Phân tích kỹ thuật

Giácủa BHS nằmtrong ngưỡng40 – 44 kéo dàitrong suốt 3 tháng7, 8, 9. Trong suốt thời giannàykhốilượng giaodịch củaBHS rấtnhỏ, đường MACD gầnnhư trùng lắpvới đườngtrung bình củachính nó. Vào đầu tháng 9 giácủa BHS bắt đầu xuyênphá ngưỡng 44 với khối lượng giaodịch tăngvọt báo hiệu bắtđầu mộtchu kỳtăng trưởng mớicủa BHS.

pdf68 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 2176 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích kỹ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều hay ít còn tùy thuộc vào số lượng của cổ phiếu được phát hành trên thị trường và phụ thuộc vào tương quan với khối lượng giao dịch trong các phiên giao dịch của cổ phiếu đó. Một khối lượng có thể được coi là nhiều đối với cổ phiếu này những cũng có thể ít với khối lượng khác. Hơn nữa sự biến đổi của khối lượng giao dịch mới tạo thành ý nghĩa nếu dựa vào khối lượng để phân tích, Vì vậy, thông thường, các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng đều dựa vào sự biến đổi khối lượng giao dịch trên thị trường chứ không phụ thuộc vào một giá trị cụ thể của phân tích. Điều đó có nghĩa là các phương pháp này nhìn nhận vào chiều, hướng của đồ thị mà không chú ý đến giá trị hiện tại trên đồ thị hoặc nếu có thì giá trị này phải được quy chuẩn. Dựa theo xu thế của đồ thị, các phương pháp phân tích theo khối lượng sử dụng hai yếu tố trên đồ thị là sự xuất hiện của các phân kỳ dương/phân kỳ âm và tốc thay đổi đột biến về khối lượng giao dịch trên thị trường: • Theo đó một phân kỳ dương xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế tăng giá trên thị trường, một phân kỳ âm xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế giảm giá trên thị trường. • Một sự biến động đột biến về khối lượng giao dịch sẽ phỏng đoán và xác nhận về sự thay đổi xu thế trên thị trường. Các phương pháp phân tích về khối lượng cần kết hợp với các phương pháp phân tích khác nhằm tăng cường tính chính xác, giảm độ trễ trong phỏng đoán và xác nhận về sự xu thế giá cả trên thị trường. Về cách sử dụng chi tiết sẽ được nêu cụ thể theo từng phương pháp phân tích trong các bài viết tiếp theo. Phân tích kỹ thuật (8): OBV - Chỉ số cân bằng khối lượng Tiếp theo bài viết số 7 đã giới thiệu một số vấn đề cơ bản về khối lượng và các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng; bài viết này sẽ giới thiệu về một phương pháp phân tích đơn giản dựa trên khối lượng giao dịch trong ngày - chỉ số cân bằng khối lượng (OBV – On balance volume). Phương pháp này đã được Joe Granville trình bày trong cuốn sách của ông Granville's New Key to Stock Market Profits xuất bản năm 1963. Xem trước: • Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng . • Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan . 1. Tính toán OBV được định nghĩa tính toán như sau: Gọi i là giao dịch ngày hôm nay, i – 1 là giao dịch của ngày hôm trước. • Nếu giá đóng cửa phiên ngày hôm nay cao hơn phiên trước: OBVi = OBVi – 1 + khối lượng giao dịch ngày i • Nếu giá đóng cửa ngày hôm nay thấp hơn ngày hôm trước: OBVi = OBVi – 1 - khối lượng giao dịch ngày i • Nếu giá đóng cửa ngày hôm nay bằng với hôm trước: OBVi = OBVi – 1 Phương pháp phân tích bằng OBV sử dụng phương hướng của OBV trên đồ thị chứ không dựa vào giá trị cụ thể của OBV, nghĩa là giá trị của OBV không quan trọng. Vì vậy có thể quy ước OBV của thời điểm i = 0 hoặc i = -1 sử dụng làm gốc đồ thị có giá trị OBV = 0 2. Ý nghĩa OBV là giá trị tích lũy khối lượng giao dịch thành công trải các phiên: cộng thêm khối lượng giao dịch nếu tăng giá và trừ đi khối lượng giao dịch nếu giảm giá. Ý nghĩa của OBV đánh giá sức tăng hoặc giảm của giá dựa trên khối lượng được giao dịch thành công. Nếu giá tăng nhưng khối lượng giao dịch nhỏ, đồ thị OBV tăng chậm, giá giảm nhưng khối lượng giao dịch nhỏ, đồ thị OBV giảm chậm. Nếu giá tăng với khối lượng giao dịch lớn OBV tăng mạnh, nếu giá giảm với khối lượng giao dịch lớn thì OBV giảm mạnh. Như vậy căn cứ vào sức tăng của OBV và việc hình thành phân kỳ âm hoặc dương của OBV để kết luận và khẳng định tính chắc chắn của xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại. Ví dụ về OBV của Chứng chỉ quỹ VF1 – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn: • Tại thời điểm số (1), tuy giá cả đang lên nhưng có sự chững lại về khối lượng giao dịch, OBV tăng nhẹ không đáng kể, dự đoán thời kỳ thay đổi xu thế sắp bắt đầu. • Tại thời điểm số (2), giá giảm, khối lượng giao dịch giảm, OBV giảm nhẹ không đáng kể. Đây là thời điểm ngày 03 và 04/05/2007 khi VF1 thay đổi giá trị phát hành và được cho là “lừa” nhà đầu tư. Diễn biến thị trường lúc đó số lượng đặt bán tăng rất mạnh nhưng số lượng mua vào ít, giá của VF1 giảm mạnh nhưng khối lượng giao dịch thành công không lớn. Xét ví dụ khác về OBV của công ty Cổ phần cáp treo núi Bà Tây Ninh TCT – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn Nhấn để xem kích thước thật (Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn ) • Trong giai đoạn từ cuối tháng tư cho đến đầu tháng 6, giá cổ phiếu của TCT liên tục tăng, đồ thị RSI cho thấy giao dịch của cổ phiếu này ở trạng thái siêu mua. Tuy nhiên OBV tăng rất nhẹ thể hiện khối lượng giao dịch trên thị trường rất nhỏ. Đây là thời điểm TCT bị nghi đang làm giá: những người nắm phần lớn cổ phiếu này đặt lệnh mua rất lớn và đặt lệnh bán rất nhỏ giọt nên giá tăng nhưng khối lượng giao dịch mỗi phiên không lớn, dư mua sau mỗi phiên còn rất nhiều. 3. Sử dụng Như đã biết sử dụng OBV cần phải dựa vào tính chất lên xuống tăng giảm của OBV chứ không phải dựa vào giá trị: cụ thể là tính chất phân kỳ âm và phân kỳ dương để xác nhận tăng phần chắc chắn của khẳng định về xu thế tăng hoặc giảm của giá. Nếu đồ thị OBV thể hiện một phân kỳ âm trong khi giá đang có xu thế lên, điều này cảnh báo về khả năng thay đổi xu thế của giá sang giảm. Nguyên nhân là các phiên giá giảm có khối lượng giao dịch xen lẫn các phiên giá tăng có khối lượng giao dịch nhỏ. Điều này có nghĩa là giữa các phiên tăng giá do cầu lớn và khan hiếm hàng dẫn đến khối lượng giao dịch nhỏ, đã xuất hiện xen kẽ những phiên giảm giá do một số nhà đầu tư bán ra vì cảm thấy được giá dẫn đến khối lượng khớp lớn. Vậy xu thế tăng giá đã bắt đầu suy yếu. Nếu đồ thị OBV thể hiện một phân kỳ dương trong khi giá đang có xu thế giảm, điều này cảnh báo về khả năng thay đổi xu thế của giá sang tăng. Nguyên nhân là các phiên giá tăng có khối lượng giao dịch lớn xen kẽ các phiên giảm giá có khối lượng giao dịch nhỏ. Điều này có nghĩa là giữa các phiên giảm giá do cung lớn và bán tháo hàng thừa dẫn đến khối lượng giao dịch nhỏ, đã xuất hiện xen kẽ những phiên tăng giá do một số nhà đầu tư gom hàng vì cảm thấy giá hời dẫn khối lượng khớp lớn. Vậy xe thế giảm giá đã bắt đầu suy yếu. Về vấn đề bán tháo và thu gom khi giá đang lên hoặc giảm, xem lại bài Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề khối lượng. Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty CP Nhựa Bình Minh - BMP – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn: Nhấn để xem kích thước thật (Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn) • Trên đồ thị OBV có sự xuất hiện của phân kỳ dương trong khi trên đồ thị gia thể hiện một xu thế giá giảm. Điều này cảnh báo về sự xuất hiện trở lại của xu thế giá tăng. Xét ví dụ về công ty Cổ phần nhựa Đã Nẵng – DNP – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn: Nhấn để xem kích thước thật (Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn ) • Trong giai đoạn giữa tháng 3, phân kỳ âm xuất hiện trên đồ thị giá và đồ thị OBV khẳng định xu thế giảm của giá. • Trong giai đoạn cuỗi tháng 3 đầu tháng 4, thể hiện sự biến động dập dềnh của giá. Trong giai đoạn giữa tháng 5, phân kỳ dương xuất hiện trên đồ thị giá và đồ thị OBV khẳng định xu thế tăng của giá. Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ Sau khi chỉ số cân bằng khối lượng OBV ra đời , Marc Chaikin đã công bố đường tích lũy/phân bổ - Accumlation/Distribution Line A/D Line như một trong những phương pháp phân tích dựa vào tổng khối lượng tích lũy qua các phiên. Tuy nhiên khác với OBV chỉ thuần túy dựa khối lượng , A/D Line đưa thêm vào một hệ số điều chỉnh căn cứ theo giá đóng cửa qua mỗi phiên nhằm phản ánh chính xác hơn trạng thái của thị trường bằng sự kết hợp tính toán giữa giá và khối lượng. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (8): OBV - Chỉ số cân bằng khối lượng • Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng . • Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan . 1. Tính toán Marc Chaikin sử dụng hệ số giá đóng tỷ lệ - Close Location Value CLV làm hệ số điều chỉnh căn cứ theo giá đóng cửa của cổ phiếu trong mỗi phiên: CLV = ((C - L) - (H - C)) / (H - L) ) Trong đó C là giá đóng cửa L là giá sàn H là giá trần Theo công thức trên thì: • Nếu giá đóng cửa tăng kịch trần thì CLV = +1 • Nếu giá đóng cửa giảm kịch sàn thì CLV = -1 • Nếu giá đóng cửa bằng giá tham chiếu thì CLV = 0 • Nếu giá đóng cửa trên giá tham chiếu và dưới giá trần thì CLV là số âm nằm trong khoảng 0 .. +1 • Nếu giá đóng cửa dưới giá tham chiếu và trên giá sàn thì CLV là số âm nằm trong khoảng 0 .. -1 Nếu như OBV đơn thuần sử dụng tổng tích lũy khối lượng thì A/D Line sử dụng tổng tích lũy khối lượng nhân với hệ số giá đóng tỷ lệ (Volume x CLV), nghĩa là: Gọi A/D Linei là giá trị của đường tích lũy tại phiên i. Khi đó: A/D Linei = A/D Linei – 1 + Volume x CLV Cũng giống như OBV, A/D Line chỉ quan tâm đế phương hướng mà không để ý đến giá trị nên A/D Line0 hoặc A/D Line-1 được quy ước có giá trị bằng 0. 2. Ý nghĩa OBV là giá trị tích lũy khối lượng giao dịch thành công đã có sự điều chỉnh về tỷ lệ tăng giá trải các phiên. Về ý nghĩa A/D Line cũng giống như OBV nhưng không giống OBV chỉ dựa thuần túy vào khối lượng giao dịch thành công để xét đoán tâm lý, hành vi nhà đầu tư và trạng thái của thị trường, A/D Line còn thể hiện các yếu tố trên trong mối quan hệ với giá cả qua các phiên nhờ hệ số điều chỉnh CLV. Do có sự tham gia của giá và khối lượng, nên A/D Line có thể coi một dạng phân tích phản ánh dòng chảy tiền tệ vào và ra khỏi thị trường đối với loại cổ phiếu đang xem xét nên A/D Line cho nhiều tín hiệu và sự xác nhận hơn OBV. Nếu OBV đánh giá sức tăng hoặc giảm của giá dựa trên khối lượng được giao dịch thành công và sự tăng giảm của giá. Nếu giá tăng mạnh nhưng khối lượng giao dịch nhỏ hoặc giá giảm nhẹ nhưng khối lượng giao dịch lớn thì đồ thị A/D Line tăng chậm. Nếu giá giảm mạnh nhưng khối lượng giao dịch lớn hoặc giá tăng mạnh nhưng khối lượng giao dịch nhỏ thì đồ thị A/D Line giảm chậm. Chỉ khi khối lượng giao dịch lớn với giá tăng mạnh thì đồ thị A/D Line mới tăng mạnh và chỉ khi cả giá và chỉ khi khối lượng giao dịch lớn với giá giảm mạnh thì đồ thị A/D Line mới giảm mạnh. Như vậy căn cứ vào sức tăng của A/D Line và việc hình thành phân kỳ âm hoặc dương của A/D Line để kết luận và khẳng định tính chắc chắn của xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại. Do có hệ số điều chỉnh CLV nên cách hiểu về ý nghĩa phân kỳ âm và phân kỳ dương của OBV sẽ có sự khác biệt cần phải điều chỉnh. Khi một phân kỳ âm xuất hiện, điều này nghĩa là đã có sự xen kẽ một số phiên bán tháo với khối lượng lớn với giá giảm mạnh, các phiên tăng tiếp theo có khối lượng nhỏ hoặc giá tăng không mạnh nên không thiết lập được đỉnh mới cao hơn đỉnh cũ. Các hiện tượng này cảnh báo về sự suy giảm sức tăng của giá nếu giá đang ở xu thế tăng hoặc củng cố cho sức mạnh sụt giảm nếu giá đang trên xu thế giảm. Khi một phân kỳ dương xuất hiện, điều này nghĩa là đã có sự xen kẽ một số phiên thu gom với khối lượng lớn với giá tăng mạnh, các phiên tăng tiếp theo có khối lượng nhỏ hoặc giá giảm không mạnh nên không thiết lập được đáy mới thấp hơn đáy cũ. Các hiện tượng này cảnh báo về sự suy giảm sức giảm của giá nếu giá đang ở xu thế giảm hoặc củng cố cho sức mạnh tăng nếu giá đang trên xu thế tăng. 3. Cách sử dụng Cũng giống như OBV, A/D Line sử dụng phân kỳ âm và phân kỳ dương làm tín hiệu cảnh báo về sự thay đổi xu thế của giá cả hoặc xác nhận và củng cố tính chắc chắn của xu thế này. • Nếu phân kỳ âm xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế tăng thì phân kỳ âm cảnh báo về khả năng thay đổi xu thế giá tăng hiện tại. • Nếu phân kỳ âm xuất hiện trong khi giá đang giảm thì phân kỳ âm khẳng định tính chắc chắn của sự giảm giá. • Nếu phân kỳ dương xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế giảm thì phân kỳ dương cảnh báo về khả năng thay đổi xu thế giá giảm hiện tại. Nếu phân kỳ dương xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế tăng thì phân kỳ dương • khẳng định tính chắc chắn của sự tăng giá. Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh – BMP – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn Trong suốt 2 tháng 11 và 2 năm 2006, giá của cổ phiếu BMP có xu thế tăng, phân kỳ dương trên đồ thị A/D Line xuất hiện liên tục trong hai tháng này xác nhận tính chắc chắn của xu thế tăng giá. Thực tế xu thế này đã kéo dài sang hết tháng 01/2007 với sức tăng giá mạnh. Tuy nhiên trong tháng 01/2007 này, đồ thị A/D Line có dạng dập dền không hình thành phân kỳ dương tạo thành cảnh báo về sự suy yếu của xu thế tăng giá hiện tại. Kết quả là bước sang tha giá cổ phiếu chuyển sang trạng thái dập dềnh, dao động mạnh và bắt đầu đi xuống trong tháng 03, 04 nắm 2007. Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ - FPT – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn Một phân kỳ âm đã xuất hiện trên đồ thị A/D Line vào tháng 01 năm 2007 trong khi giá của cổ phiếu FPT đang theo xu thế tăng lên. Hiện tượng này cảnh báo về sự thay đổi xu thế tăng giá hiện thời trong giai đoạn tới. Kết quả thể hiện ở giá cổ phiếu của FPT bắt đầu ngừng xu thế tăng vào tháng 2 và bắt đầu đi xuống từ tháng 03 năm 2007. Phân tích kỹ thuật (10): Chaikin Oscillator - Máy dao động Chaikin Như đã giới thiệu trong bài viết trước về đường tích lũy phân bổ A/D Line, bài viết này sẽ giới thiệu về phương pháp bổ trợ cho A/D Line. Phương pháp này được đặt tên là Chaikin oscillator – Máy dao động Chaikin lấy then tên của tác giả Marc Chaikin. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ • Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng . • Phân tích kỹ thuật (6): MACD Histogram dự đoán MACD. • Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ. • Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan . 1. Tính toán Giống như MACD tính bằng hiệu số hai giá trị trung bình hàm mũ của giá thì phương pháp Chaikin Oscillator được tính toán bằng hiệu số hai giá trị trung bình hàm mũ của A/D Line . Hiệu số giữa trung bình hàm mũ trong 3 phiên và trung bình hàm mũ trong 10 phiên thường được sử dụng. 2. Ý nghĩa Do cùng một cách tính toán, vì vậy xét về ý nghĩa, Chalkin Oscillator áp dụng đối với sự tăng giảm của A/D Line có ý nghĩa tương tự như MACD áp dụng đối với sự tăng gjảm của giá cả. Theo đó, Chalkin Oscillator xác nhận xu thế tăng hoặc giảm của A/D Line từ đó xác định xu thế tăng hoặc giảm của giá. Nếu Chaikin Oscillator dương tức là trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn, xu thế của A/D Line là tăng; ngược lại nếu Chaikin Oscillator âm tức là trung bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn, xu thế của A/D Line là giảm. Nếu đường trung bình động ngắn hạn giao cắt đường trung bình động dài hạn Chaikin Oscillator sẽ thay đổi giá trị từ dương sang âm (hoặc ngược lại) xuyên qua đường trung bình (giá trị 0); tín hiệu này cảnh báo về sự thay đổi xu thế từ tăng sang giảm hoặc từ giảm sang tăng hoặc ngừng xu thế tăng, giảm chuyển sang biến động dập dềnh. Về thực chất Chaikin Oscillator phân tích chỉ ra xu thế của A/D Line chứ không trực tiếp chỉ ra xu thế của giá cả. Tính chất gián tiếp này giúp cho Chaikin Oscillator phán đoán với độ trễ ít hơn A/D Line; tuy nhiên, bù lại Chaikin Oscillator sẽ phản ánh kém chính xác hơn A/D Line. Do đó việc sử dụng Chaikin Oscillator cần phải chú ý kết hợp với các phương pháp khác nhằm tăng tính chính xác phân tích. Chi tiết hơn về ý nghĩa của MACD và A/D Line, xin đọc các bài viết: • Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ • Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ. 3. Sử dụng Giống như MACD, Chalkin Oscillator sử dụng hai dấu hiệu là phân kỳ âm (hoặc dương) và sự giao cắt giữa đường Chalkin Oscillator và giá trị trung bình 0. Khi sử dụng Chalkin Oscillator cần phải có sự phối hợp với các tín hiệu khác để đảm bảo sự chính xác hơn trong dự đoán và xác nhận. Chi tiết hơn về sử dụng, Chalkin Oscillator, có thể tham tham khảo về cách dùng tương tự của phương pháp MACD nêu trong bài viết: Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ. Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ. Ví dụ về công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai - DNP Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị - www.vietstock.com.vn Trên đồ thị Chaikin Oscillator xuất hiện phân kỳ dương trong thời gian đủ dài vào tháng 2 và tháng 3 năm 2007. Sự phân kỳ dương kéo dài đến khi đường Chaikin Oscillator giao cắt đường trung bình giá trị 0, sự giao cắt này xảy ra trước khi đồ thị A/D Line thiết lập các đỉnh cao mới để tạo thành phân kỳ dương. Đồng thời trên đồ thị giá, ngưỡng kháng cự (Resistance) bọ phá bỏ. Các tín hiệu liên tiếp trên củng cố và khẳng định sự tăng giá của DNP. Vào tháng 6/2007, phân kỳ âm xuất hiện trên Chaikin Oscillator với độ dốc rất lớn, trước đó phân kỳ dương trên đồ thị A/D Line đã chấm dứt đồng thời với dấu hiện đồ thị Chaikin Oscillator giao cắt giá trị 0 cảnh báo về xu thế giảm giá. Tiếp đó, phân kỳ âm xuất hiện trên cả hai đồ thị A/D Line và Chaikin Oscillator liên tục trong thời gian dài xác nhận xu thế giảm giá đang xảy ra của DNP. Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn là khái niệm sử dụng bổ biến trong toán học thống kê. Bài viết này sẽ bàn luận về ý nghĩa độ lệch chuẩn khi sử dụng làm công cụ phân tích kỹ thuật, các bài viết sau sẽ trình bày cụ thể từng phương pháp thuộc nhóm này. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế. • Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan . 1. Tính toán Nếu gọi X là giá trị của cổ phiếu, E(X) là trung bình động của X, S là phương sai, d là độ lệch chuẩn. Độ lệch chuẩn sẽ được tính toán như sau: S = E[(X – EX)2] = E(X2) – [E(X)]2 d = Căn bậc hai của S Về trung bình động E(X) xem bài - Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế. 2. Ý nghĩa độ lệch chuẩn Trong thống kê độ lệch chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu thống kê xoay quanh giá trị trung bình . Giá trị của độ lệch chuẩn càng thấp thì mức độ ổn định của số liệu càng lớn, dao động quanh giá trị trung bình càng nhỏ. Giá trị độ lệch chuẩn càng cao thì mức độ ổn định của số liệu càng nhỏ, dao động quanh giá trị trung bình càng lớn. Như vậy nếu giá của cổ phiếu có độ lệch chuẩn nhỏ, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu này quanh trung bình động thấp, nếu độ lệch chuẩn lớn, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu quanh trung bình động cao. Hãy hình dung trong ví dụ sau: vào cuối học kỳ người ta lấy hai học sinh cùng có điểm trung bình 5,0 để xét cho đi thi học sinh giỏi. Học sinh thứ nhất có độ lệch chuẩn là 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này toàn điểm 5; học sinh thứ 2 có độ lệch chuẩn lớn hơn 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này có cả hai loại điểm 10 và điểm 0. Người ta nói học sinh thứ nhất học đều và ổn định hơn học sinh thứ hai. Nếu cử học sinh thứ nhất đi thi thì sẽ an toàn hơn vì không sợ bị điểm liệt và mang tiếng xấu về cho trường, nhưng cử học sinh thứ hai sẽ có khả năng sinh lợi lớn hơn vì có thể đoạt giải nhất mặc dù rủi ro bị liệt là tương đương. Điều này cũng có ý nghĩa tương tự về mức độ sinh lời và rùi ro trong chứng khoán, càng chấp nhận rủi ro cao thì sinh lời càng lớn. Trong xác xuất thống kê, nếu gọi X là giá cổ phiếu với trung bình là a, theo mô hình phân phối chuẩn có các xác suất sau: • P(a – d < X < a + d) = 68,26% • P(a – 2d < X < a + 2d) = 95,44% • P(a – 3d < X < a + 3d) = 99,74% Điều này có nghĩa xác suất để giá cổ phiếu nằm trong khoảng từ trung bình giá trừ đi độ lệch chuẩn (a – d) cho đến trung bình giá cộng với độ lệch chuẩn (a + d) là 68.26% tức là gần 70%. Chú ý rằng 70% là ngưỡng mà nhiều nhà kinh doanh và quân sự mong đợi: “nếu khả năng chắc thắng 70% thì cứ việc tiến hành”. Vì vậy nếu giá cổ phiếu không nằm trong khoảng 70% (vượt trên ngưỡng a + d hoặc xuống dưới ngưỡng a - d) thì đó sẽ là các tín hiệu cảnh báo cần phải chú ý. Phân tích kỹ thuật (12) - Bollinger Band - Dải băng Bollinger Tiếp theo bài trước bàn về độ lệch chuẩn, bài này sẽ giới thiệu một phương pháp sử dụng độ lệch chuẩn là dải băng Bollinger (Bollinger Bands) của tác giả John Bollinger. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn • Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế. • Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan . 1. Tính toán Về tính toán và vẽ đồ thị, dải băng Bollinger sử dụng độ lệch chuẩn và được vẽ bởi hai đường đồ thị trên cùng đồ thị giá của cổ phiếu: một đường goi là băng trên (upper band) và một đường gọi là băng dưới (lower band): • Băng trên được vẽ bởi giá cổ phiếu cộng với độ lệch chuẩn. • Băng dưới được vẽ bởi giá cổ phiếu trừ đi độ lệch chuẩn. Về cách tính độ lệch chuẩn, xem bài Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn 2. Ý nghĩa Trong bài viết về độ lệch chuẩn đã chỉ ra xác suất giá cổ phiếu nằm trong dải băng Bollinger là xấp xỉ 70%. Nếu giá cổ phiếu không nằm trong dải băng Bollinger, tức là thuộc về phần xác suất 30% còn lại thì các tín hiệu này cần phải chú ý. • Khi sức tăng của giá quá mạnh, cầu lớn hơn cung nhiều, giá cổ phiếu sẽ vượt quá băng trên (upper band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm trên dải băng trên thì điều này có nghĩa là sức tăng giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn. • Khi sức giảm của giá quá mạnh, cung lớn hơn cầu nhiều, giá cổ phiếu sẽ đi thấp hơn băng dưới (lower band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm dưới dải băng dưới thì điều này có nghĩa là sức giảm giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn. Nếu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng ngay sau đó thì đây là tín hiệu cảnh báo về sự suy giảm sức mạnh của tăng hoặc giảm giá khi sự tăng hoặc giảm giá đã đạt đến sự căng thẳng quá mức. Điều này giống như sự bùng phát cuối cùng rồi lịm dần của sự sống vào thời điểm hấp hối. 3. Cách sử dụng: Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger: khi giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải Bollinger và tiếp tục nằm ở ngoài dải thì xu thê tăng hoặc giảm giá hiện tại sẽ tiếp tục: • Nếu giá nằm quá dải trên (upper band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế tăng sẽ tiếp tục tăng mạnh. • Nếu giá nằm dưới dải dưới (lower band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế giảm sẽ tiếp tục giảm mạnh. Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger rồi quay trở lại nằm trong dải: • Nếu giá cổ phiếu vượt quá dải trên (upper band) rồi sau đó thiết lập một đỉnh giá khác nằm trong dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế tăng giá hiện tại và chuyển sang xu thế giảm hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang giảm và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu rớt xuống dưới đường trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger Band. • Nếu giá cổ phiếu xuống dưới dải dưới (lower band) rồi sau đó thiết lập một đáy giá khác nằm trong dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế giảm giá hiện tại và chuyển sang xu thế tăng hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang tăng và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu vượt lên trên dưới đường trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger Band. Tuy nhiên để có kết luận chính xác hơn về các dấu hiệu đảo chiều này, cần phải có sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác. Xét ví dụ về công ty Cổ phần Vận Tải Hà Tiên – HTV sử dụng Dải băng bollinger tính trong 20 phiên. Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị • Tại các thời điểm xác định bằng các đường kẻ màu đỏ và xanh, giá cổ phiếu đã vượt quá băng trên (upper band) hoặc xuống thấp hơn băng dưới (lower band), nếu so sánh lên đồ thị RSI sẽ thấy các thời điểm này tương ứng với các ngưỡng siêu mua và siêu bán. Điều này khẳng định sức tăng (hoặc giảm giá) hiện tại là rất mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn tháng 2, các đỉnh của giá liên tục được thiết lập cao hơn băng trên (upper band) khẳng định sức tăng giá rất mạnh và còn tiếp diễn dài trong giai đoạn này. • Tại các vùng được khoanh tròn là các tín hiệu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng này. • Vòng tròn số 1 và số 4 là khoảng thời gian mà một đỉnh của giá cổ phiếu được thiết lập nằm trên băng trên và một đỉnh tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng bollinger. Tín hiệu này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang giảm và càng được khẳng định chắc chắn hơn khi giá cổ phiếu đi xuống dưới đường trung bình động SMA-20. Vòng tròn số 2 và số 3 là khoảng thời gian mà một đáy của giá cổ phiếu được thiết lập nằm thấp hơn băng dưới và một đdáy tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng bollinger. Tín hiệu này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang tăng. Tuy nhiên vòng tròn số 3 được khẳng định chắc chắn và có sức tăng mạnh mẽ hơn vì giá cổ phiếu sau đó đã xuyên phá và vượt lên trên đường trunh bình động SMA – 20. Phân tích kỹ thuật (13): Độ rộng băng Bollinger - Bollinger Band Tiếp theo bài viết trước về dải băng Bollinger, bài viết này giới thiệu về một phương pháp khác sử dụng độ lệch chuẩn: Phương pháp này dựa vào độ rộng của dải băng bollinger. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan • Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn • Phân tích kỹ thuật (12): Dải băng Bollinger - Bollinger Band 1. Tính toán Phương pháp này lấy giá trị dải trên trừ cho giá trị của dải dưới của dải băng Bollinger – (Bollinger Band) để lấy khoảng cách giữa hai dải vì vậy phương pháp này được gọi là độ rộng của dải băng Bollinger Band. Giá trị này bằng hai lần độ lệch chuẩn. BBW = Giá trị dải trên - Giá trị dải dưới = 2 x Độ lệch chuẩn 2. Ý nghĩa Độ lệch chuẩn phản ánh mức độ biến đổi đồng đều của giá. Nếu giá trị của BBW lớn thể hiện giá cả có sự biến động đột biến. Nếu giá trị của BBW nhỏ thể hiện giá cả có sự biến động đồng đều và ổn định. Thông thường trong một thị trường có xu thế tăng giá hoặc thị trường suy thoái với xu thế giảm giá, BBW sẽ có giá trị lớn, giá trị này càng lớn thể hiện tốc độ tăng hoặc giảm giá càng mạnh. Còn trong một thị trường biến động dập dềnh không xu thế, giá cả ổn định, BBW sẽ có giá trị nhỏ, giá trị này càng nhỏ thể hiện mức độ biến động giá càng nhỏ. Trong thị trường tăng trưởng, khi BBW đạt đến mức cực đại tạo thành 1 đỉnh, giá cả trên thị trường sẽ có chiều hướng đi vào ổn định trong ngắn hạn, những ngày này được gọi là những ngày phân phối, một chu kỳ tăng trưởng sẽ có một số ngày phân phối – thông thường từ 3 đến 5 ngày phân phối. Khi BBW đạt đến mức rất lớn, thể hiện thị trường đang ở trạng thái phấn khích với giá cả tăng vọt rất nhanh, lúc này khả năng thị trường đi vào suy thoái rất cao và khi BBW đạt đến cực đại với giá trị rất lớn và bắt đầu đi xuống chính là lúc báo hiệu về một thị trường suy thoái đang bắt đầu. Khi thị trường suy thoái và bắt đầu đi vào ổn định trong trung hạn, BBW sẽ có giá trị nhỏ và kéo dài, khi BBW tăng trở lại sẽ là tín hiệu cảnh báo về khả năng thị trường sẽ có một xu thế mới hình thành – tăng hoặc giảm giá. 3. Cách sử dụng BBW chỉ được sử dụng như một công cụ thẩm tra lại tính chính xác về sự tăng trường và suy thoái của thị trường, không nên dùng BBW như một công cụ độc lập để dự đoán. Sử dụng BBW cần chú ý đến đỉnh có giá trị lớn và đáy có giá trị nhỏ của BBW. Khi BBW đạt đến đỉnh với giá trị lớn và bắt đầu đi vào suy giảm, tín hiệu này là dấu hiệu cho thấy xu thế hiện tại đã kết thúc. Khi BBW đạt đến đáy với giá trị nhỏ và bắt đầu tăng trở lại, tín hiệu này là dấu hiệu cho thấy xu thế dập dềnh kết thúc và khả năng thị trường sẽ hình thành xu thế tăng hoặc giảm giá. Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (BBT) Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị Tại những thời điểm được kẻ bằng đường thẳng màu đỏ, BBW đã đạt đến đỉnh với giá trị lớn, đây cũng là lúc kết thúc xu thế tăng giá của BBT. Tại thời điểm được kẻ bằng đường thẳng màu xanh, BBW đã đạt đến đáy với giá trị nhỏ và bắt đầu tăng trở lại, đây là lúc xu thế dập dềnh kết thúc, thị trường bắt đầu tăng trưởng trở lại. Phân tích kỹ thuật (14): Thống kê - Ngày tích lũy.phân phối Một số nhà phân tích sử dụng thống kê để xác nhận và dự đoán xu thế. Biện pháp họ sử dụng là tổng hợp số liệu trong quá khứ để nhận biết ra các hình mẫu đặc trưng đại diện cho các tình huống trên thị trường, thậm chí ngày nay một số nhà phân tích đầu tư sử dụng những hệ thống máy tính tốc độ cao để tăng cường khả năng tổng hợp thống kê số liệu với mong muốn rút ra quy luât của thị trường. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề khối lượng. • Phân tích kỹ thuật (8): Chỉ số cân bằng khối lượng - On Balance Volume - OBV 1. Thống kê Một số nhà phân tích sử dụng thống kê để xác nhận và dự đoán xu thế. Biện pháp họ sử dụng là tổng hợp số liệu trong quá khứ để nhận biết ra các hình mẫu đặc trưng đại diện cho các tình huống trên thị trường, thậm chí ngày nay một số nhà phân tích đầu tư sử dụng những hệ thống máy tính tốc độ cao để tăng cường khả năng tổng hợp thống kê số liệu với mong muốn rút ra quy luât của thị trường. Quay ngược lại, khi nhìn ra các hình mẫu đặc trưng này, họ suy đoán với giả định rằng lịch sử có thể tái lập lại với một xác suất nào đó. Việc này xem chừng có sự nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả: sử dụng kết quả là các hình mẫu để khẳng định nguyên nhân là sự vận động của thị trường. Tuy nhiên thống kê là một phương pháp nghiên cứu khoa học lâu đời và có tính bền vững của nó. Tâm lý hành vi của nhà đầu tư tác động đến thị trường cũng là một lĩnh vực khoa học cần được nghiên cứu, bản chất của việc dùng thống kê để phân tích chính là nghiên cứu ứng xử của nhà đầu tư theo phương pháp thống kê. Vì vậy khi nhận ra một hình mẫu dựa vào thống kê, để khẳng định rằng hình mẫu này không chỉ là hình ảnh của lịch sử mà còn là kim chỉ nam trong tương lai của các nhà đầu tư, cần phải xác định nguyên nhân tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường gắn liền với hình mẫu đó. Bài viết này sẽ đề cập đến một số phương pháp được phát hiện ra nhờ các chuyên gia thống kê thường xuyên quan sát thị trường và phát hiện ra quy luận biến động của thị trường. 2. Ngày tích lũy và ngày phân phối Giá tăng, giá giảm là chuyện bình thường trên thị trường chứng khoán. Vấn đề là bản chất các ngày tăng và ngày giảm là gì. Ai cũng biết giá cả trên thị trường được xác định bằng cung và cầu của các nhà đầu tư. Điều gì ẩn giấu sau cung và cầu. Qua thống kê người ta chỉ ra rằng trong một thị trường tăng (hoặc giảm) sẽ có các ngày tích lũy và ngày phân phối được thể hiện qua giá cả và khối lượng. Khi xu thế của thị trường là tăng giá: trong các ngày tích lũy giá sẽ tăng mạnh hoặc khối lượng giao dịch sẽ nhỏ hoặc là cả hai; trong các ngày tích phân phối sẽ tăng yếu thậm chí đứng giá hoặc giảm giá hoặc khối lượng giao dịch lớn (có thể xảy ra trước) hoặc là cả hai. Khi xu thế của thị trường là giảm giá: trong các ngày tích lũy giá sẽ giảm mạnh hoặc khối lượng giao dịch sẽ nhỏ hoặc là cả hai; trong các ngày phân phối giá sẽ giảm yếu thậm chí đứng giá hoặc tăng giá hoặc khối lượng giao dịch lớn (có thể xảy ra trước) hoặc là cả hai. Đó là quy luật thống kê mà các nhà đầu tư đã chỉ ra khi nghiên cứu các số liệu của thị trường. Quy luật này cần được giải thích bằng hành vi tâm lý của các nhà đầu tư để có được tính chính xác cao. Khi thị trường đi lên, đối với các nhà đầu tư lẻ, họ tìm cách “tích lũy”: người có cổ phiếu thì tìm cách giữ chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn, người không có thì tìm cách mua vào gây nên tình trạng khan hiếm hàng trong khi nhu cầu lớn; kết quả là giá cổ phiếu tăng mạnh trong các ngày tích lũy nhưng khối lượng giao dịch nhỏ. Trong quá trình tích lũy đó, một số nhà đầu tư cảm thấy được giá và không muốn tiếp tục mạo hiểm thêm sẽ bán cổ phiếu ra thị trường: hành động bán ra gặp đà mua vào khi giá tăng của các nhà đầu tư khác nên khối lượng giao dịch thành công sẽ tăng vọt, đi kèm đó là sự tăng giá sẽ yếu hơn, thậm chí là đứng giá hoặc giảm giá do có sự pha loãng cầu bằng lượng cung được bán ra; những ngày này được gọi là ngày “phân phối”. Tương tự khi thị trường đi xuống, các nhà đầu tư nhỏ có xu thế bán tống bán tháo cổ phiếu và hạn chế mua vào trong các ngày tích lũy khiến hàng hóa trở nên thừa thãi vượt quá lượng cầu nhỏ đẩy giá giảm mạnh. Khi tích lũy xảy ra vài ngày, một số nhà đầu tư cảm thấy giá cả đã đạt đến mức hấp dẫn để mua vào họ sẽ tìm cách thu gom khiến giá giảm chậm lại thậm chí đứng giá hoặc tăng giá đi cùng với khối lượng giao dịch lớn. Tuy nhiên con cá mập của thị trường lại là các quỹ đầu tư chứ không phải là các nhà đầu tư lẻ, những quỹ đầu tư này cũng tham gia vào sự hình thành của các ngày tích lũy và phân phối nhưng cách tiếp cận của họ khác với các nhà đầu tư lẻ. Hãy hình dung thế này nếu một quỹ đầu tư muốn thâu tóm 10 triệu cổ phiếu A nào đó, giả sử khối lượng giao dịch trung bình của cổ phiếu A là 1 triệu cổ phiếu/ngày, họ sẽ phải mất 10 ngày để mua vào. Nếu ngày nào họ cũng mua vào 1 triệu cổ phiếu sẽ tạo ra hiện tượng khan hiếm đẩy giá cổ phiếu tăng vọt và họ sẽ mất một khoản tiền lớn. Vì vậy xen kẽ các ngày thu gom mang tính chất tích lũy, họ sẽ bán ra tại một số ngày, “phân phối” lại cổ phiếu để điều chỉnh làm chững lại sự tăng giá, qua đó thâu tóm 10 triệu cổ phiếu với khoản tiền phải bỏ ra thấp hơn so với việc mua vào liên tục. Tương tự nếu muốn bán cổ phiếu, các quỹ đầu tư cũng thực hiện bán dần và xen kẽ các ngày phân phối bên cạnh các ngày tích lũy khiến cho tốc độ giảm giá chậm lại nhờ đó họ sẽ bán được giá hơn. Như vậy thị trường đang trong xu thế tăng hoặc giảm giá bao gồm các ngày tích lũy được xen kẽ bởi các ngày phân phối điều chỉnh. Thông thường sau 3 đến 5 ngày phân phối, xu thế tăng hoặc giảm sẽ kết thúc. Nguyên nhân là tính chất mạo hiểm ngày càng tăng khi giá đã tăng cao, các ngày phân phối xen kẽ gây ra trạng thái căng thẳng cho các nhà đầu tư lẻ và loại bỏ dần các nhà đầu tư yếu bóng vía; đối với các quỹ đầu tư khoảng thời gian sau 3 đến 5 ngày phân phối cũng là lúc họ hoàn thành kế hoạch thu gom hoặc bán tháo. Các phép thống kê cũng chỉ ra thông thường sau khoảng 3 đến 5 phân phối là chấm dứt xu thế tăng hoặc giảm. Hai hình dưới là các đợt có ngày phân phối trong 1 chu kỳ tăng giá của công ty cổ phần Bê Tông Châu Thới (BT6) và công ty Cổ phần Hóa An (DHA). Những ngày này có giá giảm, chững lại hoặc có khối lượng giao dịch tăng đột biết (có thê xảy ra trước khi giá cả đang ở mức đỉnh). Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (BBT) đã nêu trong bài Độ rộng dải băng Bollinger - Bollinger Band Width Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị Để ý rằng trong đợt tích lũy tăng giá của BBT có xen lẫn các ngày phân phối lân cận các ngày mà BBW lập một đỉnh và đáy tương ứng. Phân tích kỹ thuật (15): Thống kê - Sóng Elliot Những người yêu thích phân tích kỹ thuật không lạ gì với lý thuyết sóng Elliot – lấy theo tên tác giả là Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Bản chất lý thuyết này được Elliot phát hiện dựa vào thống kê tổng hợp các số liệu trong quá khứ: lý thuyết này khẳng định rằng một chu kỳ tăng giá tuân theo 5 sóng chủ và 3 sóng điều chỉnh. Xem trước • Phân tích kỹ thuật (14): Thống kê, tích lũy và phân phối. 1. Giới thiệu Những người yêu thích phân tích kỹ thuật không lạ gì với lý thuyết sóng Elliot – lấy theo tên tác giả là Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Bản chất lý thuyết này được Elliot phát hiện dựa vào thống kê tổng hợp các số liệu trong quá khứ: lý thuyết này khẳng định rằng một chu kỳ tăng giá tuân theo 5 sóng chủ và 3 sóng điều chỉnh. Nhấn để xem kích thước thật Nguồn ảnh Lâm Minh Chánh, MBA - • Sóng chủ 1. Tích lũy xuất phát từ thị trường suy thoái và còn yếu, rất khó nhận ra sóng số 1 này. Do vừa mới thoát ra thị trường suy thoái nên đầu tư và lúc này mang tính chất mạo hiểm, không hấp dẫn với các nhà đầu tư do không có nhiều kỳ vọng vào sự hồi phục của thị trường. • Sóng chủ 2. Phân phối điều chỉnh lại sóng 1, nhiều nhà đầu tư thực hiện “bán lúa non” do tâm lý hoảng sợ dưới ảnh hưởng của đợt suy thoái trước. Tuy nhiên sóng 2 này thực sự là cuộc kiểm tra về sự hồi phục của thị trường nếu điểm thấp nhất của sóng 2 cao hơn điểm xuất phát của sóng 1, điều này khẳng định tính chắc chắn của sự phục hồi, các nhà đầu tư đã hưng phấn hơn và các quỹ đầu tư đang thực sự mua vào. • Sóng chủ 3. Vượt qua đợt điều chỉnh tại sóng 2, tâm lý nhà đầu tư phấn khích và tin tưởng thị trường hơn. Điểm cao nhất của sóng 2 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 theo tỷ lệ 1,618/1. • Sóng chủ 4. Điều chỉnh và phân phối lại sóng 3 do nhà đầu tư vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của thị trường suy thoái, thực hiện bán ra để thu lời khi cảm nhận thấy có lãi. Sóng 4 điều chỉnh ở mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. • Sóng chủ 5. Các nhà đầu tư thực sự phấn khích thoát hẳn ảnh hưởng của đợt suy thoái. Tuy nhiên đợt sóng đang đến lúc cao trào, việc tham gia vào thị trường lúc này thực sự nguy hiểm. • Sóng điều chỉnh A. Thị trường đã bắt đầu điều chỉnh đi vào suy thoái. Mặc dù giá xuống nhưng các nhà đầu tư vẫn tin tưởng và rất phấn khích với thị trường, các quỹ đầu tư bắt đầu ngừng thu gom khi đã mua đủ số lượng theo kế hoạch. • Sóng điều chỉnh B: Sóng B là sự kiểm tra lại tín hiệu về khả năng suy thoái. Giá tăng trở lại nhưng đỉnh không vượt qua đỉnh của sóng 5, tuy nhiên khối lượng giao dịch thấp và giá có thể đi ngang. Các quỹ đầu tư đã ngừng hẳn thu gom, các nhà đầu tư vẫn tin tưởng thị trường nhưng đã có sự hoảng loạn xuất hiện. Các tín hiệu này khẳng định thị trường đã vượt qua trạng thái đỉnh điểm và sẵn sàng đi vào suy thoái bất kể lúc nào. • Sóng điều chỉnh C: Con gấu đã thực sự trưởng thành lấn át bò tót, thị trường bắt đầu đi vào suy thoái. Điểm thấp nhất của sóng C thấp hơn điểm thấp nhất của sóng A ít nhất 1.618 lần. 2. Ý nghĩa Nếu đối chiếu với nguyên tắc ngày phân phối sẽ nhận ra các điểm tương đồng. trong đó các sóng số 2, 4, A, C tương ứng với các ngày phân phối phù hợp với tâm lý hành vi của các nhà đầu tư. Tuy nhiên cần chú ý rằng ngày phân phối không chỉ là các ngày giảm giá: đó có thể là các ngày có khối lượng giao dịch đột biến, hoặc vẫn tăng giá nhưng giá tăng chậm lại. Hơn nữa cần phải tránh máy móc và suy rộng hơn khi áp dụng sóng Elliot cũng như ngày phân phối. Hai lý thuyết này không khẳng định tất yếu đến đợt sóng thứ 5 hay sau ba ngày phân phối thì giá sẽ đi theo chiều hướng giảm mà cần phải hiểu là: khi đến đợt sóng thứ 5 hoặc sau 3 đợt phân phối thì xác suất giá giảm sẽ cao hơn (đến 70%) và sẽ là thiếu khôn ngoan nếu tăng cường mua chứng khoán vào thời điểm này thay vì lên kế hoạch sẵn sàng bán ra. Thực tế ngày nay đã có nhiều đợt sóng elliot kéo dài hơn 5 đợt sóng hoặc hơn 3 ngày phân phối. 3. Cách sử dụng Hãy quan sát về sóng Elliot trên đồ thị VN-Index trong đợt sốt chứng khoán từ tháng 11/2006 cho đến tháng 04/2007. Sóng đỉnh cao nhất là sóng 5 diễn ra vào cuối tháng 02 đầu tháng 03/2007, do đợt sốt quá nóng nên bản thân sóng 5 không tạo thành đỉnh nhọn theo đúng lý thuyết nội dung của sóng này tạo thành một đợt sóng Elliot nhỏ do niềm tin vào thị trường của các nhà đầu tư vẫn còn rất lớn. Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị Xét ví dụ về công ty Công ty cổ phần Bê tông 620 Châu Thới – BT6 Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị Đồ thị BT6 cho thấy có 2 đợt sóng dạng Elliot từ tháng 01/2007 đến đầu tháng 03/2007 và giữa tháng 04/2007 đến giữa tháng 06/2007. Qua đồ thị của BT6 chúng ta dễ nhận thấy sóng chủ có thể nhiều hơn hoặc ít hơn 5 sóng so với lý thuyết. Vấn đề ở đây là phần lớn số sóng chủ là từ 5 sóng trở lên và khi số sóng chủ đã đạt đến 5 sóng thì khả năng thị trường xoay chiều là rất lớn, trạng thái nhà đầu tư đang phấn khích và rất dễ xì hơi, lúc này cần hạn chế mua vào và có một kế hoạch để bán cổ phiếu. Nếu để ý đến đồ thị MACD sẽ thấy khi đường MACD vượt lên trên đường trung bình động EXP của chính nó là tín hiệu mua vào rất sát với sóng chủ 3 và khi đường MACD cắt và đi xuống dưới đường trung bình động EXP của chính nó là tín hiệu bán ra rất sát với sóng điều chỉnh B. Xét lại ví dụ về công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết - BBT với phương pháp độ rộng dải băng Bollinger - Bollinger Band Width - BBW Nhấn để xem kích thước thật Nguồn độ thì Để ý rằng khi sóng Elliot đến cao trào và xuất hiện các sóng điều chỉnh A, B, C cũng là lúc BBW đạt đỉnh với giá trị rất lớn (thời điểm có các đường kẻ màu đỏ). Trong đợt tăng giá theo sóng Elliot, BBW lập các đỉnh và đáy tại lân cận các sóng 2 và 4. Phân tích kỹ thuật (16): Chiếc cốc có tay cầm Các hình mẫu thuộc phương pháp thống kê. Các hình mẫu được đúc kết và phát hiện dựa vào các quan sát, các kinh nghiệm, các phép thống kê. Cũng như các phương pháp thuộc nhóm thống kê khác, mỗi hình mẫu cần phải được giải thích (hay hợp lý hóa) bằng các hành vi tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường. Bài viết này sẽ giới thiệu một hình mẫu: chiếc cốc có tay cầm. 1. Nhận diện Chiếc cốc có tay cầm có 2 phần: đáy và tay cầm. Phần đáy bên trái được hình thành khi thị trường đi đến cuối thời kỳ suy thoái, phần đáy bên phải được hình thành khi thị trường bắt đầu tăng trưởng. Phần tay cầm được hình thành bởi giai đoạn điều chỉnh đầu tiên của chu kỳ tăng trưởng. Phần đáy cốc càng tròn càng tốt, nhưng đặc điểm quan trọng nhất là phần tay cầm. Phần đi xuống và đáy của tay cầm có số lượng giao dịch thấp và phần đi lên của tay cầm có khối lượng giao dịch và sức tăng giá càng mạnh càng tốt. Khi phần đi lên của tay cầm vượt qua miệng cốc, đó là lúc mua vào. 2. Nguyên nhân và ý nghĩa Nếu đối chiếu với sóng Elliot thì chiếc cốc có tay cầm tương ứng với sóng 1 sóng 2 và sóng 3. Phần đáy của chiếc cốc được hình thành khi thị trường đang ở giai đoạn chuyển mình giữa suy thoái, dập dềnh và tăng trưởng, lúc này thị trường vẫn còn tràn ngập sự hoang mang của các nhà đầu tư, sự tăng trưởng là chưa chắc chắn, mua vào lúc này là sự mạo hiểm. Khi giá tăng đến một ngưỡng nào đó, do còn thiều lòng tin vào thị trường, nhiều nhà đầu tư thấy được giá dù không nhiều so với giá mua vào lúc đáy hoặc so với giá mua vào khi còn cao sẽ tìm cách bán ra kiếm lời ngắn hạn hoặc cắt lỗ. Hành động này tạo nên phần bên trái và phần đáy tay cầm của chiếc cốc, tương đương với sóng 2 Elliot, giai đoạn điều chình đầu tiên của sự tăng trưởng. Khi giá cả tiếp tục tăng, kỳ vọng về thị trường được nâng lên giúp đẩy giá cổ phiếu tăng mạnh mẽ với khối lượng giao dịch lớn. Khi phần đi lên của tay cầm vượt qua miệng cốc với khối lượng giao dịch lớn và sức tăng giá mạnh, tín hiệu này củng cố vững chắc về sự tăng trưởng của thị trường. Đây là thời điểm tốt để mua vào vì sự mạo hiểm đã được giảm bớt và giá cả cũng thấp vừa phải, hứa hẹn sẽ cho lợi nhuận lớn. Sau khi hoàn chỉnh phần tay cầm, khi giá lên đến đỉnh sẽ hoàn chỉnh sóng 3 Elliot. 3. Sử dụng Xét ví dụ về Công ty cổ phần Pin Ắcquy Miền Nam Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị • Tại thời điểm số 1, lúc này đã hình thành nên dạng cốc có tay cầm. Phần đáy của tay cầm có số lượng giao dịch rất nhỏ, trạng thái dằng co. Phần cuối của tay cầm xuyên phá qua ngưỡng miệng cốc tại thời điểu số 1 với khối lượng giao dịch tăng vọt, thời điểm số 1 chính là thời điểm mua vào. • Tại thời điểm số 2, hình mẫu chiếc cốc tay cẩm được hình thành với phần đáy rộng hơn chiếc cốc ở thời điểm 1 và phần tay cầm rất hẹp, phần đáy của tay cầm có số lượng giao dịch lớn và phần miệng cốc bị xuyên phá tại thời điểm số 2 với khối lượng giao dịch lớn củng cổ vững chắc cho sự tăng trưởng PAC. • Tuy nhiên chú ý rằng chiếc cốc có tay cầm áp dụng đúng nhất cho giai đoạn đầu của chu kỳ tăng trưởng tương ứng với thời điểm số 1. Tại thời điểm số, mô hình chiếc cốc không còn được hoàn hoàn nữa, phần đáy bị biến dạng nhiều do trải trên một thời kỳ rộng, độ chính xác của hình mẫu tại thời điểm số 2 không cao như thời điểm 1. Tuy nhiên hình mẫu tại thời điểm số 2 dù sao cũng có tính chất củng cố vững chắc cho chu kỳ tăng trưởng. Xét ví dụ khác về Công ty Cổ phần DT & TM DIC • lượng nhỏ, phần cuối của tay cầm tại thời điểm số 1 xuyên phá ngưỡng giá của miệng cốc với khối lượng tăng vọt hứa hẹn một chu kỳ tăng trưởng cho DIC. Thời điểm số 1 chính là điểm mua vào. Xét ví dụ khác về Công ty Cổ Phần Giống Cây Trồng Trung Ương NSC Nhấn để xem kích thước thật Nguồn đồ thị • Sau khi phần đáy cốc được hình thành, tại thời điểm số 1 tuy giá đã vượt quan miệng cốc nhưng khối lượng giao dịch không mạnh vượt trội, lúc này sự tăng trưởng là chưa đáng tin cậy, vẫn trong giai đoạn điều chỉnh giằng co. Phải đến thời điểm số 3, giá NSC xuyên phá ở điểm cao hơn miệng cốc với số lượng vượt trội khẳng định một giai đoạn tăng trưởng vững chắc; điểm số 3 chính là điểm mua vào. Đến đây sẽ có nhiều người tỏ ý tiếc vì không mua được giá tại đáy để tối đa hóa lợi nhuận mà phải mua giá cao hơn tại các thời điểm mua vào trong các ví dụ trên. Tuy nhiên vào thời điểm mà giá chạm đáy, chẳng ai có thể khẳng định được đó là đáy và khả năng rủi ro rất cao. Nếu bạn áp dụng mô hình chiếc cốc có tay cầm bạn đã chấp nhận không mua được đáy, tức là chấp nhận không đạt tối đa lợi nhuận nhưng giảm thiểu rủi ro vì xu thế tăng trưởng là chắc chắn. Hãy nhớ: thuận theo thị trường thì sống; chống lại thị trường thì chết; tham thì thâm. Bàn thêm: Nhiều người hỏi tôi làm thế nào để biết thị trường đã chạm đáy - tôi sẽ chỉ cho bạn đáy khi thị trường đã có đáy. Không có căn cứ nào để xác định đáy thị trường khi nó chưa xảy ra, mặc dù nhiều người bằng sự nhạy cảm của mình có thể xác định được đáy, dường như vấn đề này thuộc về năng khiếu và không có phương pháp luận rõ ràng và không phải ai cũng có năng khiếu đó. Vì vậy nếu bạn không được cảm giác thiên phú này, hãy chấp nhận bỏ qua một phần lợi nhuận để đổi lấy sự an toàn. Quay lại với ba ví dụ ở trên, tôi chỉ mua vào DIC, NSC và PAC khi hình mẫu chiếc cốc được hoàn thiện, chấp nhận mất phần lợi nhuận do không mua được giá tại đáy. Lúc này giá của DIC là 42.0; NSC là 58.0, và PAC là 46.0. Trong ba tuần sau đó giá đỉnh của DIC là 61.0 (tăng 45%); giá đỉnh của NSC là 73.5 (tăng 27%) và giá đỉnh của PAC là 60.0 (tăng 30%); cho đến thời điểm viết bài, cả ba cổ phiếu trên vẫn có chiều hướng tiếp tục tăng. Những tỷ lệ lợi nhuận này dù chưa phải tối đa nhưng vẫn là những con số hấp dẫn và chắc chắn. Phân tích kỹ thuật (17): Nằm ngang 1. Nhận diện Hình mẫu được hình thành sau đợt suy thoái và hình thành xu thế dập dềnh và biên độ dao động giá nằm dưới 7 đến 8%. Khối lượng giao dịch trong thời kỳ này nhỏ giọt tạo nên các phiên chợ chiều. Hình mẫu này cần được hình thành trong thời gian càng dài thì đảm bảo tính chính xác cao, ít nhất là 4 tuần. 2. Nguyên nhân và ý nghĩa Lúc này đã vào cuối đợt suy thoái, người cần bán tháo đã kịp bán tháo hết, người không kịp bán sẽ tiếp tục nắm giữ cổ phiếu với giấc mộng hồi phục giá cả ít nhất là ngang với lúc mua. Trong giai đoạn này, phần lớn các nhà đầu tư hời hợt với thị trường và diễn biến tâm lý trên thị trường lúc này rất đa dạng: • Một số người sẽ tin rằng đây là một giá cả tốt và tìm cách thu gom. • Một số người cảm thấy sợ hãi sau đợt suy thoái nên không dám tham gia thị trường. • Một số người đang nắm giữ cổ phiếu sẽ cảm thấy chán ngán và mất kiên nhẫn hoặc cần tiền để giải quyết các công việc khác nên chấp nhận bán lỗ. • Một số người cảm thấy dùng dằng vì sợ hãi mua vào thì giá giảm, không mua thì mất cơ hội sở hữu cổ phiếu với giá thấp. • Một số người thực hiện chiến dịch “nhảy sạp”, mua bán với sự chênh lệch 2 đến 3%. • Tất cả các yếu tố dùng dằng đó tạo nên một thị trường ảm đạm và dập dềnh lên xuống kéo dài. 3. Cách sử dụng Để tránh nhầm lẫn với các phiên điều chỉnh trong thời kỳ giảm giá giống như một cái bẫy chết người, cần chờ đợi hình mẫu kéo dài ít nhất là một tháng. Một đặc tính khác cần phải chú ý là khối lượng giao dịch nhỏ giọt và biên động dao động giá dưới 7 đến 8%. Để củng cố thêm sự an toàn khi mua bán trong thời kỳ này tốt nhất là lựa chọn các công ty có các chỉ số cơ bản tốt để tiến hành tích trữ. Nếu không phải là nhà đầu tư dài hạn, có thể chỉ giải ngân một phần vốn để hạn chế rủi ro trong trường hợp giá cả tiếp tục đi xuống. Trong giai đoạn này vẽ 2 đường hỗ trợ và kháng cự mà giá dao động trong khoảng đó, khi giá vượt qua 2 đường hỗ trợ và kháng cự này là những tín hiệu cần chú ý: có thể đó là sự hình thành xu thế giá mới theo chiều hướng tăng hoặc giảm. Nếu nhà đầu tư không áp dụng chiến lược nhảy sạp mà thực hiện tích trữ chờ đợi xu thế giá lên thì khi giá cả đi xuống dưới đường hỗ trợ cần hết sức cảnh giác và thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường để đề phòng thua lỗ lớn do sự chuyển đổi thành xu thế đi xuống. Xét ví dụ về Công ty cổ phần đường Biên Hòa - BHS Nhấn để xem kích thước thật Giá của BHS nằm trong ngưỡng 40 – 44 kéo dài trong suốt 3 tháng 7, 8, 9. Trong suốt thời gian này khối lượng giao dịch của BHS rất nhỏ, đường MACD gần như trùng lắp với đường trung bình của chính nó. Vào đầu tháng 9 giá của BHS bắt đầu xuyên phá ngưỡng 44 với khối lượng giao dịch tăng vọt báo hiệu bắt đầu một chu kỳ tăng trưởng mới của BHS. Xét ví dụ về công ty cổ phần DIC Nhấn để xem kích thước thật Giá của cổ phiếu dao động trong ngưỡng 36 – 40 với khối lượng giao dịch nhỏ giọt kéo dài từ tháng 7 đến hết tháng 8. Đặc biệt giai đoạn nửa cuối tháng 8, giá cổ phếu gần như đi ngang và giao dịch rất yếu. Sang đầu tháng 9, ngưỡng 40 bị xuyên phá với khối lượng giao dịch tăng vọt rồi đi xuống nhẹ với khối lượng giao dịch yếu báo hiệu một chu kỳ tăng giá mới sắp bắt đầu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphan_tich_ky_thuat_8893.pdf
Tài liệu liên quan