Phân tích kỹ thuật kinh doanh

Một khi đã có được tầm nhìn dài hạn 20 năm từ đồ thị tháng. Chúng ta tiếp đến xem xét đồ thị tuần để biết được xu hướng khoảng thời gian 5 năm gần đây. Sau đó chúng ta mới có thể nghiên cứu đến đồ thị ngày. Hay nói cách khác, thứ tự theo dõi đồ thị là nên bắt đầu từ cái nhìn tổng quát đáng tin cậy kế đến là những đồ thị có tầm nhìn ngắn hạn hơn. (Đối với những việc phân tích thị trường tỉ mỉ hơn, sau khi nghiên cứu đồ thị ngày, chúng ta tiếp đến phân tích kỹ lưỡng hơn với đồ thị trong ngày.)

doc128 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1942 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích kỹ thuật kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ta có thể thay đổi thành 10 phiên cho những nhà đầu cơ ngắn hạn và 50 phiên cho những nhà đầu tư dài hạn. Aroon Oscillator:  Đây là dạng biến thể của chỉ báo Aroon. Nó kết hợp giữa Aroon Up và Aroon Down thành một chỉ báo duy nhất. Aroon Oscillator đơn giản được tính toán bởi Aroon Up trừ đi Aroon Down.  Nếu giá trị Aroon Oscillator lớn hơn 50 thì thị trường đang trong xu hướng tăng mạnh. Nếu giá trị Aroon Oscillator nhỏ hơn -50 thì có nghĩ là thị trường đang trong xu hướng giảm rất thấp. Còn Aroon Oscillator có giá trị gần giá trị zero thì có nghĩa là thì trường đang chuyển giao hay không có xu hướng.  Khi giá trị Aroon Oscillator tăng lên trên 50 thì xu hướng của đường giá tăng lên mạnh sẽ chiếm ưu thế và tại đây có thể sẽ diễn ra sự đảo chiều của xu hướng. Khi Aroon Oscillator lanh quanh vị trí 0 trong khoảng thời gian thì xu hướng đó đang không được xác định rõ ràng.  Khi giá trị của Aroon Oscillator giảm từ 0 đến -50 thì đường giá có hướng di chuyển giảm và khi Aroon Oscillator có giá trị nhỏ hơn -50 thì có nghĩa là thị trường đang trong xu hướng giảm rất mạnh. Nếu sau đó Aroon Oscillator có giá trị bắt đầu tăng trên -50 và hướng về đường zero thì xu hướng giảm giá đã bắt đầu yếu và sự đảo chiều đang bắt đầu được hình thành. Nếu Aroon Oscillator tiếp tục tăng hơn đường zero thì hướng đi của đường giá đang chuyển từ không có xu hướng xác định thành bắt đầu hình thành xu hướng tăng  Chỉ báo Aroon và Aroon Oscillator là công cụ cực kỳ hữu ích , nó giúp cho nhà đầu tư đo lường sự xấu - tốt của các chỉ báo tiếp tục xu hướng (đường trung bình - Moving Averages); Khi Aroon Up hoặc Aroon Down có giá trị trên 70 là chỉ báo xu hướng mạnh và sẽ tiếp tục xu hướng đó. Ngược lại nếu dưới giá trị 30 thì chỉ báo xu hướng sắp tới sẽ có hướng đảo chiều.  Aroon và ADX đều biểu diễn sức mạnh của xu hướng. ADX không thể hiện được hướng di chuyển của đường giá trong khi đó chỉ báo Aroon tăng khi đường giá tăng và giảm khi đường giá giảm. Chỉ báo DMI và ADX Directional Movement Index (DMI) and Average Directional Movement Index (ADX) Directional Movement Index (DMI) DMI là 1 phần của chỉ báo ADX. DMI bao gồm 2 đường DI+ và DI-, hiểu một cách đơn giản là DI+ cho tín hiệu mua và DI- cho tín hiệu bán. Tín hiệu mua: Khi DI+ cắt và đi lên phía trên DI- Tín hiệu bán: Khi DI- cắt và đi xuống phía dưới DI+ Lưu Ý: Khi sử dụng sự giao cắt của DMI để nhận biết tín hiệu mua hoặc bán thì những tín hiệu này thường hay bị sai lệch. Để khắc phục chúng ta sẽ dùng chỉ báo ADX để xác nhận lại sự giao cắt của DMI. Chỉ báo ADX (Average Directional Movement Index) là một phần quan trọng không thể thiếu khi sử dụng chỉ báo DMI. Average Directional Movement Index (ADX) ADX là kỹ thuật chỉ báo thể hiện thị trường đang trong trạng thái có xu hướng hay không có xu hướng. Khi ADX đã xác nhạn có xu hướng thì kỹ thuật chỉ báo DMI sẽ chỉ ra những tín hiệu mua bán chắc chắn hơn. Một cách hiểu nào đó chúng ta có thể cho rằng mục đích chính của ADX là để xác định rõ xu hướng hiện tại của đường giá. Nếu xác định rõ được xu hướng thị trường sẽ giúp ích cho chúng ta rất lớn, vì nó sẽ chỉ dẫn và giúp cho nhà đầu tư sử dụng những kỹ thuật chỉ báo khác để phân tích. Khi thị trường đang có xu hướng (Trending Market): nhà đầu tư có thể sử dụng Moving Averages (MA), đường xu hướng (trendline) và một số các chỉ báo tiếp tục xu hướng khác. Khi thị trường đang không có xu hướng rõ ràng (sideways market) hay đang biến động trong một phạm vi giá nào đó (trading range market): các nhà đầu tư có thể sử dụng các chỉ báo như là Stochastic, RSI, hoặc Williams’%R và các báo range-bound khác như là Bollinger Bands hoặc Moving Average Envelope. ADX rất phổ biến vì nó xác định được trạng thái hiện tại của thị trường là có xu hướng hay không có xu hướng. Điều này giúp cho nhà đầu tư tránh xa những điểm yếu của các chỉ báo cũng như những cái bẫy (trap) của thị trường.     Moving Averages (MA): Đường trung bình MA và những biến thể của MA được sử dụng rất có hiệu quả với thị trường có xu hướng rõ ràng. Tuy nhiên trong giai đoạn thị trường đang co trạng thái củng cố xu hướng; có nghĩa là giá liên tục tăng giảm đan xen lẫn nhau thì đường MA có khuynh hướng cho ra nhiều tín hiệu mua và bán sẽ bị sai lệch.     Oscillators: là một chỉ báo vô cùng hiệu quả khi thị trường không có xu hướng rõ ràng. Mua khi Oscillator thấp và bán khi nó cao là khái niệm khá đầy đủ khi sử dụng Oscillator. Nhưng khi thị trường đang trong một xu hướng thì Oscillator biểu thị ít chính xác hơn; có nghĩa là thường xảy ra những tín hiệu bán khi thị trường đang tăng mạnh (bull market) hoặc cho những tín hiệu mua khi thị trường đang giảm giá mạnh (bear market). Điều đầu tiên và luôn luôn phải nhớ khi sử dụng ADX là chú ý hướng đi của đường giá. Khi ADX dao động tăng hay giảm không có nghĩa là xác định được hướng chuyển động tiếp theo của đường giá.     Một xu hướng tăng giá mạnh đồng nghĩa với ADX tăng liên tục.     Một xu hướng giảm giá mạnh đồng nghĩa với ADX tăng liên tục. Diễn giải ADX: Dưới 20: thị trường không có xu hướng. Tăng từ dưới lên trên 20: báo hiệu bắt đầu một xu hướng mới. Lúc này bắt đầu suy nghĩ đến việc mua hoặc bán trong xu hướng ngắn hạn hiện tại. Dao động giữa 20 – 40: Nếu ADX tăng theo hướng từ 20 lên 40; nó hàm ý xác nhận mạnh xu hướng mới đã hình thành trước đó và tiếp tục di chuyển theo hướng đã bắt đầu. Điều này có nghĩa là nhà đầu tư có thể sử dụng lệnh mua hoặc bán khống (short-sell) tuỳ theo hướng đi của xu hướng thị trường. Trong giai đoạn này, nhà đầu tư phải hạn chế sử dụng chỉ báo Oscillator và các chỉ báo tiếp tục xu hướng như là MA.     Trên 40: xu hướng hiện tại là rất mạnh.     Cắt lằn 50 theo hướng tăng: xu hướng cực kỳ mạnh. Cắt theo hướng tăng trên 70: Vô địch (power trend), điều này rất hiếm khi xảy ra. Chỉ báo MACD MACD là chỉ báo thị trường rất phổ biến khi sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật. Nó được cấu thành bởi 3 thành phần chính. Định nghĩa MACD 1.    Đường MACD:     EMA (12): Đường trung bình giá trong 12 phiên gần nhất. Trừ EMA (26): Đường trung bình giá trong 26 phiên gần nhất 2.    Đường tín hiệu MACD: là đường EMA (9) của đường MACD 3.    Đường biểu đồ MACD: là MACD trừ đi đường tín hiệu MACD Chỉ báo MACD là công cụ rất có hiệu quả và nhiều tác dụng. Có 3 cách chính khi sử dụng chỉ báo  MACD: -    Sự giao cắt của đường trung bình giá. -    Biểu đồ MACD -    Sự phân kỳ của MACD MACD và sự giao cắt của đường trung bình giá (MA) Phương pháp sử dụng đầu tiên này là sự nghiên cứu hiện tượng giao cắt của các đường trung bình giá. -    Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm trên đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với đường MACD cắt và nằm trên đường zero. -    Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm phía dưới đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với MACD cắt và nằm phía dưới đường zero. Tín hiệu mua: Tín hiệu mua xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường zero. Tín hiệu bán: Khi MACD cắt và nằm phía dưới đường zero thì tín hiệu bán xuất hiện Những tín hiệu cảnh báo này thường xuất hiện rất trễ. Nếu sử dụng sự giao cắt của đường tín hiệu và đường MACD thì tín hiệu mua bán sẽ xuất hiện sớm và nhanh hơn. Tín hiệu mua: Xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường tín hiệu của MACD. Tín hiệu bán: xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía dưới đường tín hiệu của MACD. MACD và sự giao cắt của các đường trung bình là một trong những cách sử dụng kỹ thuật chỉ báo MACD. Sử dụng biểu đồ MACD và sự phân kỳ của MACD là 2 phương pháp quan trọng để đưa ra những cảnh báo đảo chiều. Biểu đồ MACD Biểu đồ MACD là 1 dạng khá đơn giản, nó nói lên sự khác biệt giữa đường MACD và đường tín hiệu của MACD Có 2 điều quan trọng nằm trong biểu đồ MACD: -    Hội tụ: Biểu đồ MACD co rút lại, điều này mang ý nghĩa là có sự thay đổi hướng đi của đường giá đang chậm lại. Đường MACD có khuynh hướng tiến gần với đường tín hiệu của MACD. -    Phân kỳ: Biểu đồ MACD giãn ra hoặc là tăng độ cao(không kể chiều âm hay dương), điều này mang ý nghĩa làm cho hướng đi của xu hướng giá tăng lên nhanh và chắc chắn. Khi đường giá di chuyển theo xu hướng giá một cách mạnh mẽ thì biểu đồ MACD sẽ tăng độ cao. Khi biểu đồ MACD không tăng độ cao nữa hoặc nó bắt đầu co rút lại thì thị trường lúc đó có khuynh hướng suy giảm nhẹ và cảnh báo có nhiều khả năng đường giá sẽ có đảo chiều trong thời gian sắp tới. Tín hiệu mua: Khi biểu đồ MACD nằm dưới đường zero và bắt đầu hội tụ về hướng đường zero. Tín hiệu bán: Khi biểu đồ MACD nằm trên đường zero và bắt đầu hội tụ về hướng đường zero. Lưu ý: Biểu đồ MACD không chỉ cho ra các tín hiệu mua bán khá chắc chắn mà còn được sử dụng cho việc cảnh báo khả năng thay đổi hướng đi của đường giá. Sự Phân Kỳ của MACD Đường trung bình - Moving Average (MA) MA là chỉ báo được dùng thường xuyên trong phân tích kỹ thuật. MA hiển thị giá trị trung bình của giá chứng khoán trên số phiên giao dịch được xét. MA được sử dụng để đo lường đà tăng giá hoặc giảm giá hay cũng có thể dùng để định nghĩa những vùng hỗ trợ hay kháng cự thích hợp và hợp lý với tình hình hiện tại. Đường trung bình MA có các kiểu phổ biến sau: 1.    Đường trung bình đơn giản - Simple Moving Average (SMA). 2.    Đường trung bình theo số mũ - Exponential Moving Average (EMA). 3.    Đường trung bình theo trọng lực - Weighted Moving Average (WMA). 4.    Đường trung bình ba bên TMA - Triangular Moving Average (TMA) Đường trung bình đơn giản (SMA) SMA được xem là công cụ phân tích kỹ thuật phổ biến và được nhiều người tin dùng nhất. SMA được sử dụng phần lớn vào việc nhận biết hướng đi của xu hướng đường giá. Nhưng đôi khi cũng được sử dụng để phát hiện những tín hiệu mua và bán. SMA là giá trị trung bình mang tính chất thống kê. Ví dụ sau mô tả giá trị SMA: Giả sử rằng giá trị 5 ngày giao dịch gần nhất lần lượt là 27,26,26,28,25. Giá trị của SMA(5) = (27+26+26+28+25)/5 = 26.4, giá trị SMA thấp hơn giá đóng cửa gần nhất là 27. Vì thế SMA đ1ng vai trò là mức giá hỗ trợ cho đường giá.   Đường trung bình SMA đóng vai trò như đường hỗ trợ - Tín hiệu mua: Khi đường giá đang có xu hướng tăng giá và vẫn tồn tại xu hướng này thì đường SMA cũng sẽ có khuynh hướng tăng. Đường giá cũng đã đôi lần thử thách sự gia tăng của SMA, sau khi có không ít lần đường giá đã chạm vào đường SMA và bật lên (SMA đóng vai trò như là đường hỗ trợ động). Sau khi mua tại điểm va chạm trên thì đường giá lại tăng giá trở lại. Khi đường giá đang có xu hướ Đường trung bình SMA đóng vai trò như đường kháng cự - Tín hiệu bán: Tại những lúc đường giá có xu hướng giảm giá thì SMA cũng có khuynh hướng giảm. Đường giá sẽ thử thách đường SMA, khi đã nhiều lần vượt lên trên đường SMA nhưng đều thất bại (SMA đóng vai trò như là đường kháng cự động). Sau khi bán tại các điểm trên thì đường giá lại có những phiên điều chỉnh giảm. Ví dụ trên chỉ sử dụng 1 đường SMA. Các nhà đầu tư nhiều kinh nghiệm thường sử dụng hỗn hợp 2 hoặc 3 đường trung bình để xác định thời điểm mua bán hay để xác nhận xu hướng giá hiện tại. Sự giao cắt của các đường trung bình Sự giao cắt của các đường trung bình là cách sử dụng rất phổ biến của hầu hết các nhà đầu tư. Sự giao cắt xảy ra khi 1 đường trung bình nhanh hơn (là đường trung bình sử dụng ít phiên giao dịch hơn) giao cắt và nằm trên đường trung bình chậm hơn (là đường trung bình sử dụng nhiều phiên giao dịch hơn), sự giao cắt này được coi là sự giao cắt làm tăng giá (thuận lợi). Ngược lại, nếu cắt và nằm dưới thì được xem là sự giao cắt làm giảm giá (bất lợi). SMA(200) có khuynh hướng tăng biểu thị xu hướng dài hạn tăng giá là khá mạnh. Tín hiệu mua được xác nhận khi đường trung bình ngắn hạn SMA(50) cắt và nằm trên đường trung bình dài hạn SMA(200). Và tín hiệu bán xuất hiện khi đường SMA(50) cắt và nằm dưới đường SMA(200) Rất nhiều nhà đầu tư muốn có thêm 1 tín hiệu nữa để xác nhận sự chắc chắn khi sử dụng sự giao cắt giữa 2 đường trung bình. Vì thế kỹ thuật sử dụng sự giao cắt giữa 3 đường trung bình được ra đời để thoả mãn yêu cầu trên. Phương pháp 3 đường SMA được trình bày như sau: 1.    Đầu tiên là sự giao cắt của đường SMA nhanh nhất (theo ví dụ hình trên là đường SMA 10 phiên) với đường SMA nhanh hơn (đường SMA 20 phiên), tín hiệu này là cảnh báo đường giá có thể xảy ra sự đảo chiều của xu hướng giá. Tuy nhiên, những tín hiệu mua bán tại đây không thích hợp. 2.    Bước kế tiếp là sự giao cắt của đường SMA(10) với đường trung bình chậm nhất SMA(50). Tại đây tín hiệu mua bán sẽ chắc chắn hơn. Có nhiều biến thể cũng như nhiều chiến lược kinh doanh dựa trên sự giao cắt của 3 đường SMA, sau đây là một vài nét chính chủ yếu của chiến lược này: Nếu theo trường phái thận trọng thì nhà đầu tư có thể chờ đến khi đường SMA(20) cắt và nằm trên đường SMA(50); thật ra đây là kỹ thuật cơ bản khi sử dụng sự giao cắt của 2 đường SMA chứ không phải là kỹ thuật 3 đường SMA. Một kỹ thuật khác khá được nhiều nhà đầu tư áp dụng là họ có thể mua ½ tiền khi SMA(10) cắt và nằm trên đường SMA(20), và sau đó họ sẽ mua ½ số tiền còn lại khi SMA(20) cắt và nằm trên đường SMA(50). Ngoài ra cũng có thể kinh doanh theo chiến lược sau: Nhà đầu tư mua hoặc bán 1/3 số tiền khi SMA(10) cắt SMA(20) và tiếp tục mua hoặc bán khi SMA(10) cắt SMA(50). Và cuối cùng mua hoặc bán 1/3 số tiền còn lại khi SMA(20) cắt SMA(50). Một kỹ thuật phức tạp hơn là sử dụng sự giao cắt giữa các đường trung bình với nhau là một hệ thống gồm 8 đường trung bình theo số mũ (EMA) và được gọi với cái tên là chỉ báo dải ruy-băng (Moving Average Exponential Ribbon) của đường trung bình mũ (sẽ được giới thiệu sau). Sự giao cắt của đường MA là công cụ khá quan trọng, kỹ thuật sử dụng này rất phổ biến và là nền tảng để xây dựng nên chỉ báo Moving Average Convergence Divergence (MACD). Đường trung bình theo số mũ (EMA) EMA có tác dụng để đo sức nặng giá hiện hành xem coi có nặng hơn giá trong quá khứ hay không? EMA có thể đánh giá nhanh sự dao động giá hơn là đường SMA. Chính vì thế nó cũng có nhiều điểm bất lợi hơn bởi vì EMA có độ dốc hơn đường SMA (cho nhiều tín hiệu sai). EMA được sử dụng để xác nhận sự đảo chiều của đường giá ở những nơi mà SMA cho những tín hiệu chưa chắc chắn hoặc trễ. EMA được nhiều nhà đầu tư sử dụng hơn là đường SMA. Bởi vì mỗi 1 nhà đầu tư đều có những lý lẽ tán thành hay phản đối những quyết định lựa chọn cách sử dụng đường trung bình. Những tín hiệu mua bán tương tự như đường SMA Đường trung bình theo trọng lượng (WMA) WMA khá quan trọng trong việc nhận biết sự vận động của đường giá ở thời điểm mới nhất. Vì thế WMA có tách dụng hiển thị sự biến động giá rõ nét hơn là đường SMA. Ví dụ sau đây cho thấy sự khác biệt: Giá 3 phiên gần nhất lần lượt là: 36,29,31      WMA(3) = (36x3 + 29x2 + 31x1)/6 = 32.8      SMA(3) = (36 + 29 + 31)/3 = 32 Điều đáng chú ý ở đây là khi có sự chênh lệnh giá giữa các phiên là lớn thì dùng WMA hiệu quả hơn đường SMA. Những tín hiệu mua bán tương tự như SMA Đường trung bình theo 3 bên (TMA) TMA cũng giống như đường SMA nhưng được làm cho mượt mà hơn, uyển chuyển hơn. Thông thường thì đường SMA cũng đã khá mượt nhưng TMA sẽ làm cho nó uyển chuyển giống như cơn sóng vậy. Những tín hiệu mua bán tương tự như SMA Chỉ báo Parabolic SAR Parabolic SAR là chỉ báo kết hợp giữa giá và thời gian để hình thành những tín hiệu mua – bán trên thị trường. Parabolic SAR cũng là công cụ hiệu quả để xác định vùng đặt điểm “dừng lỗ” (stop loss). Tín hiệu mua: Mua khi giá đóng cửa nằm trên đường Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR phải cao hơn đường giá. Có nghĩa là khi đường Parabolic SAR thay đổi từ giá trị cao chuyển sang giá trị thấp thì nhà đầu tư nên “dừng lại”; thực hiện mua rải hay bán khống để chờ tín hiệu đảo chiều xu hướng mạnh xảy ra hoặc có thể mua để đầu tư dài hạn. Tín hiệu bán: Tín hiệu bán xuất hiện khi giá đóng cửa nằm dưới Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR thấp hơn đường giá. Ngay tại thời điểm này đường Parabolic SAR thay đổi từ mức thấp hơn đường giá lên mức cao hơn đường giá. Các nhà đầu tư nên “dừng lại”, cũng có thể bán để thoát khỏi xu hướng dài hạn hiện hành và chờ sự đảo chiều trong ngắn hạn. Đặt điểm “dừng lỗ” Hiệu quả lớn nhất khi dùng Parabolic SAR để xác định vùng đặt điểm dừng lỗ là nhằm bảo vệ lợi nhuận hoặc giảm thiểu thua lỗ trong việc kinh doanh chứng khoán. Parabolic SAR là công cụ xác định vùng đặt điểm dừng lỗ hiệu quả, được diễn tả theo 2 lập luận sau: Đặt điểm dừng lỗ thấp hơn giá của nhà đầu tư dài hạn mua vào hoặc trên mức giá của nhà đầu tư ngắn hạn chấp nhận mua. Sử dụng Parabolic SAR như là một công cụ điều chỉnh điểm dừng lỗ, điểm dừng lỗ sẽ từ từ tiến lên theo xu hướng dài hạn và thấp hơn xu hướng ngắn hạn. Nhưng hiệu quả nhất thì nhà đầu tư nên chốt lại mức lợi nhuận kỳ vọng của mình. Parabolic SAR hành động như là khoảng dừng về mặt thời gian (thời điểm dừng). Thời điểm dừng được sử dụng tùy vào từng nhà đầu tư. Nếu sự mong đợi của nhà đầu tư đó không xảy ra thì lý trí của nhà đầu tư đó bắt đầu bị buông lỏng một cách tư nhiên, tức là kỷ luật kinh doanh, mua-bán bị vi phạm. Khi đó, nhà đầu tư nên phải thoát khỏi thị trường. Tương tự như vậy, Parabolic SAR đã kết hợp với thời gian để làm cho đường giá hoạt động theo sự tính toán của nhà đầu tư. Nếu đường giá không di chuyển theo hướng đã tính toán trước thì Parabolic SAR sẽ là tín hiệu để xác định thời điểm thoát khỏi thị trường. Chỉ báo nào là tốt nhất trong phân tích kỹ thuật? Nhà đầu tư thường tìm kiếm những cuốn sách viết về những chỉ báo (indicators) được cho là tiên đoán chính xác của thị trường và lấy đó làm bài học để lưu ý hay nhắc nhở mình. Khi bạn đã nghiên cứu tất cả các chỉ báo của thị trường thì nó không còn là những khái niệm cơ bản của riêng mỗi chỉ báo đó; đây là luận điểm quan trọng trong bài viết này. Nếu bạn bỏ ra quá nhiều thời gian và sự chú ý của mình về các chi tiết rắc rối của một vài chỉ báo thì bạn sẽ mất đi cái nhìn hay những tín hiệu của tổng thể bức tranh thị trường. chỉ có một vài chỉ báo có thể giúp chúng ta thấy được thị trường muốn nói gì. Không một chỉ báo nào có đủ ma lực nhất trong việc dự báo tương lai xa của thị trường. Chỉ báo thị trường cũng chỉ là những công cụ giúp chúng ta nhận biết sự khác nhau của từng thời điểm và những biến cố trong từng giai đoạn khác nhau của thị trường. Theo kinh nghiệm của tôi thì không có chỉ báo nào là tốt nhất cả. Bạn cũng khỏi tìm chi cho mệt nhưng cũng không nên xem thường nó. Vì đôi lúc có một vài chỉ báo sẽ là một trong những công cụ hữu hiệu để cảnh báo cho chúng ta biết những gì có thể diễn ra ở tương lai. Nên nhớ rằng thị trường có thể xảy ra hay là không với những dự đoán của mình. Sự điên cuồng của thị trường là tập hợp của vô số sự điên cuồng của những nhà đầu điên cuồng, và không một ai có thể đo được sự điên cuồng của một con người. Do đó chúng ta cần tìm kiếm một sự tinh tế nằm trong những cảnh báo của các chỉ báo, chúng ta thường lôi kéo các chỉ báo theo hướng suy nghĩ của chúng ta và hay khuyếch đại sự tinh tế không quan trọng của những chỉ báo. Chúng ta chỉ nên cố gắng cân đối chúng lại để tìm câu trả lời hiệu quả nhất. Tuy nhiên tại một số thời điểm của thị trường mà không thể tiên đoán được thì cũng không nên dùng những cách trên. Hãy cẩn thận, có khi tại những thời điểm này là những cái bẫy lớn của thị trường, tốt nhất lúc đó ta quay lại câu nói mà các nhà phân tích kỹ thuật thường hay dùng: "Tôi không biết". Sau đó, chúng ta cần đợi thêm một thời gian và theo dõi thị trường thì sẽ xác định lại tình hình một cách chính xác hơn. Tín hiệu nào là tín hiệu mạnh của chỉ báo thị trường? Kỹ thuật chỉ báo thị trường là kỹ thuật phân tích sự chuyển động giá chứng khoán hiện đại. Các chỉ báo là các công thức toán học khá phức tạp nhưng chúng lại cho kết quả khá tốt. Việc sử dụng các chỉ báo này tại từng thời điểm là cả nghệ thuật của nhà phân tích chứng khoán theo trường phái phân tích kỹ thuật. "Tín hiệu nào là tín hiệu mạnh của thị trường?" Câu hỏi nan giải cho các nhà phân tích kỹ thuật, về tổng quan thì ta có 2 trường phái đối lập nhau: tiên đoán và xác nhận. Phần lớn các chỉ báo của 2 loại trên đều đối lập với nhau vì chúng được sử dụng với mục đích và mục tiêu khác nhau. Khi giá giảm thì hầu hết các chỉ báo về xu hướng đều cho kết quả bất lợi nhưng khi đường giá tiếp tục đi xuống mạnh (giảm thẳng đứng) thì các chỉ báo tiên đoán sẽ chỉ ra đây là thời kỳ cuối của sự suy giảm và đường giá sẽ tăng trở lại. Khi giá rớt nhanh để tạo lập đáy thì phần lớn các chỉ báo về xu hướng có chiều hướng suy giảm điều này làm nhà đầu tư rất bực mình (bearish), và nếu thị trường tiếp tục xuống giá thì sự bực mình này sẽ tiến đến cực độ. Tại đây tín hiệu mua thường xuất hiện, điều này trái ngược với xu hướng hiện tại theo đa số quan điểm của các nhà đầu tư. Khi chỉ báo tiên đoán trái ngược với những đánh giá của các nhà đầu tư một cách mạnh mẽ thì nó đang ngụ ý rằng đường giá sẽ tăng trở lại và chỉ báo xu hướng cũng sẽ bắt đầu xác nhận xu hướng tăng nhẹ, đây là những tín hiệu mua rất mạnh. Khi giá bắt đầu tăng lên trở lại thì phần lớn các nhà đầu tư đều bắt đầu mua và nỗi bực bình cũng bắt đầu dần dần biến mất, nếu giá cứ tiếp tục tăng thì những nhà đầu tư này càng vui vẻ hơn (bullish), các dấu hiệu bực mình (bearish) hầu như không tồn tại nữa, đây là tín hiệu tăng giá mạnh mẽ của thị trường. Ngay tại thời điểm lúc bắt đầu tăng giá trở lại thì phần lớn các nhà đầu tư không tin vào sự tăng giá đó là chắc chắn và khi giá tiếp tục tăng thì họ mới thật sự tin vào điều đã xảy ra trước đó. Đây là sự hoài nghi mà đôi lúc chúng ta cũng cần phải gạt bỏ đi. Khi cả 2 cùng xác nhận một xu hướng thì xu hướng đó có cường độ và sự chắc chắn đều rất mạnh. Nếu có sự trái ngược cực độ giữa chỉ báo tiên đoán với những đánh giá của chỉ báo xác nhận xu hướng thì nó báo hiệu rằng sự đảo chiều sắp xảy ra. Lưu ý rằng các chỉ báo tiếp tục xu hướng mà xác nhận xu hướng giảm giá thì đây không phải là tín hiệu bán quan trọng, tương tự cho tín hiệu mua. Tỷ lệ vàng của dãy số Fibonacci Dãy số nổi tiếng của Fibonacci đã được ứng dụng phổ biến trong việc kinh doanh tài chính. Fibonacci là công cụ sử dụng những tỷ lệ đặc biệt xảy ra trong tự nhiên để giúp chúng ta dự báo hay đoán trước được các điểm hỗ trợ hay kháng cự. Áp dụng Fibonacci Retracements vào đồ thị VNIndex; đây là công cụ hiệu quả nhất. Chỉ số VNIndex đã tăng giá trở lại ở tỷ lệ 38.2% của đợt tăng từ 235 đến 347 điểm. Và hiện tại, một lần nữa VNIndex đang đứng trước ngưỡng tỷ lệ Fibonacci 38.2% của đợt tăng từ 235 đến 525 điểm. Liệu rằng lịch sử có lặp lại hay không? Ngày càng nhiều nhà đầu tư tin rằng tỷ lệ Fibonacci có thể áp dụng vào thị trường tài chính. Điều này có ý nghĩa luật cung cầu của thị trường trong thực tế đã tương đồng với tỷ lệ Fibonacci. Đây là điều quan trọng vì lẽ tất cả các thị trường đều vận động theo luật cung cầu. Tại sao phân tích kỹ thuật lại quan trọng như thế? Những thành công trong thị trường tài chính góp phần gia tăng nhu cầu làm chủ công cụ phân tích đồ thị. Việc cân nhắc trước những quyết định là điều cơ bản trên thị trường. Khó có thể có một thị trường cho cả nhà đầu tư dài hạn lẫn ngắn hạn cùng tham gia đều có sự hiệu quả, điều mà mọi người quan tâm trước tiên vẫn là đường giá tương lai sẽ xảy ra như thế nào? Bước kế tiếp khá quan trọng đó là xây dựng một quy trình để đưa ra những quyết định. Bạn có thể làm tốt công việc dự đoán tương lai thông qua phân tích thị trường hiện tại, điều đó có nghĩa là bạn đã nắm vững được 2 phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản là cơ sở để nghiên cứu hệ số cung cầu của thị trường khi đường giá có biến động tăng hoặc giảm. Trong thị trường tài chính, thường có trào lưu đi tìm những công ty có lợi nhuận kinh doanh cao, công ty thiếu vốn tài trợ đầu tư hay có những thay đổi lớn trong nguồn vốn. Mục đích của phương pháp này là hướng đến sự đánh giá, ước lượng giá trị thực của thị trường qua việc đo lường sức mua của nhà đầu tư nếu thị trường đang thấp hơn giá trị thực. Phân tích kỹ thuật hay phân tích đồ thị, đây là sự tương phản, về cơ bản nó nghiên cứu sự chuyển động của thị trường. Trong khi phân tích cơ bản nghiên cứu lý do hoặc nguyên nhân vì sao đường giá tăng hay giảm, phân tích kỹ thuật nghiên cứu những tác động và hiệu quả của sự vận động giá, hướng đi của đường giá. Phân tích đồ thị cực kỳ hữu ích trong việc dự đoán giá tương lai, đồ thị được sử dụng mà không cần dữ liệu cơ bản đầu vào hay kết hợp với thông tin cơ bản. Giá tương lai của thị trường sẽ như thế nào? Đó là bước đầu tiên để hình thành quy trình ra quyết định của mình. Thời điểm thích hợp của thị trường: Vấn đề thứ 2, thời điểm thị trường thường rất khó. Đối với nhà đầu cơ ngắn hạn, sự di chuyển của đường giá có thể gây ấn tượng và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Vì thế, thời điểm chính xác để vào ra là tuyệt đối cần thiết ở khiá cạnh nào đó của thị trường. Nói 1 cách thẳng thắn thì thời điểm thích hợp là tất cả đối với thị trường chứng khoán. Bất cứ một lý do nào rồi cũng sẽ được rõ ràng, thời điểm hầu như chỉ là 1 kỹ thuật bình thường. Nó có thể được ứng dụng vào nguyên lý đồ thị giá để trở thành yếu tố cần thiết tuyệt đối trong quy trình ra quyết định. Nó chỉ có giá trị khi bạn tìm kiếm một phương pháp đồ thị riêng và thích hợp với bản thân. Phân tích đồ thị là cái gì? Phân tính đồ thị (hay còn gọi là phân tích kỹ thuật) là nghiên cứu những hành động của thị trường, sử dụng đồ thị giá để dự đoán hướng di chuyển của đường giá trong tương lai. Nền tảng triết lý của phân tích kỹ thuật là lòng tin vào tất cả những yếu tố ảnh hưởng đến đường giá của thị trường: những thông tin cơ bản, những biến cố chính trị, những thảm hoạ thiên nhiên, những yếu tố tâm lý… đã nhanh chóng làm giảm bớt sự hoạt động tích cực của thị trường. Hiểu theo một nghĩa khác, đó là những tác động từ yếu tố bên ngoài sẽ nhanh chóng thể hiện lên một vài dạng của đường chuyển động giá; hoặc tăng hoặc giảm. Chính vì thế, phân tích đồ thị chỉ đơn giản là con đường tắt của dạng phân tích cơ bản. Chú ý quan điểm sau: sự tăng giá phản ánh sự gia tăng lợi nhuận về mặt cơ bản, đó là lúc sức cầu trội hơn sức cung. Khi đường giá rơi có nghĩa là lực cung đang vượt trội lực cầu, đồng nghĩa với trạng thái thị trường đang suy giảm về mặt cơ bản. Những thay đổi này là cơ sở cho sự thay đổi của đường giá và được xác nhận rõ ràng trên đồ thị giá. Nhà phân tích kỹ thuật có thể nhanh chóng đạt lợi nhuận khi đường giá có sự thay đổi, điều này có nghĩa là nhà phân tích kỹ thuật đã đơn giản hoá những lý do, nguyên nhân vì sao đường giá tăng hay giảm. Sự thuận lợi khác của phân tích đồ thị là đường giá chịu ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu về kinh tế cơ bản. Vì thế, những hành động của đồ thị giá có thể sẽ là công cụ để cảnh báo cho những nhà phân tích cơ bản về thực tế những sự kiện quan trọng đang xảy ra khi phân tích sự chuyển động của đường giá. Đồ thị tiết lộ xu hướng giá: Thị trường luôn hoạt động trong một xu hướng giá. Giá trị lớn nhất của đồ thị giá là chúng bộc lộ sự tồn tại xu hướng của thị trường và tạo ra những điều kiện rất thuận tiện để nghiên cứu xu hướng này. Hầu hết những kỹ thuật mà nhà phân tích kỹ thuật sử dụng đều có mục đích để nhận biết những tính chất của xu hướng giá và hỗ trợ cho việc đo lường những phạm vi mà xu hướng này có khả năng xảy ra, và cũng để nhận biết sớm những khả năng thay đổi hướng di chuyển của đường giá. Những kiểu đồ thị có giá trị: Những kiểu đồ thị thông thường được sử dụng trong phân tích kỹ thuật là đồ thị ngày dạng thanh (xem hình 2-1), mỗi thanh tượng trưng cho một ngày giao dịch. Đồ thị nến Nhật đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây (xem hình 2-2), đồ thị nến sử dụng gần giống như đồ thị dạng thanh nhưng nó cụ thể hơn về những diễn biến giao dịch trong ngày. Đồ thị đường thẳng cũng được dùng (xem hình 2-3), đồ thị đường thẳng đơn giản là đường kết nối liên tục những giá đóng cửa và nó là dạng đơn giản nhất của đồ thị. Độ lớn của thời gian: Tất cả những kiểu đồ thị đều có thể sử dụng cho mọi khung thời gian. Đồ thị ngày được sử dụng rất phổ biến, nó được dùng để nghiên cứu xu hướng giá trong năm. Trong phạm vi phân tích xu hướng dài hạn, cỡ từ 5 đến 10 năm thì nên sử dụng đồ thị tuần hoặc tháng. Với mục đích ngắn hạn (kinh doanh trong ngày) thì đồ thị trong ngày rất hữu ích (đồ thị trong ngày có thể được vẽ với khung thời gian rất ngắn như là: 1 phút, 5 phút hoặc 15 phút…). Đường hỗ trợ và kháng cự. Đường và kênh xu hướng. Có 2 thời kỳ gây ra sự quan tâm lớn đối với nhà đầu tư, chúng được xác định là đỉnh và đáy trên đồ thị giá. Đáy thường xuất hiện ở vùng hỗ trợ giá; vùng hỗ trợ là vùng giá mà thị trường tại đó xảy ra áp lực mua trội hơn áp lực bán và sự suy sụt đã tạm dừng lại. Vùng kháng cự của thị trường thường xảy ra ở vùng đỉnh; vùng kháng cự là vùng giá mà thị trường khi đó xảy ra áp lực bán vượt trội áp lực mua và sự hồi phục tạm thời dừng lại. (xem hình 4-1) Vùng hỗ trợ và kháng cự có vai trò đảo ngược lẫn nhau mỗi khi chúng bị đường giá phá vỡ. Cụ thể là, khi vùng hỗ trợ thị trường bị đường giá xuyên qua theo đà giảm hay còn gọi là vùng hỗ trợ bị đường giá bẻ gãy thì chúng sẽ trở thành vùng kháng cự trên của thị trường. Những vùng hỗ trợ hoặc kháng cự mới được thành lập sẽ có nhiều uy lực hơn và chúng được xác định khi thị trường có dao động. Đó là bởi vì có rất nhiều nhà đầu tư đã phục sẵn để cứu giá tại vùng hỗ trợ và thanh toán tại vùng kháng cự. Những điều này luôn ảnh hưởng trực tiếp đến những quyết định trong kế hoạch kinh doanh. (xem hình 4-2) Đường xu hướng có lẽ là 1 công cụ hiệu quả đơn giản nhất đối với nhà đầu tư phân tích kỹ thuật. Đường xu hướng tăng là 1 đường thẳng được kẻ theo hướng lên sang phải và được nối từ các đáy của thị trường tăng. Đường thẳng được kẻ ra để phần lớn những hành động giá chỉ hoạt động bên trên đường xu hướng. Đường xu hướng giảm được sẽ theo hướng xuống sang phải và được nối từ những đỉnh cao nhất của thị trường giảm. Đường thẳng này được kẻ ra để tất cả những hành động giá đều hoạt động phía bên dưới đường xu hướng. Một ví dụ về đường xu hướng tăng, nó được vẽ khi có ít nhất 2 vùng lõm (đáy) rõ ràng. Tuy nhiên, với 2 điểm thấp nhất trong xu hướng tăng cũng vẽ được đường xu hướng, để nhận biết đường xu hướng có giá trị cần thiết phải có 3 điểm, điều đó đồng nghĩa là nếu đường giá trong xu hướng tăng bị dìm xuống đường xu hướng 3 lần và bật lên tại đó thì đấy là sự xác nhận có giá trị của đường xu hướng tăng. (hình 4-3) Đường xu hướng có 2 cách sử dụng cơ bản. Chúng có thể được dung để nhận biết vùng hỗ trợ và kháng cự. Khi thị trường đang trong 1 xu hướng thì chúng dung để nhận dạng vị trí sự khởi đầu mới của 1 chu kỳ. Theo nguyên tắc, 1 đường xu hướng dài thì rất có tác dụng và cũng có nhiều lần để kiểm định sự tồn tại vững chắc của nó. Vì thế những xâm phạm của đường giá vào đường xu hướng thường là những cảnh báo tốt nhất hàm ý sẽ có sự thay đổi xu hướng giá trong tương lai. Kênh xu hướng là những đường thẳng được vẽ song song với đường xu hướng cơ bản. Kênh xu hướng tăng được vẽ trên những hành động giá và song song với đường xu hướng tăng cơ bản (nằm dưới những hành động giá). Kênh xu hướng giảm được vẽ dưới những hành động giá và song song với đường xu hướng giảm cơ bản (nằm trên những hành động giá), thị trường thường nằm bên trong kênh xu hướng này. Chính vì điều này mà những nhà phân tích kỹ thuật thường vận dụng những kiểu thức ấy để xác định đâu là vùng hỗ trợ và kháng cự trên đồ thị giá nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả. (Xem hình 4-4). Những mẫu đồ thị đảo chiều và tiếp tục xu hướng. Một trong những đặc điểm hữu ích của việc phân tích đồ thị là việc phân tích những mô hình giá. Mô hình giá được chia ra thành nhiều phân loại. Mô hình giá thể hiện giá trị mà ta có thể dự đoán được. Những mô hình giá tiết lộ về cuộc chiến giữa lực cung và lực cầu. Cuộc chiến này được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa những mức hỗ trợ và kháng cự khác nhau. Mô hình giá cho phép người đọc đồ thị biết được trong cuộc chiến đó lực cung hay lực cầu đang chiến thắng. Mô hình giá được chia thành 2 nhóm – những mô hình đảo chiều và những mô hình tiếp tục. Những mô hình đảo chiều thường cho thấy một sự đảo ngược xu hướng đang diễn ra. Những mô hình tiếp tục thường là mô hình cho thấy sự tạm thời chấm dứt xu hướng hiện tại. Việc hình thành mô hình tiếp tục thường tốn ít thời gian hơn việc hình thành mô hình đảo chiều. Mô hình tiếp tục được hiểu là: sau một thời gian tạm thời chấm dứt xu hướng cũ thí nó sẽ tiếp tục quay về lại xu hướng ban đầu đó. Những mô hình đảo chiều + Mô hình đầu vai Mô hình đầu vai rất phổ biến và có thể nói là mô hình đảo chiều đáng tin cậy nhất. Đầu và hai vai là 3 chóp nổi lên rõ nét. Chóp ở giữa hay còn gọi là đầu sẽ nhô cao hơn hai chóp hai bên (hai vai). Đường xu thế hay còn gọi là đường cổ (neckline) được vẽ bên dưới hai mức thấp nằm giữa đầu và vai. Điểm kết thúc bên dưới đường cổ là dấu hiệu quan trọng để nhận biết sự đảo chiều của thị trường. (Xem Figure 5-1) Mục tiêu giá được xác định bằng cách đo hình dạng của các mô hình giá khác nhau. Kỹ thuật đo đạc ở đây là việc đo khoảng cách thẳng đứng giữa đỉnh đầu và đường cổ. Và kế đến là định ra khoảng cách thẳng đứng bắt đầu từ điểm mà đường cổ bị phá vỡ sẽ đi xuống thêm là bao nhiêu. Đáy đầu và đáy 2 vai cũng giống như đỉnh đầu và đỉnh hai vai vậy. Cái khác nhau ở đây là mô hình bị lộn ngược trên dưới. + Mô hình hai hoặc ba đỉnh và đáy Một mô hình đảo chiều khác là mô hình ba đỉnh hoặc ba đáy. Mô hình này thật ra là một dạng biến hoá của mô hình đầu vai. Điểm khác nhau duy nhất là 3 cái chóp (còn gọi 3 vùng lõm) xuất hiện ở mức ngang nhau. Những mô hình đảo chiều như mô hình ba đỉnh hoặc ba đáy và mô hình đầu vai đảo ngược được xem như là cùng kiểu mẫu và cũng thể hiện những tác dụng như nhau. Mô hình hai đỉnh hoặc hai đáy (còn được gọi là mô hình chữ M hoặc mô hình chữ W) cho thấy hai chóp lồi lên hoặc hai chóp lõm xuống rõ nét. Mô hình hai đỉnh được nhận diện nhờ hai cái chóp đỉnh nổi lên. Việc đỉnh thứ hai không có khả năng trồi cao hơn đỉnh thứ nhất là dấu hiệu thứ nhất cho thấy sự yếu đi của xu hướng cũ. Khi đó giá bị giảm và khi giá giảm dưới vùng đáy ở giữa thì mô hình này được xem như mẫu đồ thị được hoàn tất. Kỹ thuật đo đạc cho mô hình hai đỉnh cũng dựa trên chiều cao của mô hình. Chiều cao mô hình hai đỉnh này được đo kể từ điểm mà vùng đáy giữa 2 chóp bị phá vỡ. Mô hình hai đáy là hình ảnh trong gương của mô hình hai đỉnh. (Xem Figures 5-2 và 5-3) + Mô hình cái đĩa và cây đinh Hai dạng mô hình này thì không phổ biến nhưng cũng xuất hiện nhiều đủ để chúng ta thảo luận về chúng. Đỉnh của cây đinh hay còn được gọi là một dạng đảo chiều chữ V cho thấy một sự thay đổi xu hướng một cách bất ngờ. Điều mà giúp chúng ta phân biệt mô hình cây đinh với những mô hình đảo chiều khác là sự thiếu vắng các giai đoạn chuyển tiếp xu hướng. Giai đoạn chuyển tiếp là giai đoạn giá đi ngang trước khi tạo ra đỉnh và đáy.  Dạng mô hình cây đinh tạo nên sự đảo xu hướng mạnh mẽ và đột ngột mà có rất ít hoặc không có những dấu hiệu cảnh báo. (Xem Figure 5-4) Mô hình cái đĩa thì khác hẳn, nó tiết lộ trạng thái chuyển đổi xu hướng chậm chạp một cách bất bình thường. Thông thường nhìn đáy của nó, ta sẽ thấy mô hình cái đĩa thể hiện một sự chuyển đối xu hướng dần dần và chậm rãi từ thấp đến cao (Xem Firure 5-5). Những mô hình tiếp tục + Mô hình tam giác Thay vì cảnh báo thị trường đảo chiều, những mô hình tiếp tục thường được hoàn tất theo hướng quay lại xu hướng ban đầu. Những tam giác là những dấu hiệu đáng tin cậy nhất của mô hình tiếp tục. Có 3 loại tam giác chủ yếu mang nhiều giá trị dự đoán giá - tam giác đối xứng, tam giác tăng và tam giác giảm. Mặc dù những mô hình tam giác thỉnh thoảng cho dấu hiệu đảo chiều, thông thường những mô hình tam giác chỉ đại diện cho sự tạm ngừng của xu hướng hiện hành. Mô hình tam giác đối xứng (cũng có thể gọi là ống cuộn) được nhận dạng nhờ hoạt động trong một phạm vi hẹp nhất định với giá giao động lên xuống giữa hai đường xu hướng hội tụ. Đường trên thì giảm và đường dưới thì tăng. Mô hình này miêu tả một tình huống mà áp lực mua và bán nằm trong trạng thái cân bằng. Ở 1 vị trí nào đó trong khoảng từ nửa khoảng cách đến điểm 3/4 khoảng cách, mô hình sẽ hoàn tất bằng một sự bức phá ra khỏi đường xu hướng. Khoảng cách nói trên được đo theo trục thời gian tính từ trái của mô hình cho đến nơi hai đường gặp nhau. (Xem Figure 5-6). Mô hình tam tam giác tăng có đường trên nằm ngang và đường dưới tăng. Bởi vì người mua năng nổ hơn người bán nên đây là mô hình mang tính chất tăng giá. (Xem Figure 5-7) Mô hình tam giác giảm có đường trên giảm và đường dưới nằm ngang. Bởi vì người bán năng nổ hơn người mua nên đây thường là mô hình có tính chất giảm giảm. Kỹ thuật đo đạc cho cả 3 mô hình tam giác nói trên là giống nhau. Đo chiều cao của tam giác tính từ điểm rộng nhất của tam giác ở phía dưới thấp nhất bên trái, khoảng cách này cũng bằng với đoạn thẳng đứng tính từ điểm mà đường giá bắt đầu bức phá khỏi đường xu hướng trên. Trong khi mô hình tam giác tăng và tam giác giảm luôn có độ dốc nghiêng thì mô hình tam giác đối xứng rõ ràng không có độ dốc nghiêng. Bởi vì mô hình tam giác đối xứng này là mô hình tiếp tục thường hay xảy ra, nên mô hình này có thể dự đoán giá sẽ tiếp tục xu hướng trước đó một cách chắn chắn hơn. + Mô hình lá cờ và mô hình cờ đuôi nheo Trong quá trình đang thể hiện xu hướng thị trường, hai mô hình tiếp tục ngắn hạn này thể hiện sự tạm dừng ngắn ngủi hay còn gọi là giai đoạn nghỉ ngơi. Cả hai mô hình này thường được bắt đầu bởi sự dịch chuyển thẳng đứng của đường giá (còn gọi là cây cột). Trong xu hướng tăng, cột thẳng đứng bắt đầu dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức và thường di chuyển ngang trong hai hoặc ba tuần. Sau đó xu hướng tăng lại tiếp tục con đường trước đó của mình. Cái tên - mô hình tiếp tục đã nói lên điều đó. Mô hình cờ đuôi nheo thì thường nằm ngang với hai đường xu hướng hội tụ (cũng giống như là mô hình tam giác đối xứng nhỏ vậy). Còn mô hình lá cờ thì tạo nên một hình giống như hình bình hành có độ dốc ngược hướng với xu hướng trước đó của mô hình. Vì thế nếu trong xu hướng trước đó là tăng thì lá cờ lại có hình dạng xu hướng giảm. Và nếu trong xu hướng giảm thì lá cờ lại có hình dạng xu hướng tăng. Mô hình lá cờ và mô hình cờ đuôi nheo được ví như là cờ đang bay phấp phới ở khoảng giữa cột cờ, điều này có nghĩa là hai mô hình này thường xuất hiện ở khoảng giữa xu hướng, làm cho ở khoảng giữa có sự dao động của thị trường (Xem Figures 5-8 và 5-9). Cùng với những mô hình đường giá, có một vài yếu tố khác xuất hiện trên đồ thị giá và những yếu tố này cung cấp cho người đọc đồ thị có thể nhìn thấu được những giá trị sâu xa. Trong những yếu tố đó có: Khoảng trống giá, Bí quyết nhận diện ngày đảo chiều và Những tỷ lệ có khả năng điều chỉnh. Khoảng trống giá Khoảng trống đơn giản là những vùng giá trên đồ thị dạng thanh hoặc đồ thị nến mà tại đó không hề có xảy ra giao dịch. Khoảng trống tăng xuất hiện khi giá thấp nhất trong ngày phải cao hơn hơn giá cao nhất của ngày hôm trước. Khoảng trống giảm nghĩa là giá cao nhất trong ngày thấp hơn giá thấp nhất của ngày hôm trước. Có nhiều loại khoảng trống khác nhau xuất hiện trong các giai đoạn khác nhau của một xu hướng giá. Nếu bạn có thể phân biệt được các dạng khoảng trống, bạn sẽ tìm được những ẩn ý hữu ích từ thị trường. Ba dạng khoảng trống giúp tiên đoán được giá là: khoảng trống đào tẩu (breakaway gaps), khoảng trống vượt nhanh (runaway gaps) và khoảng trống kiệt sức (exhaustion gaps) (Xem Figure 6-1). Khoảng trống đào tẩu (breakaway gaps) thường xuất hiện khi sự hoàn tất một mô hình giá quan trọng. Khoảng trống đào tẩu cũng giúp chỉ ra hướng đi cần thiết cho thị trường. Ví dụ, trong trường hợp vượt rào lên bên trên đường cổ của mô hình đáy đầu vai thường hay có khoảng trống đào tẩu xuất hiện. Khoảng trống vượt nhanh (runaway gaps) thường xuất hiện sau khi một xu hướng đã xuất hiện và vẫn đang tiếp diễn. Khoảng trống vượt nhanh xuất hiện khi xu hướng đi được nửa đoạn đường. Điều này giải thích tại sao khoảng trống vượt nhanh còn được gọi là khoảng trống đo lường (measuring gaps) bởi vì nó cho biết là xu hướng hiện tại sẽ đi tiếp thêm bao nhiêu nữa. Trong xu hướng tăng, khoảng trống đào tẩu và khoảng trống vượt nhanh thường tạo nên sự hỗ trợ bên dưới cho việc chùn xuống của giá vào những ngày tiếp theo sau khi khoảng trống xảy ra. Trong xu hướng giảm thì hai dạng khoảng trống này sẽ hành động như là sự kháng cự ngăn không cho thị trường bật lên trở lại. Khoảng trống kiệt sức (exhaustion gaps) xuất hiện ngay khi kết thúc xu hướng hiện tại và nó cũng chính là sự trút hơi thở cuối cùng cho xu hướng đó. Thỉnh thoảng cũng có trường hợp sau khi khoảng trống kiệt sức xuất hiện, trong vài ngày sau đó xảy ra khoảng trống đào tẩu theo một xu hướng ngược lại và tạo ra những ngày có giá ở trạng thái nằm cô lập tách biệt. Hiện tượng này được gọi là sự đảo chiều dạng hòn đảo (island reversal) và là dấu hiệu quan trọng để dự báo sẽ có sự đảo chiều của thị trường. Bí quyết nhận diện ngày đảo chiều Một dạng khác của giá là ngày đảo chiều then chốt. Mô hình nhỏ này thường cảnh báo về một sự thay đổi về xu hướng sắp xảy ra. Trong một xu hướng tăng, giá mở cửa của ngày này thường cao hơn so với ngày hôm trước, sau đó đột nhiên chùn xuống mạnh mẽ và đóng cửa thấp hơn ngày hôm trước. (Ngược lại trong xu hướng giảm, ngày đảo chiều then chốt tại đáy thường sẽ có giá mở cửa thấp hơn nhưng lại có giá đóng cửa cao hơn ngày liền trước.) Với ngày đảo chiều then chốt, phạm vi giá càng rộng thì khối lượng giao dịch càng lớn, sự cảnh báo trở nên quan trọng hơn và uy lực của nó cũng khủng khiếp hơn. Xét vẻ bề ngoài của ngày đảo chiều thì sự chênh lệch giá mở và đóng của ngày này so với sự chênh lệch mở và đóng của ngày liền trước càng nhiều thì sự đảo chiều càng trở nên thuyết phục hơn. Ngày đảo chiều then chốt là một mô hình tương đối không quan trọng và không tạo nên sự thuyết phục lớn nào cho một sự đảo chiều, nhưng nó sẽ đáng tin cậy hơn nếu đồng thời có những chỉ số kỹ thuật khác cũng cho thấy sự thay đổi lớn trong xu hướng sắp tới. (Xem Figure 7-1). Những tỷ lệ có khả năng điều chỉnh Xu hướng thị trường ít khi diễn ra theo dạng đường thẳng. Hầu hết thì hình ảnh của xu hướng là những chuỗi zig-zag với một vài điều chỉnh chống lại xu hướng hiện hành. Những điều chỉnh thường rơi vào những thông số phần trăm nhất định. Những thông số phần trăm nhất định này sẽ giúp ta nhiều trong việc dự đoán điều chỉnh. Một sự điều chỉnh điển hình mà ai cũng biết là retracement 50%. Có nghĩa là, sự điều chỉnh thứ cấp (chống lại xu hướng lớn) thường quay trở về lại đến khoảng giữa của xu hướng trước đó rồi sau đó xu hướng tăng ban đầu lại được tiếp tục. Sự điều chỉnh nhỏ nhất thường nằm ở khoảng một phần ba xu hướng trước đó. Điểm hai phần ba được xem như là khả năng có sự điều chỉnh nhiều nhất mà ta có thể chấp nhận được nếu xu hướng ban đầu sẽ lại được tiếp tục. Một sự điều chỉnh vượt quá điểm hai phần ba thường xảy ra cảnh báo rằng sự đảo chiều xu hướng đang diễn ra. Người đọc đồ thị cũng không thể bỏ qua 2 điểm phần trăm có khả năng điều chỉnh quan trọng là: retracement 38% và 62%. Hai điểm phầm trăm có khả năng điều chỉnh này còn được gọi là Fibonacci retracement. Những bí ẩn đằng sau khối lượng giao dịch Diễn giải về khối lượng giao dịch Người đọc đồ thị có 1 cách tiếp cận hai hướng để phân tích thị trường. Cách tiếp cận này gồm việc nghiên cứu  về giá và khối lượng. Trong hai hướng này thì giá quan trọng hơn. Tuy vậy, khối lượng cung cấp sự xác nhận thứ cấp quan trọng cho diễn biến về giá trên đồ thị và thường gia tăng thêm những cảnh báo cho sự thay đổi sắp xảy đến trong xu hướng hiện tại. (Xem Figure 9-1) Khối lượng là số lượng đơn vị được giao dịch trong khoảng thời gian nhất định, thông thường là trong một ngày. Đó là khối lượng của cổ phiếu phổ thông được giao dịch mỗi ngày trên thị trường chứng khoán. Đối với việc phân tích trong phạm vi dài hạn hơn, người ta theo dõi khối lượng theo mốc thời gian là hàng tuần. Khi được kết hợp với diễn biến giá, khối lượng cho ta biết được về xu hướng hiện tại của giá là đang mạnh hay yếu. Khối lượng giúp ta đo lường được áp lực mua bán ẩn dấu đằng sau sự di chuyển của giá. Khối lượng lớn được biểu thị là những thanh thẳng đứng cao nằm ở phần bên dưới của đồ thị. Khối lượng lớn dần nên xuất hiện trong xu hướng giá tăng. Khi xu hướng tăng xảy ra, những phiên có khối lượng giao dịch ảm đạm thì có thể là những phiên xảy ra sự củng cố xu hướng, với những phiên mà khối lượng giao dịch có chiều hướng tăng cao nhưng lại giảm dần sau đó thì nó lại báo hiệu 1 sự thay đổi chiều hướng tăng giá trong tương lai. Trong xu hướng giảm giá, những phiên có khối lượng giao dịch ảm đạm thường xảy ra khi thị trường bán tháo một cách hoảng loạn. Trong thị trường giá giảm, đường giá thường nảy lên tại những nơi có khối lượng giao dịch tăng mạnh. Khối lượng đóng vai trò quan trọng trong mô hình giá Khối lượng đóng vài trò quan trọng trong việc hình thành và phân tích mô hình giá. Mỗi mô hình giá có một mô hình khối lượng riêng của nó. Theo qui tắc, khối lượng có xu hướng giảm khi mô hình giá được hình thành. Sự vượt rào để hoàn tất mô hình sẽ có ý nghĩa hơn nếu sự vượt rào đó được kèm theo khối lượng giao dịch tăng mạnh. Khối lượng giao dịch tăng mạnh cùng với sự vượt rào ra khỏi đường xu hướng - mức hỗ trợ hoặc kháng cự thì điều đó sẽ quyết định mạnh mẽ đến hướng hoạt động của giá sau đó. (Xem figure 9-2) Chỉ báo On Balance Volume (OBV) Người phân tích thị trường có một vài chỉ báo giúp đo lường khối lượng giao dịch. Một trong những chỉ số hiệu quả nhất và đơn giản nhất là On-balance volume (OBV). OBV là đồ thị cho thấy sự tổng tích luỹ khối lượng của những ngày tăng giá so với khối lượng ngày giảm giá. Nếu một ngày thị trường đóng cửa với giá tăng thì khối lượng ngày hôm đó sẽ được cộng vào số tổng tích luỹ của ngày hôm trước. Vào ngày đóng cửa với giá giảm thì sẽ lấy tổng tích luỹ ngày hôm trước trừ đi khối lượng của ngày hôm đó. Theo thời gian, thì On Balance Volume (OBV) sẽ cho thấy xu hướng là tăng hay là giảm. Nếu xu hướng là tăng, điều đó cho thấy tổng khối lượng của những ngày tăng nhiều hơn tổng khối lượng của những ngày giảm giá. Đấy là dấu hiệu tốt. Còn nếu đường OBV giảm xuống, đó chính là dấu hiệu thị trường suy giảm. Ý nghĩa chỉ báo OBV Đường OBV thường được vẽ dọc theo đáy của đường giá. Cách vẽ này dùng để đảm bảo rằng đường giá và đường OBV đang ở cùng xu hướng. Nếu giá tăng, nhưng đường OBV đi ngang hoặc giảm thì điều đó nói lên rằng không có đủ khối lượng để hỗ trợ cho giá tăng thêm nữa. Trong trường hợp này, sự phân kỳ giữa đường giá tăng và đường ngang hoặc giảm của OBV là một cảnh báo xấu. (Xem Figure 9-3) Sự vượt rào của OBV Trong giai đoạn đi ngang của giá, khi xu hướng thị trường chưa rõ ràng, đường OBV đôi khi sẽ vượt rào trước tiên và cung cấp dấu hiệu rất sớm về hướng đi sắp tới của đường giá. Sự vượt rào đi lên của đường giá sẽ làm những nhà đầu tư chú ý và họ sẽ vừa tìm hiểu vừa theo dõi sát sao thị trường hoặc cổ phiếu. Tại đáy của thị trường, sự vượt rào đi lên của on-balance volume đôi khi là một báo hiệu sớm về một xu hướng tăng (Xem Figure 9-4). Những chỉ báo khác liên quan đến khối lượng Có nhiều chỉ báo khác giúp đo lường xu hướng của khối lượng: Accumulation Distribution, Chaikin Oscillator, Market Facilitation Index, và Money Flow. Mặc dù những chỉ báo này có nhiều cách tính toán khác nhau, nhưng chúng vẫn có chung một ý nghĩa – đó là quyết định xu hướng khối lượng giao dịch và xu hướng giá có phân kỳ hay không? Cách sử dụng khung thời gian khác nhau, dài hạn và ngắn hạn Việc phân tích đồ thị không chỉ là phân tích những đồ thị ngày. Đồ thị tuần và tháng cũng cho ta thấy được bức tranh dài hạn về lịch sử thị trường. Chúng ta không thể nhìn thấy được bức tranh dài hạn về lịch sử thị trường nếu chỉ sử dụng đồ thị ngày. Đồ thị ngày thường biểu diễn lịch sử giá thị trường trong 12 tháng . Trong khi đó, đồ thị tuần biểu diễn dữ liệu của 5 năm và đồ thị tháng biểu diễn lại quá khứ hơn 20 năm. (Xem Figure 10-1). Bằng cách nghiên cứu đồ thị, những đồ thị gia sẽ biết được xu hướng dài hạn, từ đó biết được mức hỗ trợ và kháng cự trong quá khứ. Người đọc đồ thị từ đó còn được hiểu rõ hơn về bản chất những biến đổi hiện tại đang thể hiện trong đồ thị ngày. Đồ thị tuần và đồ thị tháng cũng được phân tích theo các tiêu chuẩn mà tôi đã trình bày ở những bài trước. Nhiều người cho rằng phân tích đồ thị chỉ áp dụng để phân tích ngắn hạn, điều này là sai lầm rất lớn. Những nguyên lí phân tích đồ thị vẫn có thể áp dụng cho mọi đồ thị theo bất kỳ dạng thời gian nào. Sử dụng đồ thị trong ngày. Đồ thị ngày và tuần rất hữu ích trong việc phân tích trung hạn và dài hạn. Để mua bán ngắn hạn, việc dùng đồ thị trong ngày cực kỳ hiệu quả. Đồ thị trong ngày thường chỉ biểu diễn các hoạt động và xu hướng mua bán trong một vài ngày. Ví dụ đồ thị 1 phút hoặc đồ thị 15 phút sẽ biểu diễn việc mua bán trong 1 hoặc 2 ngày tương ứng. Hai dạng đồ thị này thường được sử dụng cho mục đích mua bán trong ngày. May thay, tất cả nguyên lý về đồ thị đã được mô tả trong quyển sách này cũng có thể áp dụng cho những dạng đồ thị trong ngày. (Xem Figure 10-2). Phân tích nên đi từ dài hạn đến ngắn hạn. Đồ thị ngày rất cần thiết cho việc quyết định thời điểm thị trường cũng như cho việc phân tích thị trường. Đồng thời, để quyết định thời điểm thị trường và để phân tích thị trường, chúng ta nên phân tích đầy đủ từ đồ thị tháng đến đồ thị tuần rồi sang những đồ thị ngắn hạn hơn. Mục đích của việc phân tích như vậy là để chúng ta có được một cái nhìn dài hạn trước tiên. Một khi đã có được tầm nhìn dài hạn 20 năm từ đồ thị tháng. Chúng ta tiếp đến xem xét đồ thị tuần để biết được xu hướng khoảng thời gian 5 năm gần đây. Sau đó chúng ta mới có thể nghiên cứu đến đồ thị ngày. Hay nói cách khác, thứ tự theo dõi đồ thị là nên bắt đầu từ cái nhìn tổng quát đáng tin cậy kế đến là những đồ thị có tầm nhìn ngắn hạn hơn. (Đối với những việc phân tích thị trường tỉ mỉ hơn, sau khi nghiên cứu đồ thị ngày, chúng ta tiếp đến phân tích kỹ lưỡng hơn với đồ thị trong ngày.) Bài kỳ sau: Những phương pháp để nhận biết đỉnh và đáy của thị trường

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockienthuc_ve_ptkt_1728.doc