Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm

Nói tới phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập với nghiên cứu khoa học. Một yếu tố quan trọng bảo đảm thành công trong học tập và nghiên cứu khoa học là khả năng phát hiện đúng và giải quyết hợp lý những vấn đề đặt ra. Vì thế, nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào những tình huống mới thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người, phát huy nội lực làm cho kết quả học tập nhân lên gấp bội.

doc40 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 8073 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ta. Đây cũng đang là vấn đề cấp bách không chỉ được toàn ngành giáo dục quan tâm mà cũng là sự quan tâm trong đường lối lãnh đạo công tác giáo dục của Đảng, từng được ghi trong các Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) và Nghị quyết Trung ướng 2 (khoá VIII), Luật giáo dục. Vấn đề đổi mới PPDH không phải là mới đối với nhà trường phổ thông. Nó đã được đề cập, phát động dưới nhiều cách thức khác nhau trong các nhà trường từ thập kỷ 70 (thế kỷ XX). Đội ngũ giáo viên phổ thông của ta ít nhiều cũng đã được các nhà trường sư phạm trang bị vốn liếng về các PPDH tích cực. Vậy thì tạ sao vấn đề đó bây giờ chuyển động vẫn rất chậm chạp, vẫn được đánh giá là yếu kém. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Song nguyên nhân quan trọng nhất là: công tác quản lý, từ cấp quản lý hệ thống tới quản lý ở các cơ sở trường học còn nhiều bất cập. Phần đông các chủ thể quản lý (nhất là hiệu trưởng nhà trường) chưa thực sự vào cuộc, thậm chí chưa được quan tâm trong công tác chỉ đạo, quản lý. Bởi vậy, muốn quá trình đổi mới PPDH ở nhà trường phổ thông có hiệu quả, cần đổi mới công tác quản lý, nhằm giải quyết những bất cập, những trở ngại cho quá trình này. 1. Nhận diện những khó khăn ảnh hưởng tới quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông. 1.1. Về chất lượng đội ngũ giáo viên Giáo viên là lực lượng quyết định sự thành bại của quá trình đổi mới PPDH. Tuy hiện nay chúng ta có một đội ngũ giáo viên phổ thông đã đảm bảo số lượng (nhiều nơi dư thừa), đa dạng về trình độ, mức sống được đảm bảo khá hơn trước, nhưng trên thực tế đời sống trường học, chúng ta vẫn thiếu đội ngũ giáo viên có chất lượng để đảm nhận dạy học theo hướng đổi mới. Cụ thể, giáo viên còn nhiều bất cập trong nghiệp vụ sư phạm, thể hiện qua các kỹ năng phân tích, lựa chọn kiến thức cơ bản và trọng tâm; các kỹ năng xác định, lựa chọn và sử dụng PPDH bộ môn; kỹ năng hướng dẫn cách thức cho học sinh học tập; kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng đổi mới ... Đổi mới giáo dục chẳng những đòi hỏi người giáo viên phải từ bỏ hàng loạt những thói quen tư duy và thói quen dạy học đã ăn sâu thành nếp qua nhiều năm học mà còn phải "lao tâm khổ tứ", vất vả tìm hiểu từ những tinh thần đổi mới của ngành, của bộ môn mình đảm nhiệm nói chung đến những bài dạy, tiết dạy cụ thể. Đây là bước chuyển từ nhận thức tư tưởng tới hành động thực tiễn, từ đổi mới trên lý luận tới đổi mới trên những công việc giáo dục, giảng dạy thực tiễn hàng ngày. Đây là quá trình hoàn toàn không dễ dàng gì. 1.2. Về nội dung chương trình Hiện nay, chương trình và nội dung dạy học phổ thông đang được đổi mới và có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, tiếng nói từ thực tiễn nhà trường vẫn cho rằng, vẫn còn tình trạng quá tải về kiến thức do cấu trúc chương trình còn nặng, vẫn có xu hướng trình bày kiến thức với liều lượng nhiều mà nhẹ về hướng dẫn phương pháp và tổ chức cho học sinh làm việc. Điều này dẫn đến tình trạng: giáo viên chỉ lo “chạy” cho hết bài, kịp thời gian tiết học mà không có điều kiện tổ chức các phương án học tập để học sinh theo đó khai thác kiến thức và thực hành luyện tập, qua đó mà học cách  học. Thêm nữa, trong chương trình hiện hành việc xác định mục tiêu bài học ở một số bộ môn còn chung chung, chưa tường minh, chưa thực sự là những đích cần đạt có thể định lượng, chưa thực sự là những chuẩn mực để theo đó giáo viên tiến hành và đo đếm chất lượng học tập được thuận lợi. Sách giáo khoa hiện hành trong nhiều năm qua kiến thức còn nặng; cách trình bày còn nghèo nàn, đơn điệu, mang nặng tính “thông báo kiến thức”; tính định hướng PPDH còn mờ nhạt; việc hướng dẫn học sinh học tập và dạy cách học cho họ chưa được quan tâm thể hiện trong đó. Tài liệu tham khảo, tài liệu ôn tập chồng chéo, theo kiểu giải sẵn nhiều hơn tài liệu hệ thống hoá kiến thức và hướng dẫn cách học. Hiện nay, việc biên soạn lại sách giáo khoa theo định hướng đổi mới đang khắc phục dần tình trạng trên. 1.3. Về phương tiện dạy học Với ý nghĩa là hệ thống công cụ hỗ trợ dạy học, thiết bị giáo dục vừa có ý nghĩa như một nguồn tri thức cần khai thác, vừa như một điều kiện kích thích tính tích cực học tập ở người học. Tuy nhiên, trong trường phổ thông ở ta hiện nay, vẫn  thiếu trầm trọng các phương tiện dạy học thông thường cũng như hiện đại. Điều này dẫn đến tình trạng buộc người giáo viên vẫn phải thiết kế và tiến hành dạy học theo lối thuyết trình hoặc hỏi-đáp là chủ yếu mà không đủ điều kiện để thực hành các PPDH mới. HS cũng chủ yếu theo đó mà nghe và ghi, ít được thực hành, nghiên cứu trên những công cụ, phương tiện vật thật, nên không phát huy hứng thú, óc tò mò và tư duy khoa học. 1.4. Về kiểm tra, đánh giá chất lượng dạy học Kiểm tra, đánh giá theo hướng nào, việc dạy học sẽ theo hướng đó. Rất tiếc, khâu này ở nước ta lạc hậu khiến cho đổi mới PPDH khó thực hiện. Cụ thể: thi và kiểm tra các cấp, các lớp, chủ yếu nhằm vào tái hiện, học thuộc; tham về trình bày kiến thức; hình thức bài làm đơn điệu, dẫn đến tình trạng học sinh học theo bài mẫu, triệt tiêu sự sáng tạo. Khi đánh giá bài thi, bài kiểm tra, giáo viên ít tôn trọng cá tính sáng tạo của học sinh, lấy kiến thức của sách, của thầy làm chuẩn. Các cấp quản lý đánh giá chất lượng của giáo viên, của lớp học, trường học dựa theo tỷ lệ % thi cuối kỳ, cuối năm, nên triệt tiêu những nỗ lực đổi mới PPDH của đội ngũ giáo viên cũng như của các nhà trường. 2. Những giải pháp tổ chức, quản lý nhằm nâng cao chất lượng quá trình đổi mới PPDH ở trường phổ thông 2.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ GV trong nhà trường về vấn đề đổi mới PPDH. a. Về mục đích: + Trang bị những tri thức cần thiết, làm cho mọi GV, mọi bộ phận trong trường nâng cao nhận thức, thống nhất tư tưởng về ĐMPPDH; + Tạo ra sự kích thích đội ngũ trong lao động sáng tạo thực hiện vận dụng phương pháp mới nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh. b. Về nội dung: Làm cho giáo viên và cán bộ trong trường nhận thức rõ: + Tính cấp thiết của đổi mới PPDH: một mặt, làm cho tập thể sư phạm cần thống nhất nhận thức: đây là yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục, là hạt nhân của việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, là điều kiện trực tiếp để nâng cao chất lượng giáo dục; mặt khác, cần coi đây là thách thức đội ngũ mà đội ngũ cần phải đáp ứng, nhưng cũng là cơ hội phát triển của mỗi giáo viên và của mỗi nhà trường. + Những định hướng cơ bản của đổi mới PPDH hiện nay: -         Phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; -         Bồi dưỡng phương pháp tự học; -         Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; -         Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS. + Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tích cực: -         Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh; -         Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh; -         Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập cá thể, phối hợp với hoạt động học tập hợp tác -         Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. c- Về hình thức tổ chức: -         Tổ chức cho giáo viên đi học các lớp bồi dưỡng hè do Sở,  Bộ tổ chức; -         Tổ chức học tập, nghiên cứu các tài liệu lý luận nghiệp vụ tại tổ, trường; -         Tăng cường nghiên cứu, trao đổi, thảo luận trong nhóm, tổ chuyên môn và vận dụng giải quyết từng vấn đề theo yêu cầu ĐMPPDH. -         Tổ chức các đợt học tập xen kẽ, lồng ghép vào các sinh hoạt chuyên môn, rèn luyện tay nghề hàng tuần, hàng tháng trong tổ chuyên môn hoặc các kỳ hội giảng, thi giáo viên giỏi các cấp. 2.2. Tổ chức, chỉ đạo thường xuyên các hoạt động thực hành đổi mới phương pháp dạy học trong năm học. a- Xác định trọng tâm chỉ đạo: Thống nhất trong nhận thức và tổ chức thực hiện những hoạt động đổi mới phù hợp, có thể thực hiện được ngay như sau: Một là: Đổi mới cách xác định mục tiêu bài học:  Việc xác định mục tiêu bài học cần đảm bảo 2 yêu cầu cơ bản: 1)  Định lượng được mức độ, chuẩn mực kiến thức, kỹ năng và thái độ học sinh phải đạt được sau bài học để thực hiện, đồng thời lấy đó làm căn cứ đánh giá kết quả bài học một cách khách quan, tránh tình trạng đánh giá cảm tính đối với một bài học. 2) Chú trọng mục tiêu xây dựng phương pháp học tập, đặc biệt là phương pháp tự học qua mỗi giờ học, bài học; Hai là: Đổi mới cách soạn giáo án trên cơ sở 3 định hướng sau: 1) Chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt động của thày sang hoạt động của trò; 2) Giáo án phải thực sự là một bản kế hoạch lên lớp trong đó mọi hoạt động đều được tính đếm theo một quy trình hợp lý và có sự phối kết hợp rất chặt chẽ các nguồn lực: người dạy, người học, sách giáo khoa, thiết bị dạy học...; 3) Cần dự tính các phương án và cách thức có thể tiến hành để kiểm soát chất lượng làm việc của học sinh Ba là: Tăng cường tổ chức cho học sinh hoạt động với hai hình thức, hoặc làm việc độc lập theo nhịp độ phân hoá cá nhân, hoặc làm việc theo nhóm; sử dụng triệt để các phiếu hoạt động học tập; tăng cường giao tiếp thày – trò kết hợp mở rộng giao tiếp trò – trò; Bốn là: Nâng cao chất lượng các câu hỏi trong tiết học và đề kiểm tra, giảm số câu hỏi tái hiện sự kiện, tăng tỷ lệ các câu hỏi yêu cầu tư duy tích cực sáng tạo, chú trọng nhận xét sửa chữa các câu trả lời cho học sinh. Những hoạt động đổi mới trên cần được Hiệu trưởng quán triệt đồng bộ đối với tất cả các giáo viên, ở tất cả các bộ môn. Tinh thần chỉ đạo chung là: trong mỗi tiết học bình thường, học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng hơn là được suy nghĩ nhiều hơn trong quá trình lĩnh hội nội dung học tập. b- Lập kế hoạch tổ chức các hoạt động thực hành đổi mới phương pháp trong từng thời gian: tuần, tháng, học kỳ, năm học (trên cơ sở kế hoạch chuyên môn của các tổ nhóm chuyên môn và của nhà trường). c- Tổ chức thực hiện: -         Chỉ đạo tổ nhóm chuyên môn chú trọng tất cả các khâu trong quy trình hoạt động: xác định những yêu cầu đổi mới, bàn bạc, xây dựng thiết kế giáo án mẫu theo hướng đổi mới, lần lượt cử giáo viên dạy thử nghiệm và tập thể dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm, so sánh với bài dạy trước đó để thấy mặt tiến bộ và hạn chế. -         Chỉ đạo điểm những giờ dạy học sinh phương pháp học tập, chú trọng hướng dẫn học sinh tự học trên lớp và ở nhà dưới sự hướng dẫn của GV. -         Tổ chức học tập, nghiên cứu, cải tiến cách thức kiểm tra kết quả học tập của học sinh theo định hướng đổi mới: sử dụng hợp lý hai hình thức kiểm tra: tự luận và trắc nghiệm. -         Đổi mới hoạt động của Thư viện nhà trường và Thiết bị dạy học, chú trọng chỉ đạo việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học, phục vụ có hiệu quả cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học. -         Tổ chức các đợt thao giảng, hội thi giáo viên giỏi các cấp theo tinh thần đổi mới phương pháp, thường xuyên mời các giáo viên giỏi trong cụm hoặc các chuyên gia về dự giờ, trao đổi. -         Tổ chức cho giáo viên tham quan, học tập các đơn vị tổ, trường có phong trào và chất lượng dạy học tốt ở trong và ngoài địa phương. 2.3. Kiểm tra, đánh giá các hoạt động ĐMPPDH Kiểm tra, đánh giá các hoạt động ĐMPPDH với nhiều hình thức khác nhau vừa có tác dụng điều chỉnh vừa có ý nghĩa thúc đẩy đối với chính quá trình này.      Thứ nhất, ban giám hiệu, ban trí dục nhà trường thường xuyên phân công tham gia, theo dõi và điều chỉnh các hoạt động đổi mới nói trên thông qua vai trò của Tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, đặc biệt thông qua việc tăng cường hoạt động của Thanh tra chuyên môn nhà trường Thứ hai, công tác kiểm tra, thanh tra chuyên môn cần được đổi mới theo hướng coi trọng chức năng phát hiện để phòng ngừa, điều chỉnh, tư vấn cho giáo viên  hơn là chỉ tập trung truy tìm sai sót. Thứ ba, một mặt, cần kết hợp giữa đánh giá của cá nhân với đánh giá của tổ chuyên môn và của ban giám hiệu để xác định những vấn đề chung cần giải quyết trong tình hình thực hiện ĐMPPDH trong tập thể tổ nhóm và mỗi giáo viên; mặt khác, đổi mới việc kiểm tra chuyên môn, thay lối kiểm tra hành chính thủ tục bằng coi trong kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của GV và HS; Thứ tư, cần đổi mới công tác đánh giá thi đua trên cơ sở chú trọng những tiêu chí, những quy định của nhà trường trong việc tham gia thực hiện ĐMPPDH của mỗi bộ phận, cá nhân. Thứ năm, cải tiến công tác thi đua trong nhà trường trên cơ sở đánh giá đúng và có chế độ khuyến khích, động viên kịp thời các hoạt động đổi mới PPDH có hiệu quả. 2.4. Tăng cường xây dựng hệ điều kiện cho quá trình ĐMPPDH 2.4.1. Đa dạng hoá, tích cực hoá hoạt động bồi dưỡng GV tại cơ sở nhà trường. Giáo viên là người hiện thực hoá các PPDH khi tiến hành các hoạt động dạy học ở trên lớp, đồng thời cũng là lực lượng quyết định sự thành bại của quá trình ĐMPPDH. Bởi vậy, cần đẩy mạnh các hoạt động bồi dưỡng giáo viên ngay tại nhà trường. Cách làm có hiệu quả nhất là thông qua các hoạt động học tập, rèn luyện ở tổ nhóm, nhất là hoạt động thực hành các kỹ năng sư phạm theo hướng đổi mới trong giờ lên lớp hàng ngày là vấn đề cần được quan tâm tổ chức thường xuyên. Hiệu quả của các hoạt động thực hành đổi mới PPDH cụ thể ấy là góp phần thiết thực vào việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ và nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giáo viên. Đồng thời, khi trình độ người giáo viên được nâng cao hơn thì quá trình ĐMPPDH lại càng được tiến hành một cách chủ động, sáng tạo  và có chất lượng hơn . 2.4.2. Tăng cường đầu tư xây dựng và khai thác thiết bị giáo dục. Muốn tổ chức quá trình đổi mới PPDH có hiệu quả, cần coi trọng vai trò của các phương tiện dạy học như hệ thống tài liệu học tập bao gồm sách giáo khoa, sách tham khảo cùng với các loại học liệu khác và hệ thống thiết bị dạy học. Xây dựng và tăng cường nguồn lực sách cho Thư viện; Kết hợp giữa đầu tư mua sắm thiết bị thí nghiệm với huy động khả năng sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong tự làm đồ dùng dạy học; Chú trọng xây dựng hệ thống phòng học bộ môn; Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú nhằm phát huy vai trò tác dụng của Thiết bị dạy học và Thư viện trường học, cần coi đây là một trong những trọng tâm của công tác tổ chức chỉ đạo đổi mới PPDH. 2.4.3.  Phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài nhà trường: Quản lý quá trình đổi mới PPDH ở trong nhà trường cần được tiến hành song song với việc tổ chức tốt hoạt động của các lực lượng nội bộ như giáo viên chủ nhiệm, Chi bộ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên và các lượng ngoài trường như Hội phụ huynh, Hội khuyến học... Trên cơ sở đó, tạo ra mối quan hệ kết hợp khăng khít, chặt chẽ, nhằm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, cùng chăm lo đôn đốc, tổ chức học sinh học tập và rèn luyện tại gia đình cũng như trong thôn xóm. 2.4.4. Đổi mới công tác quản lý chỉ đạo đối với các hoạt động đổi mới PPDH + Hiệu trưởng cần có nhận thức và quan điểm chỉ đạo tập trung, ưu tiên đối với hoạt động đổi mới PPDH, tránh tình trạng "chạy quanh chuyên môn". + Luôn xác định đây là hoạt động trọng tâm trong kế hoạch công tác của Tổ chuyên môn, của nhà trường hàng tuần,  hàng tháng, hàng kỳ, tránh tình trạng một năm chỉ tổ chức 2 đợt Hội giảng thể hiện tinh thần phương pháp dạy học mới mang nặng tính phong trào. + Tăng cường đầu tư tài chính cho các hoạt động dạy học, đặc biệt tạo mọi điều kiện để nâng cấp trang thiết bị cho các phòng học bộ môn. + Xây dựng các quy định mang tính chế tài và phân cấp quản lý cho Tổ nhóm chuyên môn để quản lý có hiệu quả nền nếp và chất lượng các hoạt động đổi mới PPDH trong nhà trường; 2.4.5. Nâng cao vai trò gương mẫu và năng lực chỉ đạo chuyên môn của Hiệu trưởng và đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường. “Cán bộ nào phong trào ấy”, khi đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường cùng thống nhất trong nhận thức về ý nghĩa và sự cần thiết của quá trình ĐMPPDH trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, cùng đồng tâm nhất trí dồn trí và lực để thực hiện thường xuyên, có hiệu quả các hoạt động đổi mới theo kế hoạch chỉ đạo đã được bàn bạc, hoạch định, cùng đánh giá mọi hoạt động của mỗi tổ nhóm, mỗi bộ phận, mỗi giáo viên, mỗi lớp học dựa trên tiêu chí chất lượng và hiệu quả của các hoạt động đổi mới PPDH thì nhất định quá trình đổi mới PPDH sẽ đạt được những kết quả tốt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.      Trần Bá Hoành, Phương pháp tích cực, Tạp chí NCGD, số 3/1996. 2.      Trần Kiều, Một vài suy nghĩ về đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông nước ta, Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 5/1995. 3.      Hoàng Đức Nhuận, Những vấn đề lý luận cơ bản trong đổi mới phương pháp dạy học, Tạp chí Thông tin KHGD, số 45/1994. 4.      Nguyễn Ngọc Quang, Phương pháp dạy học, NXB Giáo dục, 1987. 5.      Thái Duy Tuyên, Tìm kiếm chiến lược phát triển phương pháp dạy học phổ thông, Tạp chí NCGD, số 1/1991 VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP PGS.TS Cao Đức Tiến Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Trường sư phạm được coi là nơi truyền nghề dạy học. Nhiều thế hệ nhà giáo ở các trường sư phạm đã dày công tìm kiếm các phương pháp dạy học khác nhau để việc “truyền nghề” mang lại hiệu quả cao. Nhìn lại, chúng ta thấy, nếu lấy “giảng để dạy” thì người ta thường dùng phương pháp thuyết trình; nếu lấy “hỏi để dạy” thì người ta thường dùng phương pháp vấn – đáp; còn lấy “làm để dạy” thì người ta thường tổ chức các hoạt động cho người học. Cũng nhìn lại, chúng ta còn thấy người ta đã sử dụng nhiều cách dạy học khác nữa để đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ở các trường sư phạm, chẳng hạn như: dạy học theo mục tiêu, dạy học theo tình huống, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học tương tác, dạy học khám phá, Trong thời kì mở cửa và hội nhập, chúng ta còn thấy nhiều phương pháp mới được du nhập và sử dụng, chẳng hạn như: dạy học theo dự án, dạy học theo hợp đồng, dạy học theo góc, Nói chung, các phương pháp thì có nhiều, nhưng việc sử dụng những phương pháp nào cho phù hợp với việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ở các trường sư phạm thì cần phải bàn bạc và lựa chọn, nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay. Dưới đây xin đề xuất cách sử dụng một vài phương pháp dạy học ở các trường sư phạm trong xu thế hội nhập để cùng trao đổi với các đồng nghiệp. I. Đổi mới đối với việc dạy khoa học cơ bản 1.Dạy học theo chuyên đề Thông thường, việc dạy học chuyên đề được thực hiện trong một khoảng thời gian tương đối dài, chừng 15 đến 45 tiết. Việc dạy học thường được thực hiện theo cách thày truyền đạt, sinh viên ghi chép trong suốt quá trình học chuyên đề. Để đổi mới cách dạy học các chuyên đề, có thể thực hiện theo các bước như sau: Bước 1: GV gặp gỡ SV để trình bầy những điểm sau: + Mục tiêu cần đạt của vấn đề cần học (Kiến thức, Kĩ năng, Thái độ) + Cách thức tiến hành:  đọc tài liệu, trình bầy tại lớp, thảo luận, GV tổng kết. + GV chỉ dẫn các tài liệu cần đọc. + Giao nhiệm vụ cho SV: Tìm đọc các tài liệu đã chỉ dẫn, ghi chép các tài liệu đọc được theo vấn đề đã nêu. Soạn đề cương để thảo luận. Bước 2: Gặp lại SV (sau 1 tuần), làm những việc sau: + GV điều hành: Các nhóm và cá nhân trình bầy về chủ đề đã nêu tuần trước. + Thảo luận: Có bao nhiêu quan điểm về vấn đề đã nêu? Anh/ chị theo quan điểm nào? Vì sao? Bước 3: GV tổng kết + Nguồn gốc vấn đề + Các quan điểm khác nhau; ưu điểm, hạn chế của mỗi quan điểm + Ý nghiã của vấn đề; quan điểm cần theo Như vậy, một chuyên đề đợc kết thúc trong khoảng 2, 3 buổi học trên lớp, không nhất thiết thày phải giảng đủ 15 tiết hoặc 45 tiết. 2. Dạy học theo dự án Dạy học theo dự án là một phương pháp học tập mang tính xây dựng, trong đó sinh viên tự đưa ra sáng kiến và xây dựng phiếu hỏi, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu và đưa ra nhận định, kết luận về các vấn đề cụ thể. Đây là một hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho sinh viên tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống. Quá trình học theo dự án giúp sinh viên củng cố kiến thức và xây dựng các kĩ năng hợp tác, giao tiếp và học tập độc lập, chuẩn bị hành trang cho các em trong sự nghiệp học tập suốt đời và đối mặt với những thử thách trong cuộc sống. Dạy học theo dự án là một hoạt động tìm hiểu sâu về một chủ đề cụ thể với mục tiêu tạo cơ hội cho sinh viên thực hiện nghiên cứu vấn đề thông qua việc kết nối các thông tin, phối hợp nhiều kĩ năng, giá trị và thái độ, nhằm xây dựng kiến thức và phát triển khả năng học tập suốt đời. Các chủ đề trong học theo dự án chủ yếu liên quan đến việc học và đời sống hàng ngày của sinh viên, có thể nằm trong các môn học tích hợp nằm ngoài chương trình. Dạy học theo dự án gồm ba bước cơ bản như sau: Bước 1: Lập kế hoạch Lựa chọn chủ đề Xây dựng tiểu chủ đề Khơi gợi hứng thú Lập kế hoạch cho các nhiệm vụ học tập. Bước 2: Thực hiện dự án Thu thập thông tin Xử lí thông tin Thảo luận với các thành viên khác Trao đổi và xin ý kiến cán bộ hướng dẫn. Bước 3: Tổng hợp kết quả Xây dựng sản phẩm Trình bày sản phẩm Bài học kinh nghiệm sau khi thực hiện dự án. 3. Dạy học theo hợp đồng Dạy học theo hợp đồng là cách tổ chức học tập, trong đó sinh viên làm việc theo “một gói các nhiệm vụ” trong một khoảng thời gian nhất định. Sinh viên chủ động xác định khoảng thời gian và thứ tự thực hiện các nhiệm vụ. Mỗi hợp đồng phải bao gồm các nhiệm vụ bắt buộc và nhiệm vụ tự chọn. Tuỳ theo nội dung bài học của từng môn học mà tổ chức dạy học theo hợp đồng cho phù hợp. Ví dụ như các giờ thực hành, ôn tập, luyện tập, học kiến thức mới, Các bước dạy học theo hợp đồng: Bước 1: Lựa chọn nội dung Bước 2: Xây dựng hợp đồng + Biên soạn văn bản hợp đồng + Thiết kế các nhiệm vụ/hoạt động bao gồm cả phương tiện, tài liệu (tư liệu nguồn, bản hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, đáp án,). Bước 3: Tổ chức kí kết và thực hiện hợp đồng. Bước 4: Tổ chức nghiệm thu hợp đồng (trao đổi, chia sẻ ; thực hiện linh hoạt). II. Đổi mới đối với việc dạy học khoa học nghiệp vụ Trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, với điều kiện hiện nay, có thể đổi mới bằng việc áp dụng Dạy học vi mô. Dạy học vi mô được coi là một phương pháp đào tạo lấy hoạt động của người học làm trung tâm, rất có hiệu quả trong đào tạo ban đầu cho SV sư phạm nắm chắc từng kĩ năng riêng biệt, hình thành các năng lực bộ phận của nghề dạy học. Người ta chọn từng đoạn ngắn từ 15 đến 20 phút trong các tiết học ở phổ thông do các giáo viên già dặn kinh nghiệm hoặc các giáo viên tập sự tiến hành – cũng có thể là tiết tập dạy của giáo sinh – với dụng ý rèn luyện cho sinh viên một kĩ năng, năng lực xác định trong hệ thống các năng lực sư phạm của chương trình đào tạo. Bài học ngắn được ghi hình, phát lại trên màn hình với số lần cần thiết để từng nhóm sinh viên, dưới sự hướng dẫn của giảng viên, tập dượt quan sát sâu sắc, phân tích tỉ mỉ, thảo luận rút kinh nghiệm, đề xuất cải tiến theo hướng vận dụng những kiến thức lí luận đã học. Phương án đã sửa chữa được một vài sinh viên trong nhóm thể hiện, được ghi hình, đem ra phân tích, thảo luận lần thứ hai, qua đó sinh viên thấy được mình trên màn hình, tự đánh giá mức độ đạt được và những điểm yếu cần rèn luyện tiếp. Chu trình trên có thể được tái diễn nhiều lần, theo nhóm hoặc từng cá nhân, cho đến khi sinh viên làm chủ được kĩ năng, năng lực sư phạm cần rèn luyện. Camera, đầu video, tivi là những phương tiện thuận lợi cho dạy học vi mô. Không có các phương tiện này cũng có thể tiến hành những bài học ngắn có quan sát, ghi chép, thảo luận, sau đó tập dạy lại trước nhóm hoặc tập dạy một mình để rút kinh nghiệm. Ghi hình là phương tiện phản hồi giàu thông tin và hiệu quả cao, giúp cho sinh viên tự soi, tự thấy mình trong hành động, điều chỉnh các hành vi ứng xử sư phạm, tự đánh giá thành tích tập dượt rèn luyện của mình. Nếu đầy đủ phương tiện, dạy học vi mô sẽ trở thành phương thức tự đào tạo theo nhu cầu và khả năng của mỗi sinh viên. Dạy học vi mô khắc phục được tình trạng chỉ thiên về lí thuyết, giúp cho sinh viên hình thành và phát triển các năng lực nghề nghiệp một cách tuần tự, vững chắc, chuẩn bị cho họ khi ra trường có thể đương đầu với thực tế lớp học. Trong khi vận dụng dạy học vi mô cần đề phòng khuynh hướng rập khuôn, máy móc, buộc mọi sinh viên phải hành động theo một mẫu cứng nhắc, ngăn cản sự hình thành phong cách sư phạm của mỗi cá nhân. Cũng cần đề phòng sai lầm chia cắt quá trình rèn luyện năng lực nghề nghiệp thành những mảnh vụn rời rạc; phải tôn trọng tính hệ thống có chủ định, hướng tới hình thành những năng lực cơ bản đòi hỏi ở một giáo sinh tốt nghiệp. III. Đổi mới đối với việc biên soạn giáo trình, tài liệu Trong những năm qua, công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học nói riêng đã có nhiều chuyển biến, đem lại những hiệu quả rất đáng kể cho giáo dục. Một trong những nét đổi mới đã được nhắc đến là đổi mới cách viết giáo trình, tài liệu cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Việc này thường được thực hiện qua các dự án như “Dự án phát triển giáo viên Tiểu học”, “Dự án phát triển giáo dục Trung học phổ thông”, “Dự án Việt-Bỉ”, “Dự án hỗ trợ Bộ GD & ĐT của EU”, Nếu như trước đây, các giáo trình, tài liệu dùng để đào tạo, bồi dưỡng giáo viên thường được viết theo kiểu trình bày, phân tích hoặc giải thích về các đơn vị kiến thức được đề cập đến theo những yêu cầu của tài liệu hoặc giáo trình, thì nay, nhiều giáo trình, tài liệu đã được thiết kế hoặc tổ chức cách viết theo những hướng khác nhau. Một trong những cách viết mới đã được thực thi là mô hình G.I.P.O. Vậy G.I.P.O là gì? Đó là viết tắt của các chữ sau: + Goal: Mục tiêu (Nêu các mục tiêu về Kiến thức, Kĩ năng, Thái độ). Cụ thể là: - Chỉ ra cho giáo viên sẽ học được gì/ Có thể làm gì  và sẽ đạt được điều gì sau mỗi nhiệm vụ, mỗi bài học. Có ý nghĩa và liên quan đến mục tiêu của nhóm và cá nhân. Có thể thực hiện trong thời gian cho phép. Được viết rõ ràng, mạch lạc, sao cho có thể đo đạc được. Các mục tiêu có thể giúp người dạy và người học lựa chọn phương pháp dạy và học. Chú ý tới: đối tượng, điều kiện, bối cảnh. -  Các chữ dùng để viết mục tiêu cần được “động từ hóa”. Dưới đây là một số động từ thường được sử dụng khi viết mục tiêu. Mỗi động từ thể hiện mức độ, yêu cầu nhất định. Kiến thức Kĩ năng Thái độ Mức độ nhận biết Nêu lên được Trình bày được Phát biểu được Kể lại được Liệt kê được Nhận biết được Chỉ ra được Mô tả được Mức độ thông hiểu Xác định được So sánh được Phân biệt được Phát hiện được Tóm tắt được Mức độ vận dụng Giải thích được Chứng minh được Liên hệ được Vận dụng được Lập được Viết được Tính được/Biết tính Vẽ được/Đo được/Biết đo Thực hiện được Biết cách Tổ chức được Thu thập được Biết làm thí nghiệm Phân loại được Tuân thủ Tán thành/Đồng ý/Ủng hộ Phản đối Hưởng ứng Chấp nhận Bảo vệ Hợp tác Chủ động đề xuất + Input: Nguồn (hoặc Đầu vào). Đưa ra hoặc chỉ dẫn các tài liệu cần thiết cho người học. Đầu vào thường có các loại sau: *Diễn tả (trực tiếp) *Bản thông báo *Bài đọc *Công việc của sinh viên *Sơ đồ bài học *Sách giáo khoa *Sách bài tập *Băng hình/Băng tiếng *Trò chơi *Bài hát *Hoạt động giảng dạy *Đồ vật thật gắn với nội dung học *Tranh *Ảnh/Hình chiếu *Phim *Đóng kịch (trực tiếp) *Bản sao bài học *Áp phích *Bài giảng/Buổi thuyết trình ngắn + Process: Quá trình (Chỉ rõ quá trình dạy và học gồm những hoạt động nào, nhiệm vụ gì). 1. Các loại hình hoạt động giáo viên có thể làm: Xác định mục tiêu Phân tích Công não Phân loại Phỏng đoán 2. Các loại hình hoạt động sinh viên có thể làm: a). So sánh, ví dụ: “Xem xét hai giáo án dạy học, lựa chọn giáo án mà bạn thích hơn. Tại sao?”. b). Chuẩn bị , ví dụ “Chuẩn bị một thang điểm mà bạn có thể sử dụng để sửa lỗi bài viết của học sinh”. c). Đánh giá, ví dụ “Sau khi xem đoạn trích video, hãy đánh giá tính hiệu quả xử lí lỗi sai trong video của giáo viên, sử dụng tiêu chuẩn sẵn có”. d). Cải thiện, ví dụ “Đọc một bài tập tình huống của một chương trình đọc, chú ý phần đánh giá của tác giả. Bạn có thể đưa ra gợi ý nào để cải thiện chương trình?”. e). Làm quen, ví dụ “Làm quen với bài luyện ngôn ngữ để giới thiệu một sự khác biệt về thông tin”. g). Liệt kê, ví dụ “Xem qua bản chép tay bài học và liệt kê tất cả các lỗi khác nhau mà học sinh mắc phải”. h). Chọn lựa, ví dụ “Bạn đã liệt kê hết tất cả lỗi trong bản chép tay, hãy lựa chọn lỗi nào bạn sẽ sửa và cho biết tại sao”. i). Xếp hạng, ví dụ Xem qua tài liệu dạy ngôn ngữ và sau đó xếp hạng chúng theo mức độ trên phương diện giao tiếp”. k). Bổ sung/Hoàn thành, ví dụ “Đọc kĩ bài báo, liệt kê những nguyên tắc trong việc dạy cách đọc. Bạn muốn bổ sung nguyên tắc nào nữa không?”. l). Sắp xếp lại, ví dụ “Xem băng hình, ghi lại cảnh giáo viên tổ chức hoạt động nhóm. Liệt kê các bước tổ chức khác nhau. Bạn sẽ gợi ý thay đổi gì đối với trật tự của các bước đó?”. + Output: Sản phẩm (hoặc Đầu ra). Định hình sản phẩm, chỉ ra những sản phẩm có thể dự kiến được. Lưu ý hai đặc điểm của đầu ra như sau: Hiểu biết: Nhận thức của giáo viên được nâng cao/ thay đổi về một số khía cạnh dạy – học. Kĩ năng của giáo viên được cải thiện. Tiếp thu được kiến thức mới. Sản phẩm cụ thể: Hoạt động của lớp học. Sơ đồ bài học. Lịch học (Tuần, tháng, kì). Phim dành cho giảng dạy. Những hỗ trợ cho dạy học khác. Biểu đồ. Áp phích. Truyện. Trò chơi. Bài hát Trên đây là những nét cơ bản về mô hình G.I.P.O. Vậy G.I.P.O được vận dụng như thế nào? Mô hình G.I.P.O như trình bầy ở trên đã được vận dụng vào việc biên soạn một số tài liệu tập huấn giáo viên và giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học trình độ CĐSP, do Dự án phát triển giáo viên Tiểu học chủ trương. Tất nhiên, khi vận dụng cần có sự bổ sung và sắp xếp để triển khai một nội dung học tập cho người học theo một trình tự hợp lí. Dưới đây là ví dụ về mô hình một chủ đề học tập đã được trình bầy trong cuốn Văn học (Giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học, hệ CĐSP, do Dự án phát triển giáo viên Tiểu học tổ chức biên soạn). Chủ đề 2 LÍ LUẬN VĂN HỌC I. Mục tiêu 1. Về kiến thức: Trình bày được những kiến thức cơ bản về một số vấn đề lí luận sau đây: Đối tượng, nội dung và chức năng của văn học; Hình tượng và nhân vật trong văn học; Đề tài, chủ đề, kết cấu, cốt truyện; Đặc trưng cơ bản của thơ, truyện, kí, kịch; Ngôn ngữ văn học; Một số thể thơ Việt Nam; Vận dụng các kiến thức lí luận để phân tích một tác phẩm văn học. 2. Về kĩ năng: Biết cách sử dụng các kiến thức lí luận đã học vào việc phân tích, bình giá các tác phẩm, các vấn đề văn học vào việc dạy học ở Tiểu học một cách có hiệu quả. 3. Về thái độ: Có tinh thần chủ động và sáng tạo trong việc sử dụng các kiến thức và kĩ năng về lí luận văn học vào việc dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học; Có ý thức rèn luyện tư duy lí luận nói chung và thường xuyên vận dụng vào việc dạy học ở Tiểu học. II. Giới thiệu về chủ đề 2 Giới thiệu những nét khái quát về 7 tiểu chủ đề sẽ được tìm hiểu và cách thức học tập. III. Điều kiện cần thiết để học tập chủ đề 2 Cung cấp một danh sách những tài liệu cơ bản về lí luận văn học để người học định hướng tìm kiếm. Mỗi tài liệu cần chỉ rõ xuất xứ, những chương mục, các trang cần đọc IV. Nội dung Tiểu chủ đề: Đối tượng, nội dung và chức năng của văn học Hoạt động: Tìm hiểu các vấn đề: đối tượng, nội dung và chức năng của văn học 1. Thông tin cho hoạt động: Để tìm hiểu đối tượng, nội dung và chức năng của văn học, Bạn cần có các tài liệu đã giới thiệu ở mục III: Điều kiện cần thiết để học tập Chủ đề 2. Những tài liệu đó được coi là tài liệu nguồn, giúp Bạn tìm hiểu những nội dung của vấn đề này. Để giải quyết từng khía cạnh của bài học, Bạn cần lần lượt hoàn thành các hoạt động với những nhiệm vụ tương ứng. Bây giờ, Bạn cần làm rõ từng khía cạnh của nội dung bài học theo các nhiệm vụ gợi ý cho Bạn. 2. Nhiệm vụ Để hoàn thành hoạt động tìm hiểu bài, Bạn cần tiến hành các nhiệm vụ sau: + Nhiệm vụ 1: Tìm các tài liệu đã giới thiệu (Từ nguồn sách của thư viện, của cá nhân). + Nhiệm vụ 2:  Đọc các tài liệu; Khi đọc bạn cần ghi chép, lựa ra những kiến thức thuộc các vấn đề: đối tượng, nội dung, chức năng của văn học. + Nhiệm vụ 3: Sau khi đọc và lựa ra được các kiến thức cần thiết, Bạn hãy tự viết về các vấn đề đối tượng, nội dung, chức năng của văn học theo suy nghĩ của mình. 3. Đánh giá hoạt động đã thực hiện Bạn hãy tự đánh giá về mức độ hoàn thành hoạt động đã thực hiện bằng việc trả lời các câu hỏi dưới đây: a). Đối tượng của văn học là gì? b). Nội dung của văn học là gì? c). Chức năng của văn học là gì? Bạn hãy so sánh cách trình bầy các vấn đề nói trên ở các tài liệu khác nhau và rút ra những điểm cơ bản cần hiểu rõ. Thông tin phản hồi cho hoạt động Ở phần này, giáo trình đã đưa những thông tin về cơ bản về đối tượng, nội dung, chức năng của văn học để người học tự đối chiếu với những điều mình đã đọc, đã ghi chép và đã viết theo cách hiểu của riêng mình. V. Đánh giá (sau khi học Tiểu chủ đề 2 ) Trong phần này, giáo trình nêu ra các câu hỏi, các bài tập để người học tự đánh giá. Việc đánh giá được thể hiện bằng: Bản thu hoạch cá nhân, Biên bản thảo luận nhóm, Các nhận xét, bình luận khácĐây được coi là “sản phẩm” hay là “kết quả” học tập về một chủ đề. *Ghi chú: + Trong cấu trúc bài học nói trên thì: Mục I là G; Mục II và III là I; Mục IV là P; và Mục V là O. Có thể tham khảo thêm ở cuốn Giáo trình Văn học đã nêu. + Mô hình G.I.P.O cũng có thể vận dụng để soạn cho một bài giảng trong 1, 2 tiết của giáo viên với cấu trúc gọn nhẹ hơn. Do khuôn khổ cho phép bài viết có hạn, xin được trình bầy vào một dịp khác. Có thể nói G.I.P.O là một mô hình khá thích hợp cho việc viết giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học. Mô hình này có những ưu điểm như sau: 1. Đối với người tự học theo giáo trình, tài liệu: + Ngôn ngữ viết theo hướng thân thiện, như những lời tâm tình, dắt dẫn người học đi từ hoạt động này sang hoạt động khác, hoàn thành nhiệm vụ này sang nhiệm vụ kia. Điều này tạo nên không khí nhẹ nhàng, hấp dẫn, tránh được cách trình bầy “hàn lâm”, nặng tính “quan phương”, ít tạo hứng thú cho người học. + Người học hoạt động, làm theo những hướng dẫn của tài liệu để chiếm lĩnh kiến thức một cách thoải mái, tự nguyện, cầu thị. Tuy nhiên, nếu người học không tự giác làm theo các chỉ dẫn, bỏ qua hàng loạt hoạt động để vội vàng đến với phần “phản hồi”, thì những điều thu nhận được sẽ thiếu đi sự chắc chắn cần thiết. 2. Đối với người nghe giảng trực tiếp: + Người dạy điều khiển, dắt dẫn người học theo chuỗi các hoạt động đã được xác định; giúp người học khai mở dần từng khía cạnh của một bài học và tổng hợp, khái quát cho hoàn chỉnh một đơn vị kiến thức, một bài học. + Người dạy có điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng và hướng dẫn người học sử dụng các đồ dùng dạy học, các thiết bị dạy học phục vụ cho bài giảng, giúp cho việc lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn hơn. Tóm lại, G.I.P.O là một mô hình biên soạn giáo trình, tài liệu và bài giảng có những nét khá mới mẻ, phù hợp với việc dạy học theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Tuy nhiên, việc vận dụng G.I.P.O cũng cần có sự linh hoạt, sáng tạo của cả người dạy và người học, để đích cuối cùng phải đạt được là thực sự đem lại lợi ích cho người học. Trên đây, bài viết đã trình bày một vài vấn đề nhằm góp thêm ý kiến Về đổi mới phương pháp dạy học ở các trường sư phạm trong xu thế hội nhập. Rất mong được trao đổi cùng các đồng nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bồi dưỡng giáo viên dạy ngôn ngữ thứ hai, Ellis, R. 1990, in Richards, J. and Nunan, D. eds; Cambridge University Press. 2. Văn học, Giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học hệ CĐSP, Cao Đức Tiến (Chủ biên), Dự án phát triển giáo viên Tiểu học, Bộ GD & ĐT, Hà Nội, 2005. 3. Học theo góc, theo hợp đồng và theo dự án, Tài liệu tập huấn cho cán bộ quản lí GD, giảng viên sư phạm,14 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, Dự án Việt - Bỉ, Hà Nội, 2008. 4. Một số mô hình thiết kế giáo án trong đổi mới phương pháp dạy học, PGS.TSKH. Cao Đức Tiến, in trong tập Giáo án soạn theo hướng tích cực hóa hoạt động người học, Tài liệu lưu hành nội bộ, Trung tâm NCGV, Trường ĐHSP Hà Nội, 2007 THIẾT KẾ QUY TRÌNH DẠY HỌC TRÊN LỚP THEO HƯỚNG BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN Tác giả:  ThS. Nguyễn Thị Kim Liên - Bộ môn Tâm lý-Giáo dục, Trường Đại học Quảng Nam I. Sự cần thiết phải bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên Bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên (SV) là điều rất quan trọng và cần thiết trong điều kiện hiện nay. Bởi vì, thời gian tự học là lúc mà SV có điều kiện nghiền ngẫm vấn đề học tập theo một yêu cầu, phong cách riêng và với tốc độ thích hợp. Điều đó không những giúp SV nắm vấn đề một cách chắc chắn và bền vững, bồi dưỡng phương pháp học tập và kỹ năng vận dụng tri thức, mà còn là dịp tốt để SV rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo là những điều mà không ai cung cấp được nếu như SV không thông qua hoạt động bản thân, là những phẩm chất cần thiết cho sự phát triển và thành đạt lâu dài của mỗi con người. Trong thời đại mà khoa học, kỹ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không đáp ứng được nhu cầu đa dạng và đang phát triển của cuộc sống. Vì vậy, chỉ có tự học, tự bồi dưỡng mỗi người mới có thể bù đắp được cho mình những lỗ hổng về kiến thức để thích ứng với yêu cầu cuộc sống đang phát triển. Như vậy, tự học là một trong những phẩm chất quan trọng nhất mà nhà trường cần phải trang bị cho học sinh nói chung, sinh viên nói riêng, vì nó có ích không chỉ khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi đã bước vào cuộc sống. Vậy, tự học là gì? Chúng ta có thể hiểu tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, và kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung và của chính bản thân người học. Có nhiều cách tự học khác nhau: tự học dưới sự hướng dẫn của thầy, tự học không có sự hướng dẫn của thầy, tự học trong cuộc sống. Như vậy, hình thức và đối tượng của tự học là hết sức phong phú và đa dạng. Trong bài viết này, sẽ đề cập đến vấn đề tự học dưới sự hướng dẫn của thầy ( theo hướng dạy học ở trên lớp ). II. Dạy trên lớp như thế nào để SV có thể tự học? Để có thể tự học không những SV cần nhận thức được tầm quan trọng của nó, biết được nội dung và quy trình tự học, mà thầy giáo cần thay đổi cách dạy, các giáo trình và điều kiện dạy học cũng phải có sự điều chỉnh thích hợp. Vậy, dạy học trên lớp cần phải được tổ chức thế nào để SV có thể tự học tốt là vấn đề đặt ra khi nghiên cứu đổi mới PPDH. Thực tế thông thường dạy học cho thấy người thầy phải trải qua ba bước: - Chuẩn bị giáo án (thiết kế bài học) - Dạy học trên lớp - Kiểm tra, đánh giá Để thiết kế quy trình thực hiện ba bước này theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho SV thì hoạt động của thầy giáo phải có một sự thay đổi cần thiết nào đó để việc dạy tự học cho các em mới đạt được yêu cầu nhất định. Chúng tôi có thể đưa ra một một quy trình thiết kế việc dạy học trên lớp và so với cách thiết kế bài giảng mà chúng ta vẫn hay làm để có thể giúp SV tự học tốt ở trên lớp như sau: 1. Chuẩn bị giáo án: 1.1. Xác định mục tiêu: + Về kiến thức: Nắm kiến thức cơ bản các phương pháp nhận thức, phương pháp tự học, tự bồi dưỡng; phát triển những năng lực nhận thức chú ý, ghi nhớ, quan sát, tưởng tượng, tư duy. + Về kỹ năng: Hình thành các kỹ năng, kỹ xảo học tập; kỹ năng vận dụng, giải quyết các nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn + Về thái độ: Cách nhìn nhận, tiêu chuẩn đánh giá sự vật, hiện tượng; phát triển cảm xúc, ý chí. Như vậy, để có thể để dạy SV tự học trên lớp mỗi giáo viên phải bổ sung thêm vào giáo án của mình bằng cách viết mục tiêu học tập, nghiên cứu. Khi xác định nhiệm vụ bài học thầy giáo không lấy trình độ chung của lớp làm căn cứ, mà phải hình dung những nhóm SV có trình độ khác nhau về kiến thức và tư duy. Cần tính toán độ khó của nhiệm vụ học tập sao cho thích hợp với trình độ của mỗi nhóm SV. Thầy giáo phải luôn chú ý đến mối quan hệ hợp lý giữa trang bị tri thức, kỹ năng, với dạy phương pháp tư duy, phương pháp tự học cho SV. 1.2. Xây dựng nội dung bài học Nét nổi bật dễ nhận thấy của bài học theo hướng tổ chức tự học cho SV là hoạt động của các em phải chiếm tỷ trọng cao so với hoạt động của giảng viên về mặt thời gian cũng như cường độ làm việc. Để có một tiết học như thế ở trên lớp, đòi hỏi giảng viên phải đầu tư rất nhiều về công sức và thời gian. Sau khi nghiên cứu kỹ nội dung bài học thầy giáo cần tiến hành những công việc sau đây: - Xác định những tư tưởng chính của bài học; xác định những tri thức chính và phụ gộp thành các đơn vị kiến thức; sắp xếp các đơn vị kiến thức đó theo một trình tự hợp lý; xây dựng mô hình cấu trúc nội dung. - Bổ sung nội dung kiến thức bằng những số liệu mới, các thông tin cập nhật, thông tin gắn liền với thực tế. - Xác định thời gian hợp lý tương ứng với nội dung và trình độ học sinh. 1.3. Lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học Khi thiết kế bài học thầy giáo cần lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học, cụ thể cần dựa vào: -  Mục đích, mục tiêu dạy học -  Nội dung bài học -  Đặc điểm trình độ học sinh -  Điều kiện làm việc cụ thể của thầy và trò -  Tính chất, đặc điểm của các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học. Đây là một giai đoạn vô cùng phức tạp, phụ thuộc rất lớn vào kinh nghiệm, kiến thức, tài năng và trực giác nhạy bén của người thầy như: - Chú ý tập trung chủ yếu vào các hoạt động tự học của các em: Đọc tài liệu, thảo luận, báo cáo các vấn đề đã chuẩn bị, giải quyết các tình huống nhận thức và thực tiễn. - Suy nghĩ một cách công phu để tạo ra tình huống có vấn đề nhằm kích thích tính tích cực nhận thức. - Chuẩn bị một hệ thống câu hỏi nhằm khơi dậy tư duy của các em. - Chuẩn bị một hệ thống bài tập và nhiệm vụ học tập nhằm tổ chức hoạt động tự học Tóm lại, để giúp các em tự học có hiệu quả khi thiết kế bài học cần có sự đổi mới, chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt động của thầy giáo sang thiết kế các hoạt động tự học của học sinh, tăng cường tổ chức các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm bằng các nhiệm vụ học tập cụ thể. Chúng ta có thể phân biệt cách thiết kế bài học mới nhằm giúp các em tự học trên lớp, với thiết kế bài học theo kiểu truyền thống ở những đặc điểm sau đây: TT Thiết kế bài học kiểu Truyền thống Thiết kế bài học nhằm giúp HS – SV tự học trên lớp 1 § Xác định mục tiêu dạy. § Chú trọng truyền đạt tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. § Xác định mục tiêu dạy + mục tiêu học § Chú trọng truyền đạt tri thức, kỹ năng, kỹ xảo + phát triển năng lực nhận thức, phẩm chất tư duy; rèn luyện kỹ năng, phương pháp thói quen tự học. 2 Tập trung xây dựng nội dung cho hoạt động dạy Tập trung xây dựng nội dung dạy + xây dựng nội dung học và cách hướng dẫn tự học. 3 Lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy. Lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy + cách tổ chức các hoạt động tự học. 2. Tổ chức dạy học trên lớp Tổ chức giờ dạy trên lớp theo hướng giúp SV tự học sẽ diễn ra như thế nào? 2.1. Mở đầu bài học, thầy giáo phải kích thích, động viên, tạo động lực học tập, sao cho sinh viên học tập với tinh thần tích cực, tự giác và hứng thú. Chẳng hạn như: + Thầy giáo tạo ra một tình huống có vấn đề, trong đó có mâu thuẫn nhận thức mà HS hứng thú, thỏa mãn nhu cầu và phù hợp với năng lực của họ. + Làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng về mặt khoa học và xã hội của hệ thống tri thức mà các em cần nắm vững. Nêu lên mục tiêu, nhiệm vụ học tập cụ thể mà các em có trách nhiệm phải hoàn thành. 2.2. Tổ chức hoạt động tự học trên lớp a) Để hoạt động tự học trên lớp có hiệu quả cần phối hợp chặt chẽ hoạt động của thầy và trò. Quy trình đó có thể tóm tắt như sau: Hoạt động của thầy Hoạt động của trò § Tạo tình huống để HS rõ vấn đề, thấy cần giải quyết. § Nghe, tiếp thu, chuyển mâu thuẫn bên ngoài thành mâu thuẫn bên trong, có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn. § Giao nhiệm vụ học tập (đặt câu hỏi, ra bài tập ) § Tiếp nhận nhiệm vụ học tập qua câu hỏi, bài tập . . . § Hướng dẫn HS hoạt động (đọc giáo trình, nghiên cứu tài liệu tham khảo, tổ chức thảo luận,) § Đọc giáo trình, tái hiện, suy nghĩ, sáng tạo, trả lời câu hỏi thảo luận. § Theo dõi sự tự học của các em, tổ chức nhóm thảo luận, đặt các câu hỏi bổ sung khi cần thiết. § Phát huy tính tính tích cực, sự nỗ lực sang tạo, trao đổi với bạn bè, hỏi thầy giáo để thảo luận để giải quyết các nhiệm vụ học tập. § Giải đáp câu hỏi § Nêu câu hỏi § Phân tích, bổ sung, khẳng định những điểm đúng, phê phán những thiếu sót, sai lầm § Sửa chữa, hoàn thiện, hệ thống hóa tri thức, kỹ năng. b) Vận dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học Trong quá trình chuẩn bị giáo án, giảng viên đã dự kiến các phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, giờ học. Trong thực tế, dạy học để giúp các em tự học tốt, theo tôi cần sử dụng tư duy các phương pháp sau đây: Phương pháp Nội dung hoạt động 1. Diễn giảng nêu vấn đề - Tạo ra tình huống có vấn đề. - Thầy và trò cùng giải quyết vấn đề bằng cách: Ĩ Đặt câu hỏi để các em suy nghĩ và trả lời. Ĩ Thuyết trình Ĩ Đặt vấn đề để các em trao đổi, thảo luận, tìm cách giải quyết vấn đề. 2. Tự đọc - HS đọc giáo trình, tài liệu - Viết tóm tắt, lập sơ đồ, biểu bảng 3. Thảo luận nhóm - HS chia thành nhiều nhóm nhỏ để thảo luận một vấn đề do giáo viên nêu lên. - Đại diện các nhóm trình bày trước lớp. - Thầy giáo tổng kết. 4. Phương pháp trực quan - Xem các phương tiện trực quan - Thảo luận - Thầy giáo tổng kết 5. Làm bài tập thực hành - Làm bài tập thực hành - Thảo luận, kết luận 6. Tổ chức cho HS thuyết trình, báo cáo - HS báo cáo một vấn đề đã được chuẩn bị trước. - Cả lớp nghe, trao đổi thảo luận - Thầy giáo tổng kết. 7. Xemina - Cả lớp chuẩn bị - Một hoặc hai em báo cáo. - Cả lớp thảo luận - Thầy giáo tổng kết Nhìn chung, trong thực tiễn dạy học, các phương pháp dạy học luôn được sử dụng trong dạng phối hợp nhau tùy theo nghệ thuật sư phạm của người thầy giáo. Mặt khác, các hình thức tổ chức dạy học, các dạng hoạt động cũng cần phải được phối hợp một cách hợp lý như: kết hợp hình thức bài trên lớp với hình thức học tập theo nhóm tại lớp; phối hợp dạng hoạt động chung có tính chất tập thể toàn lớp với hoạt động cá nhân và hoạt động tổ nhóm. Điều đó vừa phát huy tính tích cực, tự lực cá nhân, vừa giúp đỡ, phối hợp với nhau trong học tập, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của mỗi SV làm cho họ vui vẻ, hứng thú hơn. Trong điều kiện đó, thầy giáo sẽ có dịp theo sát các em hơn. 3. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập Trong quá trình dạy học kiểm tra, đánh giá luôn luôn có vai trò quan trọng, là một nhân tố cấu thành của quá trình dạy học; là một biện pháp thu thông tin phản hồi, từ đó điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp với mục tiêu, góp phần phát triển trí tuệ, rèn luyện, củng cố hệ thống tri thức và các phương pháp học tập, kích thích SV luôn vươn tới đạt kết quả cao trong học tập. Có thể nói, kiểm tra, đánh giá là một động lực, thúc đẩy quá trình đào tạo và tự đào tạo. Ngày nay, quan niệm hiện đại về dạy học là dạy cách học, nghĩa là dạy phương pháp luận, phương pháp nhận thức, phương pháp tự học. Do đó, việc kiểm tra, đánh giá không thể tiến hành như cũ. Đặc biệt hiện nay khi cách dạy đang chuyển từ truyền đạt tri thức sang hướng dẫn cách học thì việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV cũng tất yếu phải thay đổi theo hướng này. Theo chúng tôi, để bồi dưỡng năng lực tự học tự học cho SV, trong kiểm tra, đánh giá người thầy giáo cần sử dụng các hướng đánh giá theo các yêu cầu: - Sử dụng nhiều hình thức kiểm tra khác nhau. Ngoài việc kiểm tra định kỳ theo số đơn vị học trình của học phần thì nên kiểm tra thường xuyên vào đầu mỗi tiết học. Điều đó có tác dụng kích thích tính tích cực học tập của SV, tránh tình trạng hàng ngày SV lơ là với việc học hành, chỉ đến kỳ thi mới lao đầu vào học. - Cần đa dạng hóa các hình thức đánh giá như: Kiểm tra, thi, làm bài tập thực hành, viết thu hoạch, làm bài tập lớn, viết tiểu luận. . . - Đổi mới khâu chấm, chữa bài, đánh giá kết quả học tập. Xưa nay, đánh giá kết quả học tập là việc làm của thầy giáo, học sinh là đối tượng được đánh giá. Trong dạy học theo hướng tổ chức để giúp SV tự học, việc bồi dưỡng năng lực tự học cho SV được xem như một mục tiêu giáo dục, thì đồng thời với việc đánh giá của thầy cần bồi dưỡng cho trò khả năng tự kiểm tra đánh giá sản phẩm học tập của mình, đánh giá lẫn nhau, để điều chỉnh cách học sao cho có hiệu quả nhất. Có thể phân biệt cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học với kiểm tra, đánh giá kiểu dạy học truyền thống ở những đặc điểm sau đây: TT Kiểm tra, đánh giá kiểu truyền thống Kiểm tra, đánh giá theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học 1 Chú trọng kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Chú trọng kiểm tra năng lực độc lập, sáng tạo, năng lực tự học. 2 Đánh giá kết quả học tập theo các tiêu chí: kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Đánh giá kết quả học tập theo các tiêu chí: Độc lập, sáng tạo . . . 3 Thầy giữ vị trí độc tôn trong đánh giá. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của trò. III. Kết luận Nói tới phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập với nghiên cứu khoa học. Một yếu tố quan trọng bảo đảm thành công trong học tập và nghiên cứu khoa học là khả năng phát hiện đúng và giải quyết hợp lý những vấn đề đặt ra. Vì thế, nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào những tình huống mới thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người, phát huy nội lực làm cho kết quả học tập nhân lên gấp bội. Thiết kế quy trình dạy học trên lớp theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho SV là một công việc phức tạp và đòi hỏi yêu cầu cao đối với cả thầy lẫn trò. Điều này nếu thực hiện tốt sẽ đáp ứng được mục tiêu trong chương trình đào tạo tại nhà trường. Suốt quá trình dạy học dài lâu, chúng ta cần phải trang bị cho SV một hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ đối với việc tự học theo một kế hoạch khoa học và hệ thống, mới giúp SV tự học có kết quả khi còn ngồi trên ghế nhà trường, cũng như việc phát huy nó khi đã bước vào cuộc sống. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]     Trần Bá Hoành (2006), Vấn đề giáo viên - những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [2]     Thái Duy Tuyên (2008), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docquan_diem_day_hoc_lay_nguoi_hoc_lam_trung_tam_6358.doc