phương pháp tiếp cận dựa vào được hưởng quyền.233 Để ban hành một hệ thống bảo trợ trẻ em toàn diện, những hệ thống sau đây cần phải được thiết lập và thực hiện: (1) Hệ thống phát hiện và báo cáo, (2) Điều tra và đánh giá, (3) Phục hồi và tái hòa nhập, (4) Hệ thống chăm sóc thay thế.234 Về mặt phát hiện và báo cáo, Việt Nam không có những quy trình khiếu nại khác với Luật về tố cáo và khiếu nại hoặc luật tố tụng xử phạt, mà chẳng luật nào trong số đó có lợi cho trẻ em để cho phép chúng tự khiếu nại tố cáo cũng như là không có yếu tố điều tra và đánh giá để đáp ứng lại những báo cáo lạm dụng trẻ em.235 Chỉ có Luật về xử lý vi phạm hành chính và Luật tố tụng hình sự là chịu trách nhiệm chung cho công tác xử lý khiếu nại.236 Tuy nhiên, những hệ thống này lại không được thiết kế để xử lý những trường hợp lạm dụng trẻ em, thường có bản chất nhạy cảm và tế nhị. Để có được một hệ thống bảo vệ trẻ em hoạt động có hiệu quả, hệ thống báo vệ trẻ em tự nó phải gồm những điều khoản liên quan tới quy trình đưa một trẻ khuyết tật khuyết tật rời xa cha mẹ, và những quy trình chăm sóc như gia đình. (Xem thêm phần 5 của báo cáo này, Quyền sống trong cộng đồng). Hơn thế nữa những quy định cụ thể cần phải được tăng cường thực hiện để đảm bảo theo đúng những quy trình này. Cuối cùng, không có đủ cán bộ công tác xã hội có trình độ để ngăn ngừa và đáp ứng lại những báo cáo lạm dụng.237 Điều này một phần là do công tác bảo trợ xã hội chưa được công nhận là một chuyên nghề pháp lý.238 Công tác xã hội cũng thường được quan niệm có tính chất từ thiện, đối lập với một công việc dựa trên cơ sở thực hiện quyền.239 Như vậy, nghề công tác bảo trợ xã hội mới cũng cần được ủng hộ, gồm cả việc đào tạo và công nhận những người làm công tác bảo trợ xã hội như một chuyên nghề. 10.2. Giám sát thực thi CRPD CRPD đòi hỏi các quốc gia thành viên phân công một hoặc nhiều bộ chủ trì làm đầu mối trong chính phủ của mình để chịu trách nhiệm thực thi CRPD. Các quốc gia thành viên cũng phải thiết lập cơ quan bảo vệ độc lập và cơ chế theo dõi để xem luật và những quy định có tuân theo CRPD hay không và có được thực hiện theo dõi đầy đủ hay không.240 229 Như trên tại Điều 16(4). 230 Như trên tại Điều 16(5). 231 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 13. 232 Như trên 233 Như trên 234 Như trên 235 Như trên tại 29. 236 Như trên tại 30. 237 Như trên tại 13. 238 Như trên 239 Như trên 240 CRPD, 22-10-2007, điều 33(1). 45 Chương VIII của Dự thảo Luật Người khuyết tật vạch ra những trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về công tác NKT. Điều 31 đặt cho Bộ LĐTB&XH “trách nhiệm báo cáo với chính phủ về việc thi hành chức năng quản lý nhà nước đối với công tác NKT”. Điều 40 khẳng định nhiệm vụ của các bộ sau đây thực hiện và tăng cường CRPD.241 Trong khi Bộ LĐTB&XH chịu trách nhiệm “thi hành chức năng quản lý nhà nước về công tác NKT” vẫn không rõ cơ quan nào chịu trách nhiệm theo dõi và giám sát việc ban hành CRPD.242 Như vậy cơ chế điều phối hiện nay cho công tác theo dõi và giám sát tỏ ra không hiệu quả.243 Lỗ hổng này giữa việc thiết lập luật pháp và việc thực thi theo dõi luật đã được ghi chú trong báo cáo của UBVH,TTN&NĐQH, báo cáo khẳng định “nhiều vấn đề trực tiếp liên quan đến trách nhiệm của các bộ khác nhau và công tác điều phối giữa những cơ quan khác nhau vẫn chưa được mô tả tỉ mỉ trong văn bản luật.”244 Mặc dù Bộ LĐTB&XH đã thiết lập Ủy ban NCCD, công tác điều phối của NCCD chỉ hạn chế ở cấp bộ, thiếu thẩm quyền điều phối ở cấp cả nước và cấp vùng. Hơn thế nữa NCCD chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn quốc tế để trở thành một Ủy ban điều phối độc lập hoặc một cơ quan nhân quyền độc lập.245 Như vậy Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được điều chỉnh để giao nhiệm vụ rõ ràng cho một bộ chịu trách nhiệm theo dõi việc thực thi Luật Người khuyết tật sau này. Bất kể là liệu Bộ LĐTB&XH có được giao quyền hạn này hay một Ủy ban điều phối quốc gia có được thành lập hay không, Luật người khuyết tật phải được theo dõi và phải được thực thi, nếu không thì luật sẽ là vô dụng. 10.3. Thu thập dữ liệu Các quốc gia thành viên được yêu cầu thu thập dữ liệu thống kê và nghiên cứu để giúp việc hình thành và thực thi những chính sách cần có theo yêu cầu của CRPD.246 Dữ liệu phải được thu thập theo cách thức bảo đảm tính riêng tư và bí mật, đồng thời phải tuân thủ với những tiêu chí định mức được quốc tế chấp nhận để bảo vệ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản.247 Thêm vào đó, dữ liệu cần phải được phổ biến và sử dụng để giúp cho việc đánh giá sự thành công của các quốc gia thành viên trong thực thi CRPD.248 Từ Dự thảo Luật Người khuyết tật, chưa thấy rõ ràng ngay Bộ nào chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu. Tuy nhiên, điều rõ ràng là cần phải có một hệ thống để thu nhập dữ liệu theo cách thức tuân thủ với tiêu chuẩn quốc tế. Cần phải chỉ định một bộ phụ trách thu thập dữ liệu, và việc chỉ định này cũng nên được thừa nhận trong Luật Người khuyết tật mới. 11. Tham gia công dân Để làm cho những cố gắng lớn lao của Việt Nam trong công cuộc cải cách pháp luật xứng đáng hơn điều thiết yếu là cần phải cố gắng trao quyền cho NKT trong tất cả tầng lớp nhân dân. Tại nhiều nơi trên thế giới cải cách diễn ra tại nơi nào xã hội dân sự độc lập có cả sự lãnh đạo của NKT tìm kiếm được cải cách 241 Những bộ này gồm: Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Xây dựng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính; Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UBND. 242 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 53. 243 Như trên 244 Như trên 245 Như trên 246 CRPD, 22-10-2007, điều 31. 247 Như trên tại Điều 31(1)(a)(b). 248 Như trên tại điều 31(2). 46 của chính phủ. NKT nên được bổ nhiệm vào Ủy ban nhân dân và những vị trí lãnh đạo khác trong chính quyền địa phương và quốc gia đề ra chính sách và thực thi những chương trình tác động tới cá nhân những NKT. Điều 4(3) của CRPD thiết lập nền tảng rằng NKT thông qua những tổ chức đại diện cho mình nên được lôi cuốn vào quy hoạch chương trình và thực thi ở tất cả các cấp xã hội và chính phủ. Điều 31 đòi hỏi các quốc gia thành viên lôi cuốn xã hội dân sự vào việc thực thi CRPD và cho phép xã hội tham gia đầy đủ vào tiến trình theo dõi. Điều đặc biệt quan trọng là NKT và những tổ chức đại diện cho họ cũng nằm trong số đó.249 Tham gia và biện lý công dân của NKT và gia đình họ là điều cốt yếu đối với cải cách pháp luật và thực thi chương trình.250 NKT và gia đình họ là những người hiểu biết nhất về nhu cầu của mình mà cải cách cần phải công nhận và nâng cao quyền và nhu cầu của họ. Nói chung, quyền của NKT vẫn chưa nhận được sự công nhận từ những tổ chức nhân quyền khác.251 Đào tạo biện lý cho các nhóm khuyết tật là một cách thức hiệu quả giúp nhóm khuyết tật tham gia vào tiến trình ra chính sách và thực thi những chương trình mới nếu những nhóm khuyết tật chưa có kinh nghiệm trong những vấn đề như vậy.252 Hiện nay những điều khoản pháp lý quy định quyền hạn của những tổ chức NKT liên quan vào tiến trình làm luật và giám sát còn thiếu trong Luật Việt Nam. Đa số các tổ chức làm công tác hoặc là xã hội hoặc là công tác từ thiện và có năng lực biện lý chính sách hạn chế để tác động tới quyết định, tới chính sách ở cấp địa phương và cấp quốc gia. Như Tiến sĩ T.Duy Kiên khẳng định trong báo cáo so sánh của mình “hoạt động của hiệp hội chủ yếu có tính chất hỗ trợ và từ thiện, có tác động rất ít đến công tác điều phối cũng như tham gia vào giám sát và chất vấn xã hội về chính sách, pháp chế và việc thực thi những chính sách pháp chế liên quan tới NKT.”253 Vai trò của các tổ chức cần phải được tăng cường gồm có quyền được kiến nghị và tác động tới chính sách. Những tổ chức này cần phải có năng lực chất vấn độc lập và giám sát luật của Việt Nam về NKT.254 Cũng cần phải khuyến khích công tác đào tạo kỹ năng biện lý chính sách. 12. Kiến nghị cho chính phủ Việt Nam 12.1. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử vì khuyết tật 12.1.1. Tuyên bố về phân biệt đối xử − Dự thảo Luật Người khuyết tật nên gồm có một mệnh đề rõ ràng đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử trên vì lý do khuyết tật trong bối cảnh giáo dục, nhà ở, chăm sóc y tế, tiếp cận các dịch vụ, giao thông vận tải và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống. 12.1.2. Tuyên bố về môi trường cư ngụ hợp lý − Định nghĩa phân biệt đối xử trong Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam nên gồm có phần điều kiện nếu không cung cấp được môi trường cư ngụ hợp lý. 249 Như trên tại điều 33(3). 250 Eric Rosenthal và tất cả, như đã trích dẫn chú giải 99, tại-103. 251 Như trên 252 Như trên 253 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 54. 254 Như trên 47 12.2. Quyền tiếp cận 12.2.1. Nêu rõ về khái niệm tiếp cận − Việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, băng cat- set, cỡ chữ lớn và những biện pháp khác của công nghệ hỗ trợ cần phải được công nhận là một phần của quyền được tiếp cận đối với NKT. 12.2.2. Tăng cường thực hiện những quy định hiện hành − Những quy định hiện hành của Việt Nam cho phép môi trường lý tính, phương tiện giao thông, thông tin và truyền thông, và những cơ sở cùng dịch vụ khác tiếp cận được đối với NKT phải được thực hiện và tăng cường, đặc biệt việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, băng cat-set, cỡ chữ lớn và những biện pháp khác của công nghệ hỗ trợ. 12.3. Quyền được sống trong cộng đồng 12.3.1. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với gia đình riêng của mình − Một điều khoản đặc biệt nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật bảo đảm quyền của tất TKT được sống trong gia đình riêng của mình hoặc gia đình thay thế. 12.3.2. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với một gia đình thay thế − Một điều khoản đặc biệt nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật để đảm bảo quyền của trẻ em được sống với một gia đình lựa chọn thay thế nếu như gia đình riêng không thể chăm sóc trẻ em đó. 12.3.3. Thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai − Phải thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai cho tất cả TKT bất kể mức độ khuyết tật nặng tới đâu. 12.3.4. Tạo lập tiêu chuẩn chăm sóc trong các cơ sở chăm sóc tập trung− Trong tình huống TKT được chăm sóc tại một cơ sở nội trú, cần phải tạo lập những tiêu chuẩn để điều tiết điều kiện của những cơ sở đó, thời hạn cho phép giữ trẻ em đến tuổi 18, cũng như những yêu cầu tổng kết định kỳ để xác định xem có nên tiếp tục đưa các em ra khỏi gia đình như là một biện pháp hoàn toàn cần thiết hay không và xem có những phương án thay thế nào khác sẵn có trong cộng đồng hay không. 12.3.5. Cấm đưa thêm TKT mới vào các cơ sở chăm sóc tập trung − Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng cách dễ nhất và hiệu quả nhất để bắt đầu trên con đường này là chấm dứt bất cứ việc nhận thêm các em mới vào cơ sở chăm sóc tập trung. Để có thể làm được việc này phải thiết lập một loạt hệ thống hỗ trợ vào dịch vụ dựa vào cộng đồng cho số lượng nhỏ TKT cần đươc đến nơi mới. Luật cũng nên thiết lập một ủy quyền đặc biệt để ưu tiên việc tạo ra những dịch vụ cần thiết nhằm chấm dứt việc đưa các em mới vào cơ sở chăm sóc tập trung. Một thời điểm mục tiêu để chấm dứt việc nhận thêm các em mới cũng nên được đưa ra , có lẽ vào năm 2011. 12.3.6. Thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em để phòng ngừa lạm dụng trong gia đình và trong các cơ sở chăm sóc − Hiện nay chưa có một hệ thống tổng hợp và toàn diện để thực thi mà điều đó sẽ cản trở việc đáp ứng lại những báo cáo về lạm dụng trẻ em tại gia đình hoặc trong một trại. Cũng chưa có những cán bộ bảo trợ xã hội được chính thức giao nhiệm vụ đáp ứng những trường hợp bảo vệ trẻ em. Dịch vụ xã hội hiện có chủ yếu dựa vào những cố gắng từ thiện, đối lập với phương pháp tiếp cận dựa vào quyền. Như vậy, một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện cần phải có mà hệ thống này sẽ gồm những hệ thống sau đây: (1) Hệ thống phát hiện và báo cáo, (2) Hệ thống điều tra và đánh giá, (3) Hệ thống phục hồi và tái hòa nhập, và (4) Hệ thống chăm sóc thay thế. 48 12.4. Quyền được chăm sóc sức khỏe 12.4.1. Cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm − Vì có nhiều TKT không tiếp cận được chăm sóc sức khỏe, Việt Nam cần cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe của TKT và gia đình các em. 12.4.2. Cải thiện tình hình tại những cơ sở và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng − Thiếu những cơ sở phương tiện và thiết bị phục hồi chức năng đưa đến kết quả là rất ít TKT được chăm sóc sức khỏe chuyên biệt. Do vậy Việt Nam cần cải thiện tình hình tại những cơ sở chăm sóc và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng. 12.4.3. Tuyên bố về quyền có ý kiến đồng ý − Một chương cần được bổ sung vào Dự thảo Luật NKT để bảo vệ quyền của NKT có ý kiến đồng ý, tự quyết và tự lựa chọn và không bị ép buộc điều trị. 12.5. Quyền được giáo dục 12.5.1. Yêu cầu pháp lý − Bước đầu tiên để đảm bảo quyền được giáo dục cho tất cả TKT tại Việt Nam là đưa vào trong Luật Khuyết tật mới một yêu cầu có một hệ thống giáo dục hòa nhập (thay cho hệ thống hai kiểu, kiểu chung và kiểu chuyên biệt) cũng như là yêu cầu dạy nghề cho trẻ em và thanh thiếu niên khuyết tật. Để đạt được mục đích này, nên đưa đại ý sau vào Điều 21: Giáo dục hòa nhập phải là phương thức giáo dục chính có mục đích với NKT và mục đích của cải cách giáo dục là đưa nền giáo dục chung cho tất cả trẻ khuyết tật. Trong tiến trình cải cách, giáo dục chuyên biệt sẽ được chuyển thể, khi những nguồn lực có sẵn, thành những trung tâm nguồn để hỗ trợ cho các trường chung và số lượng nhập học tăng của TKT vào các trường chung. Luật giáo dục 2005 và Luật dạy nghề cũng cần được thay đổi để phù hợp với Luật Người khuyết tật sửa đổi. Để mang lại hiệu quả, tính pháp của việc hòa nhập này cần phải thực hiện nghiêm túc, kể cả việc cấm xây dựng thêm hoặc mở thêm những chương trình chuyên biệt hoặc tách biệt mới, trường và trại mới cho TKT cũng như là cần phải đóng cửa hoặc sử dụng các trường chuyên biệt đó vào mục đích khác, những chương trình, cơ sở và việc chuyển ngân sách cho các trường tách lập sang hỗ trợ phát triển các trường hòa nhập, nơi cư ngụ cần thiết, đào tạo giáo viên, và phát triển các chương trình dạy nghề và hướng nghiệp cho thanh thiếu niên và người lớn khuyết tật. Quyết định của Bộ GD&ĐTsố 23/2006/QĐ-BGDĐT ngày 22/5/2006 về giáo dục hòa nhập cần phải được thực thi đầy đủ. 12.5.2. Khảo sát việc tiếp cận − Bổ sung vào việc cấm lập thêm các trường và chương trình tách biệt mới, cần tiến hành những cuộc khảo sát tiếp cận liên quan tới việc xây dựng chương trình giáo dục và dạy nghề hiện nay, kế hoạch và ngân sách cần được soạn ra để cải tạo chỉnh trang những công trình và để cung cấp nơi cư ngụ cần thiết và cải tạo để sử dụng như những trường hòa nhập. Để tránh hình thức rập khuôn trong cách thức cải thiện sự tiếp cận, Điều 20 của Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được thay đổi như sau: Hệ thống giáo dục phải hết sức linh hoạt cho tất cả trẻ em trong độ tuổi đến trường. TKT cũng cần được tính toán đến theo mức linh hoạt như vậy như những học sinh khác. Môi trường cư ngụ hợp lý phải có sẵn cho TKT xét về độ tuổi đến trường, lệ phí, điều kiện của nhà trường, và những hình thức giao tiếp. 12.5.3. Đào tạo giáo viên − Bước tiếp sau trong việc chuyển đổi hệ thống giáo dục hiện nay sang hệ thống giáo dục hòa nhập là phát triển những chương trình đào tạo giáo viên mới (và đào tạo lại). Vì giáo viên là nhân tố chính trong việc tiên lượng thành công của học sinh, giáo viên phải được học cách dạy học sinh, học sinh khuyết tật và không khuyết tật, để có được hỗ trợ đầy đủ giúp học sinh học những kỹ năng mới. Những chương trình như vậy có thể được chính phủ hỗ trợ hoặc được các chuyên gia tư vấn hỗ trợ do các nhà tài trợ quốc tế cấp kinh phí. 49 12.5.4. Thay đổi thái độ − Một điều kiện tất yếu có liên quan đến việc tạo lập một hệ thống giáo dục hòa nhập là cần phải thay đổi có hệ thống những rào cản thái độ do giáo viên, phụ huynh và xã hội tạo ra. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng và sẽ phải cần cộng tác của nhiều bộ, tổ chức phi chính phủ, các nhà tài trợ quốc tế và UNICEF. Giáo viên, những người được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội đã kỳ thị, đã gạt ra ngoài lề và đã phân lập TKT cần thiết phải học lại không chỉ cách giảng dạy học sinh khuyết tật mà còn học cách giải quyết những vấn đề rập khuôn riêng của mình suy nghĩ về TKT mà họ đang giảng dạy. Giáo viên và tất cả cán bộ trong trường cũng như phụ huynh và các nhà quản lý hành chính cần phải học cách tôn trọng sự khác biệt, kể cả những hình thức khác biệt mà TKT có thể phải học và thể hiện trong lớp học. Tới mức độ đó hàng rào thái độ trong hệ thống nhà trường song song với thái độ chung của xã hội Việt Nam đối với trẻ em và NKT, nó sẽ kết nối liên tục và có mối quan hệ khăng khít với những trẻ em có những dạng khiếm khuyết khác nhau để tháo dỡ những hàng rào này ngay trong giáo viên, phụ huynh và những người khác trong hệ thống giáo dục Việt Nam. 12.5.5. Thu thập dữ liệu − Một bước quan trọng khác trong chuyển đổi hệ thống hiện nay sang hệ thống giáo dục hòa nhập liên quan đến thu thập dữ liệu. Chính phủ Việt Nam nên bổ nhiệm một văn phòng tại mỗi bộ để thu thập dữ liệu liên quan tới NKT nói chung, và liên quan đến những vấn đề giáo dục nói riêng. Những dữ liệu như vậy nên gồm có số lượng và vị trí của TKT (phân hạng theo lứa tuổi, giới tính, loại khuyết tật) những cháu chưa đi học tí nào, số lượng các cháu đang theo học tại các trường chung, số lượng các cháu đang theo học tại các trường chuyên biệt, hoặc đang học trong các trại. Những số liệu cũng cần được thu thập liên quan tới số lượng học sinh đã hoàn thành bậc tiểu học, và bậc trung học; các loại cơ sở chăm sóc và chương trình giáo dục hiện có và nguồn kinh phí; tỷ lệ giáo viên với học sinh cho các chương trình giáo dục, kể cả tỷ lệ này trong các trại chăm sóc và các trại trẻ mồ côi. Thu thập những số liệu này sẽ giúp Việt Nam theo dõi số lượng học sinh khuyết tật, những cháu có quyền được đi học cũng như là số lượng học sinh không đi học và nơi sinh sống của các em. Một khi chính phủ biết có bao nhiêu học sinh cần đưa vào các trường chung, nơi mà học sinh rồi sẽ phải đến, Bộ GD&ĐT lúc đó có thể triển khai một tiến trình phân bổ nguồn lực cần thiết và một thời điểm thích hợp để chuyển tất cả các cháu vào các trường hòa nhập chung. Số liệu bổ sung, gồm có tỷ lệ tốt nghiệp và tỷ lệ có việc làm trên tỷ lệ tốt nghiệp, cũng rất quan trọng để theo dõi và tăng cường thực thi Luật giáo dục hòa nhập mới chưa kể đến những việc cần phải làm như một phần của trách nhiệm theo dõi và tăng cường thực thi mà Việt Nam sẽ gánh vác một khi phê chuẩn CRPD. 12.5.6. Tăng cường việc thi hành Chỉ thị của Thủ tướng số 01/2006/CT-TTg − Việt Nam nên tăng cường thi hành chỉ thị số 01/2006/CT-TTg, ngày 9/1/2006 về đề cao những chính sách hỗ trợ NKT trong tình hình kinh tế xã hội hiện nay, giao nhiệm vụ cho Bộ GD&ĐT “soạn thảo và đệ trình lên Thủ tướng chiến lược và kế hoạch hành động giáo dục TKT cho giai đoạn 2006 – 2010 và những năm sau theo hướng dựa vào cộng đồng trên cơ sở giáo dục hòa nhập”. Sau 3 năm, vì nhiều lý do khác nhau, chiến lược như vậy chưa được ban hành. 12.5.7. Chính sách đối với các nhà tài trợ quốc tế − Cần phải thu thập thông tin liên quan tới nguồn kinh phí cho các trường và chương trình chuyên biệt cũng như là các trường và chương trình hòa nhập. Tới mức độ là các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ kinh phí cho một số trường và chương trình tách biệt, cũng nên khuyến khích họ thay vào đó cấp kinh phí cho các chương trình hòa nhập dựa trên quan điểm rằng tất cả NKT đều có quyền được giáo dục. Những chương trình giáo dục như vậy nên tạo điều kiện cho TKT hiện thực hóa được đầy đủ tiềm năng của mình và sẽ cung cấp những kỹ năng cần thiết để tham gia đầy đủ vào tất cả những lĩnh vực của cộng đồng và cuộc sống xã hội. Với quan điểm hiện thực hóa quyền này không phân biệt đối xử và có cơ hội bình đẳng, hệ thống giáo dục sẽ được cải cách với những cố gắng thực hiện hòa nhập đầy đủ tất cả TKT vào hệ thống giáo dục chung. Nhà nước sẽ cấp ngân sách cần thiết để chuyển đổi hệ thống giáo dục thông qua tiến trình cải cách để làm cho hệ thống giáo dục chính có thể tiếp cận đầy đủ và thích hợp cho tất cả những NKT. 50 12.6. Quyền về danh tính 12.6.1. Đăng ký khai sinh khi ra đời − Việt Nam hiện còn thiếu bảo trợ đầy đủ để bảo đảm tất cả TKT được khai sinh khi chào đời. Như vậy, cần bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật một phần bảo đảm rằng TKT được đăng ký khai sinh lúc chào đời và năng lực pháp lý tham gia của TKT được công nhận. 12.6.2. Tôn trọng năng lực tham gia của TKT − TKT có quyền tự do diễn đạt quan điểm về tất cả những vấn đề tác động đến mình và những quan điểm đó “có sức nặng theo lứa tuổi và độ trưởng thành trên cơ sở bình đẳng với những trẻ em khác”. Quyền được tôn trọng đối với năng lực tham gia của TKT cần phải được công nhận theo luật pháp Việt Nam sao cho TKT có được hỗ trợ khi cần để được lựa chọn và chuẩn bị hưởng những quyền này khi thành người lớn. 12.7. Tăng cường thực hiện và cơ chế giám sát 12.7.1. Thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em − phải thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện gồm hệ thống phát hiện, báo cáo, điều tra, đánh giá, phục hồi và những biện pháp tái hòa nhập. 12.7.2. Đào tạo cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp − Một trong những vấn đề liên quan đến tăng cường thực thi và theo dõi là thiếu cán bộ làm công tác xã hội chuyên nghiệp được đào tạo để thực hiện những trách nhiệm trong hệ thống bảo trợ trẻ em. 12.7.3. Giám sát và thực thi− Một bộ của chính phủ hoặc một cục mới thành lập phải đảm đương trách nhiệm giám sát và thực thi CRPD. 12.7.4. Tham gia công dân − Các tổ chức công dân phải được tạo lập để tham gia vào thực thi và lập kế hoạch chương trình. Những tổ chức này phải có khả năng chất vấn độc lập và giám sát luật Việt Nam đối với NKT. 13. Kiến nghị cho các nhà tài trợ CRPD có những ảnh hưởng chính cho công việc của UNICEF và tất cả các nhà tài trợ quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam. Điều 32 của CRPD cam kết các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ “những cố gắng quốc gia để thực hiện mục đích và những mục tiêu của Công ước hiện nay”. Công ước không chỉ kêu gọi các nhà tài trợ quốc tế thiết lập những chương trình đặc biệt để thúc đẩy việc thực thi Công ước, mà Điều 31(1) (a) cam kết các nhà tài trợ bảo đảm rằng tất cả những chương trình phục vụ nhân dân rộng khắp phải “hòa nhập và có thể tiếp cận cho NKT”. Ví dụ, điều này có nghĩa là tất cả những tòa nhà dùng kinh phí của các nhà tài trợ quốc tế cần phải tiếp cận được về lý tính cho NKT. Thông tin cho công chúng cũng cần phải có những dạng thức có thể tiếp cận được cho NKT. Những dự án dịch vụ y tế và dịch vụ công cộng cần phải có theo cách thức mà TKT và gia đình họ có thể tiếp cận được. Các chương trình giáo dục cần phải được làm thích ứng sao cho thích hợp và hòa nhập với TKT về thể chất, giác quan và nhận thức. Những chương trình tách biệt TKT khỏi cộng đồng là vi phạm những nguyên tắc cốt lõi của CRPD. Theo đó, kinh phí và hỗ trợ quốc tế không nên để tạo lập thêm những trường chuyên biệt và tách biệt hoặc những cơ sở chăm sóc nội trú mới, hoặc những chương trình không phục vụ trẻ em tại gia đình và trong cộng đồng. Nhất quán với Điều 19 của CRPD, hỗ trợ quốc tế nên khuyến khích đề cao hòa nhập cộng đồng toàn bộ TKT. Hỗ trợ quốc tế có thể rất quan trọng để giúp Việt Nam thực thi được CRPD và áp dụng cải cách những chính sách nêu ra trong báo cáo này. Điều 32(b) nêu lên sự cần thiết “xây dựng năng lực, kể cả thông qua 51 trao đổi và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chương trình đào tạo và những cách làm hay.” Hỗ trợ quốc tế có thể đặc biệt quan trọng hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi từ giáo dục tách biệt sang giáo dục hòa nhập và dịch vụ dựa vào cộng đồng. Trong khi định hướng chung cho trẻ em vào với cộng đồng có thể giảm chi phí xã hội cho cung cấp dịch vụ, giai đoạn qua độ có thể rất tốn kém. Một khi những trường tách biệt đóng cửa, những khoản kinh phí được dùng cho các chương trình này có thể được chuyển sang hỗ trợ dịch vụ dựa vào cộng đồng. Nhưng các cơ sở chăm sóc bảo trợ xã hội không thể đóng cửa ngay, phải đợi đến khi những chương trình hỗ trợ được thiết lập xong để giúp cho các gia đình nuôi dưỡng TKT tại nhà. Kinh phí quốc tế có thể đặc biệt quan trọng giúp cho Việt Nam qua được giai đoạn quá độ đắt giá này. Đạt được kết quả cuối cùng này, suất đầu tư mới cần thực hiện vào những chương trình phục vụ trẻ em trong những bối cảnh nền tảng hòa nhập nhất. Nguồn lực hạn chế nên được sử dụng để đề cao những cách làm hay, hơn là những chương trình và dịch vụ phải mất hàng năm trời mới có. Một trong những sai lầm mà các nhà tài trợ mắc phải là đầu tư vào những chương trình không hòa nhập TKT đầy đủ vào cộng đồng.255 Chuyển trẻ em từ các trung tâm chăm sóc tập trung lớn sang những trung tâm nhỏ, có vẻ như là một sự cải tiến, song nghiên cứu quốc tế cho thấy rằng TKT không phấn đấu khi chúng được nuôi dưỡng trong bối cảnh chăm sóc tập trung. Trong khi các tòa nhà mới trông sạch sẽ hơn, tốt hơn để thay thể những cơ sở chăm sóc tập trung, những cơ sở tách biệt này thành ra gánh nặng tốn kém đè lên hệ thống dịch vụ xã hội, mà việc này có thể đã sử dụng không đúng những nguồn lực vốn đã hạn chế đáng ra nên để dùng cho cải cách khác. Để tác động cải cách tích cực và hiểu thấu đáo vấn đề, các nhà tài trợ quốc tế có thể đưa ra những ý kiến tư vấn kỹ thuật về cách thức thực hiện những kinh nghiệm đã làm tốt nhất. Các nước khác đã trải qua giai đoạn quá độ tương tự, nên có thể đặc biệt giá trị học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế trong pha lập kế hoạch chuyển đổi pháp lý và kế hoạch phát triển chính sách mới.256 Các nhà tài trợ quốc tế nên giữ quan hệ chặt chẽ với chính quyền của tỉnh, huyện và xã.257 Khi các nhà tài trợ quốc tế xúc tiến thực thi những cách làm tốt nhất, cũng rất giá trị nếu ta thu hút sử dụng các chuyên gia của cộng đồng khuyết tật quốc tế. Lôi cuốn những NKT vào những vị trí lãnh đạo có thể giúp phá bỏ hình thức rập khuôn coi thường NKT và cung cấp những mô hình lãnh đạo cho NKT tại Việt Nam. Việc này có thể đặc biệt quan trọng đối với những NKT trí thức tâm thần, mà đối với họ hiện nay tại Việt Nam không có mô hình lãnh tụ tích cực. Theo yêu cầu của Điều 4(3), chính phủ nên “tham vấn chặt chẽ với những NKT tham gia tích cực, kể cả TKT, thông qua những tổ chức đại diện của họ.” Một trong những trở ngại chính cho công tác thực thi CRPD là thiếu vắng một phong trào của NKT độc lập và đủ mạnh. Các nhà tài trợ nước ngoài có thể đóng một vai trò quyết định xây dựng năng lực cho các nhóm khuyết tật Việt Nam. Các nhà tài trợ nên làm việc với các tổ chức công dân và các Tổ chức của NKT để đánh giá tình hình soạn thảo và thực hiện pháp chế, sao cho các văn bản luật phản ánh chính xác nhu cầu của NKT.258 Các nhà tài trợ quốc tế cũng nên hỗ trợ các tổ chức của công dân và các Tổ chức của NKT như một tổng thể sao cho các tổ chức công dân và các Tổ chức của NKT có thể nắm những vai trò lãnh đạo trong biện lý chính sách vì quyền của họ. 255 Xem Viện quốc tế quyền của NKT tâm thần, Khổ đau âm thầm: Chia tách và lạm dụng nhi đồng và TKT ở Ru-ma-ni (2006) (mô tả kinh nghiệm của Ru-ma-ni chuyển trẻ em từ các trại lớn sang các trại nhỏ). 256 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, at 145. 257 Như trên 258 Như trên 52 phụ lục 1: Ban hành giáo dục hòa nhập ở các nước đang phát triển Tại Hoa Kỳ, Quốc hội đã phê chuẩn ban hành Đạo luật giáo dục cho tất cả trẻ em tật nguyền trong năm 1975, lần đầu tiên yêu cầu tất cả TKT có quyền “hưởng giáo dục công thích hợp và miễn phí”. Mặc dầu luật này, hiện được biết tới là luật Đạo luật cho những cá nhân khuyết tật, có nhiều ý kiến phê bình, nhưng không thể phủ nhận rằng từ khi Đạo luật cho những cá nhân khuyết tật được phê chuẩn ban hành, TKT tại Hoa Kỳ đã được hưởng quyền giáo dục như những trẻ em khác không khuyết tật. Các nước khác cũng công nhận quyền được giáo dục hòa nhập cho NKT và hiện đang cung cấp những nguồn lực cần thiết để hỗ trợ mô hình này. Ví dụ, kết quả của Khuôn khổ Hành động Dakar dẫn đến kết quả Đánh giá EFA toàn cầu 2000, các nước như Bangladesh, Brazil và Ai cập hiện nay đang dành sít soát 6% của Tổng sản phẩm quốc nội (GNP) cho giáo dục.259 Đối với các nước châu Phi, giáo dục hút khoảng 1/3 ngân sách quốc gia, mặc dầu một vài nước chi tiêu cho y tế và giáo dục cộng lại bằng các khoản nợ trả dần.260 Báo cáo năm 2000 của UNESCO về khu tự trị Quảng Tây, trong năm 1996 đã chuyển đổi một trường chuyên biệt có 500 học sinh khiếm thị thành một trường hòa nhập bình thường đến nay đã giáo dục cho 1.700 cháu, thấy rằng các em này đã được hưởng lợi qua giúp đỡ của giáo viên được đào tạo trong dự án, và trường hòa nhập này đã mang lại những lợi ích bổ sung cho cộng đồng, đó là xóa bỏ được định kiến từ bao lâu nay đối với NKT.261 Tại Constanta, Ru-ma-ni, UNESCO đã báo cáo rằng nơi nào có cản trở chính cho giáo dục hòa nhập là đối kháng của một số phụ huynh và giáo viên thì “ kiên trì và sử dụng thông minh những chiến lược đầy đủ” sẽ vượt qua được những mối lo và sự đối kháng. “bà hiệu trưởng và cán bộ nhà trường ước tính rằng tương lai của giáo dục hòa nhập mà trường họ mang lại sẽ tốt đẹp và họ dự định tiếp tục phát triển kinh nghiệm này.”262 Xa hơn nữa, tại Kenya, Hội Người mù Kenya cũng đã tăng số lượng tuyển sinh trẻ em mù vào các trường phổ thông.263 UNESCO cũng đã báo cáo rằng tại Trung tâm Silahis Kaunlaran (Manila) tất cả trẻ em theo học các chương trình chính khóa và thực hành hòa nhập cũng được lưu ý về nhu cầu và điều kiện cụ thể của các cháu. Ví dụ, mặc dầu những học sinh khó khăn về thính lực được đào tạo kỹ năng nghe-nói bổ sung đặc biệt, các cháu vẫn theo cùng chương trình như những học sinh khác. Tình hình tương tự áp dụng cho học sinh mù, các cháu này được giáo viên chính khóa hướng dẫn trên lớp và dạy bổ sung và giao bài tập bằng chữ nổi Braille.264 Còn tại Ấn Độ, Ngân hàng Thế giới báo cáo trong năm 2003 rằng Dự án sáng kiến xóa đói giảm nghèo huyện Andhra Pradesh đã giúp đỡ giáo dục hòa nhập bằng cách lên tiếng ủng hộ cha mẹ TKT và kêu gọi những phụ huynh khác hỗ trợ, tạo tự tin cho TKT, công nhận, và tạo cơ hội 259 Xem báo cáo của UNESCO, hiện có tại để có báo cáo cụ thể về giáo dục hòa nhập, và tình hình đáp ứng của các quốc gia đối với nhiệm vụ pháp lý quốc tế trong lĩnh vực này, xin xem thêm tại 260 Xem báo cáo của UNESCO, 261 UNESCO, Giáo dục hòa nhập theo lịch biểu chương trình, Paris, UNESCO, 1998. images/0012/001234/123486e.pdf 262 Như trên (trích đoạn báo cáo trường hợp nghiên cứu điển hình Ru-ma-ni về hòa nhập, do UNESCO tiến hành trong năm 1999). 263 UNESCO, Giáo dục hòa nhập theo lịch biểu chương trình, Paris, UNESCO, 1998. images/0012/001234/123486e.pdf 264 Như trên (được tóm tắt từ nghiên cứu trường hợp quốc gia về Philippines, do UNESCO tiến hành). 53 thích hợp các cấp và gợi nên hy vọng.”265 Đây chỉ là một vài ví dụ của rất nhiều sáng kiến thành công trên toàn thế giới nhằm xúc tiến giáo dục hòa nhập. Hơn nữa, một báo cáo về châu Á do tổ chức Người hướng dẫn Quyền Người khuyết tật quốc tế cho thấy rằng trong năm 2005 đa số các quốc gia trong báo cáo đã có những chính sách giáo dục đề cao giáo dục hòa nhập cho NKT, dẫu rằng còn trộn chung các trường hòa nhập và các trường chuyên biệt và thực thi thực tế có khác nhau. Tại Trung quốc trong năm 2004, ví dụ, có đến 66.23% học sinh với nhu cầu đặc biệt được học tại các trường phổ thông chung. Mặt khác, tại Philippin, chỉ có 23 trên tổng 49,779 trường hòa nhập học sinh khuyết tật vào hệ thống giáo dục chung. Hơn nữa, có nhiều mối quan tâm về chất lượng của giáo dục hòa nhập tại một số nước như Ấn Độ và Philippin, tại đó số lượng mỗi lớp học sinh khuyết tật gần như đông gấp đôi mức trung bình quốc gia. Chỉ có Căm-pu-chia và Nhật Bản chú trọng riêng vào giáo dục chuyên biệt.266 Những ví dụ này tạo tự tin cho chính phủ Việt Nam và những đối tác để thấy đích đến giáo dục hòa nhập đã hoàn thành tại nhiều nước trên toàn thế giới ngày nay, bất chấp những cản trở và mối lo kinh phí. Báo cáo từ nhiều nước khác nhau chỉ ra rằng phát triển hòa nhập đầy đủ trong giáo dục đòi hỏi tập trung không chỉ vào cấu trúc nhà trường và lớp học, mà còn vào những điều kiện liên quan thúc đẩy học tập cho tất cả, cũng như phát triển và hỗ trợ quan hệ đối tác sáng tạo, lôi cuốn cả các tổ chức của chính phủ và phi chính phủ, giáo viên gia đình và chính những NKT. Tóm tắt lại, quyền được giáo dục hòa nhập, ở tất cả các cấp, cho TKT là có thể thực hiện được tại Việt Nam như đã thực hiện được ở các nước khác. Luật pháp và những chính sách quốc tế hỗ trợ công tác loại bỏ hệ thống các trường chuyên biệt và chương trình chuyên biệt cho TKT hiện nay của Việt Nam, và tạo lập pháp nhân mới cho hệ thống giáo dục hòa nhập. Việt Nam còn nhiều khó khăn thử thách trước mặt trước khi có thể phát triển và thực thi được một hệ thống giáo dục hòa nhập. Tuy nhiên, để tuân thủ hoàn toàn với pháp nhân hòa nhập của CRPD, Việt Nam phải sử dụng cơ hội này để chỉnh sửa Luật Người khuyết tật nhằm bảo đảm chương trình giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em. Luật pháp và những chính sách có thể thực thi được là cần thiết để chấm dứt kiểu đưa trẻ sơ sinh và các TKT vào các trại mồ côi và các trung tâm nuôi dưỡng, và cần phải có kế hoạch trả các em này về với cộng đồng và hệ thống giáo dục hòa nhập chung. Tất cả trẻ em Việt Nam có quyền được hưởng nền tảng giáo dục hòa nhập, sẽ giúp các cháu lớn lên thành những công dân hữu ích và khỏe mạnh. Như đã bàn ở phần trên, giai đoạn quá độ sang hệ thống giáo dục hòa nhập sẽ đòi hỏi nhiều bước, và quan hệ đối tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, cán bộ nhà trường và gia đình để bảo đảm chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em, đặc biệt là những trẻ em bị thiệt thòi. Việt Nam giờ đây có cơ hội tăng cường quyền được giáo dục cho tất cả TKT theo Luật Người Khuyết tật mới và để tạo lập một hệ thống chăm sóc mới khuyến khích hòa nhập TKT vào cộng đồng và các trường chung, hơn là vào các trường chuyên biệt, các trại trẻ mồ côi và những kiểu cơ sở chăm sóc tập trung khác. 265 Ngân hàng Thế giới, Khuyết tật và Phát triển tại Ấn Độ (2003) NEWS/0,,contentMDK:20092924~menuPK:34457~pagePK:34370~piPK:34424~theSitePK:4607,00.html 266 IDRM Báo cáo về châu Á (2005), Tóm tắt thực hiện, phần. XIV.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdffinal_legal_analysis_report_in_v_719.pdf