Phân tích chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2008-2009

Đề tài: Phân tích chính sách tiền tệ của việt nam giai đoạn 2008-2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thách thức đối với Việt Nam là làm sao giữ cho nền kinh tế không bị “chòng chành”. Thực tế thời gian qua cho thấy, Chính phủ Việt Nam đã và đang làm được điều đó. Đặc biệt là giai đoạn năm 2008 - 2009, có sự đóng góp rất lớn của chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt. Đây là thời điểm cần tính toán để giải bài toán vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm ổn định được vĩ mô. Như vậy với quan điểm điều hành và những diễn biến trong điều hành CSTT của NHNN từ giai đoạn kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ sau khi Việt Nam ra nhập WTO đến thời kỳ kinh tế suy giảm do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính toàn cầu và trong giai đoạn hậu khủng hoảng hiện nay cho thấy nguyên tắc linh hoạt và thận trọng đã trở thành nguyên tắc quan trọng, thể hiện tính đúng đắn, kịp thời để ổn định thị trường tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của giới ngân hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành CSTT trong hai năm qua đã thực sự thành công. NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh nhạy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Cho dù vào thời điểm này nền kinh tế đã dần đi vào ổn định, tuy nhiên mục tiêu ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là xuyên suốt. Đặc biệt, chính sách tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn về thực tế cũng như những điều tiết của chính phủ chúng ta hãy cùng đi sâu vào nghiên cứu chính sách tiền tệ giai đoạn 2008 - 2009. 2. Mục đích - Yêu cầu Bài tiểu luận đem đến một cái nhìn tổng quan về chính sách tiền tệ trong sự điều tiết của chính phủ, từ đó giúp ta có thể thấy được những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế còn tồn lại để từ đó mở ra những hướng giải quyết trong tương lai. Yêu cầu nghiên cứu: thu thập, vận dụng một cách linh hoạt những thực tiễn trong cuộc sống. 3. Đối tượng nghiên cứu Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008- 2009, từ những thực tiễn đến những giải pháp của chính phủ ở hiện tại và tương lai. 4. Phương pháp nghiên cứu Bằng cách sử dụng phương pháp thống kê, quy nạp kết hợp diễn dịch 5. Phạm vi nghiên cứu Các sách và giáo trình thư viện, báo điện tử 6. Kết quả nghiên cứu Hiểu rõ hơn những chính sách điều tiết của chính phủ, nắm được những thành tựu và hạn chế đạt được từ đó có một cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính tiền tệ cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.

doc21 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3200 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2008-2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TIỂU LUẬN MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GVHD: Th.S Trần Nguyễn Minh Ái Nhóm thực hiện: 01 Lớp: 210700905 Thành phố Hồ Chí Minh – 3/2010 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 01 Nguyễn Công Bính (MSSV: 08103231) Hà Thị Dung (MSSV: 08090651) Phạm Thị Duyên (MSSV: 08108851) Bùi Thị Tiên Đức (MSSV: 08090961) Bùi Đinh Quang Huy (MSSV: 08112181) Trịnh Thị Hương (MSSV: 08110871) Đàm Văn Lương (MSSV: 08097161) Lê Bá Ngọc (MSSV: 08106711) Phạm Thị Phương (MSSV: 08108841) Phạm Thị Thanh Thúy (MSSV: 08093651) Phạm Thị Thanh Thúy (MSSV: 08102011) Lâm Thị Thu Trang (MSSV: 08113711) Nguyễn Thị Thùy Trang (MSSV: 08108671) PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thách thức đối với Việt Nam là làm sao giữ cho nền kinh tế không bị “chòng chành”. Thực tế thời gian qua cho thấy, Chính phủ Việt Nam đã và đang làm được điều đó. Đặc biệt là giai đoạn năm 2008- 2009, có sự đóng góp rất lớn của chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt. Đây là thời điểm cần tính toán để giải bài toán vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm ổn định được vĩ mô. Như vậy với quan điểm điều hành và những diễn biến trong điều hành CSTT của NHNN từ giai đoạn kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ sau khi Việt Nam ra nhập WTO đến thời kỳ kinh tế suy giảm do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính toàn cầu và trong giai đoạn hậu khủng hoảng hiện nay cho thấy nguyên tắc linh hoạt và thận trọng đã trở thành nguyên tắc quan trọng, thể hiện tính đúng đắn, kịp thời để ổn định thị trường tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của giới ngân hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm qua đã thực sự thành công. NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, … và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Cho dù vào thời điểm này nền kinh tế đã dần đi vào ổn định, tuy nhiên mục tiêu ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là xuyên suốt, đặc biệt chính sách tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn về thực tế cũng như những điều tiết của chính phủ chúng ta hãy cùng đi sâu vào nghiên cứu chính sách tiền tệ giai đoạn 2008- 2009. 2. Mục đích - Yêu cầu Bài tiểu luận đem đến một cái nhìn tổng quan về chính sách tiền tệ trong sự điều tiết của chính phủ, từ đó giúp ta có thể thấy được những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế còn tồn lại để từ đó mở ra những hướng giải quyết trong tương lai. Yêu cầu nghiên cứu: thu thập, vận dụng một cách linh hoạt những thực tiễn trong cuộc sống. 3. Đối tượng nghiên cứu Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008- 2009, từ những thực tiễn đến những giải pháp của chính phủ ở hiện tại và tương lai. 4. Phương pháp nghiên cứu Bằng cách sử dụng phương pháp thống kê, quy nạp kết hợp diễn dịch… 5. Phạm vi nghiên cứu Các sách và giáo trình thư viện, báo điện tử, 6. Kết quả nghiên cứu Hiểu rõ hơn những chính sách điều tiết của chính phủ, nắm được những thành tựu và hạn chế đạt được từ đó có một cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính tiền tệ cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: LÝ THUYẾT Định nghĩa Chính sách tiền tệ là những quyết định của chính phủ nhằm tác động đến lượng cung ứng tiền và lãi suất . Phân loại Chính phủ sẽ căn cứ vào vị trí mà sản lượng thực tế, hoặc sản lượng cân bằng so với sản lượng tiềm năng để quyết định mở rộng hay thu hẹp tiền tệ. Chính sách mở rộng tiền tệ Ngân hàng Trung ương dùng các công cụ của chính sách tiền tệ để làm tăng cung tiền, do đó, lãi suất cân bằng giảm và đầu tư tăng. Từ đó, sản lượng sẽ tăng gấp k lần mức tăng của đầu tư. Vì vậy, NHTW thường dùng chính sách tiền tệ mở rộng khi suy thoái kinh tế. Mục tiêu của chính sách này là tăng tổng cầu O O M1 M2 M I1 I2 I i2 i1 i1 i i i2 SM 1 SM 2 E1 E1 DM I Chính sách mở rộng tiền tệ. Khi NHTW tăng cung tiền tệ từ M1 lên M2 làm cho lãi suất cân bằng giảm từ i1 xuống i2 Lãi suất giảm sẽ làm giảm chi phí mua nhà máy và thiết bị làm cho đầu tư có khả năng có lãi hơn, đầu tư tăng từ I1 lên I2, lúc đó sẽ làm tăng sản lượng. Mục tiêu kích thích nền kinh tế của NHTW được thực hiện theo 3 bước sau: Gia tăng cung tiền Giảm lãi suất Tăng tổng cầu Tóm lại, khi tăng cung tiền, NHTW làm giảm lãi suất và tăng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ ở bất cứ giá cho trước nào, điều này làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải Chính sách tiền tệ thắt chặt Khi lạm phát đe dọa, mục tiêu của chính sách tiền tệ là làm giảm tốc độ chi tiêu. Cơ chế vận hành của chính sách tiền tệ thắt chặt (chống lại lạm phát) là tìm cách làm giảm chi tiêu bằng cách tăng lãi suất. NHTW có thể đẩy lãi suất lên bằng cách bán Trái phiếu, tăng lãi suất chiết khấu, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Mục tiêu của chính sách này là hạn chế tổng cầu. Vì vậy, nên sử dụng chính sách tiền tệ thu hẹp khi kinh tế lạm phát. Chương 2: THỰC TIỄN Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008 – 2009 Chính sách tiền tệ 9 tháng đầu năm 2008 Hoàn cảnh kinh tế - xã hội Tình hình thế giới: Cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ đã lan sang châu Âu, châu Á với sự phá sản và gặp khó khăn tài chính của hàng loạt ngân hàng lớn. Thị trường chứng khoán chao đảo, biến động tăng giảm với biên độ lớn (từ 5% đến10%). Đồng USD giảm giá so với hầu hết các ngoại tệ khác, giá vàng liên tục đảo chiều. Giá dầu đang ở mức kỷ lục trong 6 tháng đầu năm 2008, sau đó đảo chiều nhanh chóng, đến nay đứng ở mức giá thấp, dao động quanh 40 USD/ thùng. Tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam Thuận lợi: Tổng sản phẩm trong nước tăng 6,52% so với 9 tháng năm 2007. Hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn ODA đạt được kết quả vượt trội. Một số vấn đề xã hội đã được giải quyết có kết quả, an sinh xã hội được bảo đảm. Thêm vào đó, hệ thống NHTM Việt Nam, tuy cũng gặp khó khăn nhất định do tác động của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu nhưng rõ ràng là không bị lâm vào tình trạng như NHTM của các nền kinh tế chủ chốt, đến thời điểm này hầu hết các NHTM Việt Nam đều kinh doanh có lãi. Khó khăn: Lạm phát cao, nhập siêu lớn, cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Chỉ số CPI đạt 9.1%. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế khó đạt chỉ tiêu đề ra. Đặc biệt Chính phủ đã  không đánh giá kịp thời tác động của khủng khoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam khi  nhận định ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới không ảnh hưởng đến Việt Nam, trong khi độ mở của nền kinh tế nước ta lớn, doanh số xuất khẩu + nhập khẩu gấp 1,6 lần GDP. Chính sách tiền tệ 9 tháng đầu năm 2008 Đứng trước tình hình kinh tế-xã hội, ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%. Để thực hiện mục tiêu này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể: Chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông qua : Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD. Yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay. Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của TCTD theo hướng chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn ngoại tệ. Sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc (DTBB), thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể: Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ DTBB lên 1% (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn). (Quyết định 187/QĐ-NHNN) Ngày 13/02/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/03, với tổng giá trị tín phiếu phát hành 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN). Tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương). 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực hiện nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, cụ thể: Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi suất chiết khấu lên 11%/năm. Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi suất chiết khấu lên 13%/năm. Lạm phát tuy có xu hướng giảm dần, nhưng vẫn ở mức cao và xu hướng giảm chưa rõ nét, chưa ổn định, trong khi đó thì tăng trưởng kinh tế đã có sự suy giảm mạnh so với năm 2007 (6 tháng đầu năm 2008 tăng trưởng đạt 6,5%, giảm so với mức 7,9% cùng kỳ năm trước, giá trị sản suất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2008 tăng 16,3%, giảm so với mức 17,1% của 8 tháng 2007). Trong điều hành chính sách tiền tệ, lành mạnh hóa hoạt động của các Tổ chức Tín dụng, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ vốn cho các Ngân hàng Thương mại (NHTM) để đảm bảo khả năng thanh toán thông qua hoạt động nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác. Trong thời gian trước mắt, mức lãi suất như hiện nay sẽ được ổn định. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay sẽ được điều hành linh hoạt theo hướng giảm dần, phù hợp với tình hình cung cầu vốn trên thị trường. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục mua ngoại tệ của các NHTM ở mức thích hợp. Từ ngày 10-3, NHNN sẽ mở rộng biên độ mua, bán ngoại tệ của các NHTM so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng thêm ±0,25%, kết hợp với điều hành linh hoạt tỷ giá giao dịch liên ngân hàng bình quân. Ngân hàng Nhà nước sẽ có sự phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện việc chuyển số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại NHTM hiện nay về NHNN theo một lộ trình nhất định trong năm 2008. Điều này sẽ tạo điều kiện tốt trong việc điều hành tiền tệ, đồng thời, tránh sự thiếu hụt "đột ngột" vốn thanh toán của các NHTM làm ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ. Cơ chế cấp phép, thành lập và hoạt động của các NHTM sẽ được rà soát, sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo cho hệ thống NHTM phát triển một cách an toàn và bền vững. NHNN cũng sẽ tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các NHTM và thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nắm bắt diễn biến của thị trường để xử lý các hiện tượng phát sinh, tránh tác động xấu đối với sự ổn định của thị trường. Kiểm soát chặt tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2008 tối đa là 30% theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Lãi suất huy động vốn phải được áp dụng ở mức hợp lý, phù hợp với chính sách lãi suất thực dương theo cơ chế thị trường và các qui định của NHNN Việt Nam trong từng thời kỳ. Không được áp dụng các hình thức khuyến mãi bằng tiền và hiện vật đối với người gửi tiền như là một biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, làm dịch chuyển tiền gửi giữa các ngân hàng thương mại, gây xáo trộn thị trường tiền tệ. Ba tháng quý III là thời gian khởi động sự bình ổn. chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước, đã làm cho tình hình dịu đi. Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm. Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm; 10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm. Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); biên độ tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày 26/6/2008), từ +/- 2% lên +/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra… Chính sách tiền tệ từ tháng 10/2008 đến 2009 Sau giai đoạn mở rộng cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ nửa cuối năm 2007 đến nửa đầu năm 2008, chính sách tiền tệ được điều chỉnh theo hướng thắt chặt để đối phó với lạm phát, mà đỉnh cao là việc nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm vào tháng 6/2008. Tuy mức độ liên thông và phụ thuộc giữa thị trường tài chính trong nước với khu vực và thế giới còn ở mức độ thấp, nhưng độ mở của nền kinh tế nước ta ở mức cao (kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2008 so với GDP là 153%); tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài; vì thế, kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng tiêu cực lớn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Trước tình hình này và lạm phát có xu hướng giảm, từ những tháng cuối năm 2008, Chính phủ chủ trương “nới lỏng hơn chính sách tiền tệ một cách có thận trọng” trên cơ sở bám sát theo dõi và phản ứng linh hoạt với diễn biến thị trường tạo đà cho sự phát triển năm 2009-một năm được coi là có nhiều khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Những giải pháp chung trong chính sách nới lỏng tiền tệ: Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, từ tháng 10/2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ  “thắt chặt” sang “nới lỏng” một cách thận trọng, hỗ trợ thanh khoản bằng nhiều biện pháp: (1) Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ 13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng thương mại (NHTM); điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống 1,2%/năm, theo đó, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được điều chỉnh giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5/năm xuống 5%/năm. Các mức lãi suất này được giữ nguyên cho đến hết tháng 11/2009.. Những con số này đã dẫn đến kết quả tăng trưởng tín dụng tương đối cao, với mức 33% trong 10 tháng năm 2009, được Thống đốc công bố chính thức tại phiên chất vấn Quốc hội ngày 17/11 là 33,29%.Trong những tháng cuối năm, các ngân hàng lại vào cuộc đua tăng lãi suất huy động. Thay vì gửi kỳ hạn ngắn lãi suất thấp, nhiều ngân hàng đẩy lãi suất huy động cho cả kỳ hạn ngắn và dài ngang nhau. Hiện lãi suất huy động VND cao nhất ở mức 10,49%/năm, sát mức trần (10,5%/năm) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. (2) Điều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ. Trong bối cảnh các nguồn cung ngoại tệ bị suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, NHNN đã thực hiện nhiều biện pháp để ổn định thị trường. Trong đó có việc điều hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. (3) Giám sát chặt chẽ việc thực hiện các tỷ lệ bảo đảm an toàn, hoạt động kinh doanh, chất lượng tín dụng, giảm lãi suất cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ của NHTM. Kết quả đạt được là tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức thích hợp (năm 2008, tổng phương tiện thanh toán tăng 20%, tín dụng tăng 23,58%; 7 tháng đầu năm 2009, hai chỉ tiêu này tăng 20,22% và 22,61%); lãi suất thị trường trở về thời kỳ ổn định, tỷ giá VND so với USD tăng 2,12%, hệ thống tài động an toàn. Thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất 4%/năm Trong những tháng đầu năm 2009, NHNN, Bộ Công thương, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã phối hợp, triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Hệ thống ngân hàng đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện kịp thời, đúng đối tượng cơ chế hỗ trợ lãi suất áp dụng cho các hộ sản xuất, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ngành… Kết quả như sau: Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến cuối tháng 7/2009 là 403.448 tỷ đồng; Dư nợ cho vay ngắn hạn là 358.391 tỷ đồng (chiếm 92,1%), cho vay trung và dài hạn là 30.182 tỷ đồng (chiếm 7,75%); Dư nợ của nhóm NHTM nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương chiếm 69,9%; nhóm NHTM cổ phần chiếm 23,9%; nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài chiếm 4,9%, công ty tài chính chiếm 1,3%; Dư nợ của ngành thương nghiệp chiếm 32,01%; công nghiệp chế biến chiếm 32,5%; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 11,9%; xây dựng chiếm 9,36%...; Dư nợ cho vay của các doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 66,95%; các doanh nghiệp nhà nước chiếm 15,64%; hợp tác xã và hộ gia đình chiếm 17,41%. Cũng thông qua việc cho vay hỗ trợ lãi suất để chống suy giảm kinh tế (thực chất là việc giải cứu các doanh nghiệp và hộ sản xuất), cho thấy: ngành Ngân hàng đã triển khai khẩn trương, kịp thời, nghiêm túc, đến nay chưa phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng. Phân tích gói kích thích kinh tế của các nước, giải pháp điều hành kinh tế nước ta trong nhiều năm qua và kết quả của cơ chế hỗ trợ lãi suất mang lại, thì việc thực hiện hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng 17.000 tỷ đồng là giải pháp được lựa chọn theo phương thức riêng và tối ưu, phù hợp với điều kiện của nước ta, có hiệu quả và chi phí thấp, đạt được sự nhất trí, đồng thuận cao của các cấp, các ngành và xã hội, kể cả các tổ chức tài chính quốc tế. Nhận xét - Đánh giá Thành tựu Năm 2008 Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió. Đến bây giờ cơ bản các ngân hàng hoạt động ổn định, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã dần trở lại gần như cuối năm 2007. Nền tài chính quốc gia không sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội. Kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn. Lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp lý. Khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo. Tin dụng tăng trưởng ở mức phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có bước phát triển. Bằng chứng là đến cuối năm 2008, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng tăng 30% so với cuối năm 2007. Đặc biệt, trong năm 2008, đã có một ngân hàng thương mại cổ phần mở chi nhánh hoạt động tại nước ngoài. So với năm 2007, các chỉ tiêu vốn tín dụng đầu tư cho: khu vực dân doanh, doanh nghiệp nhà nước, xuất khẩu, hộ nghèo... đều tăng. Dư nợ xấu toàn hệ thống chỉ chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng. Năm 2009 Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt và hiệu quả, góp phần duy trì các chỉ số tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở mức hợp lý. Năm 2009, trong khi có tới trên 140 ngân hàng tại Mỹ bị “sập tiệm”, các vụ bê bối tài chính trên thế giới xuất hiện, thì tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đã đứng vững, vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Hạ nhiệt thị trường vàng. Quyết định cho phép nhập khẩu vàng trong thời điểm nhạy cảm đã được xem như một liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt vàng (trung tuần tháng 11/2009) và từ thời điểm đó tới nay, với sự ổn định của tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do và nguồn cung vàng không còn khan hiếm, giao dịch trên thị trường vàng diễn ra khá ổn định. Tăng cường hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Sự kiện Thống đốc NHNN được toàn thể Thống đốc các nước thành viên IMF/WB bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thống đốc IMF/WB nhiệm kỳ 2008-2009. Giúp điều hành hệ thống ngân hàng thương mại đứng vững. Hạn chế Định hướng thực hiện các giải pháp là đúng nhưng liều lượng, thời gian tiến hành chưa thích hợp, nhuần nhuyễn. Liều lượng quá nhiều, căng thẳng cùng một lúc, trong điều kiện thanh khoản của các ngân hàng đang ở mức thấp vì cho vay dễ dãi từ các năm trước dồn cho bất động sản, chứng khoán. Đồng thời với đó, các NHTM lại phải mua trái phiếu Ngân hàng nhà nước, tăng dữ trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu… đã tạo một áp lực lớn, làm tình hình hơi rối và lãi suất tiền gửi cứ đua nhau lên. chế cho vay đối với bất động sản. Mở rộng chính sách tiền tệ chỉ dừng lại ở việc tăng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại mà không dẫn tới tăng tổng dự nợ tín dụng bởi các ngân hàng khó tìm được khách hàng đủ điều kiện vay vốn và khách hàng cũng không có nhu cầu vay do chưa tìm được dự án đầu tư và đầu ra cho sản phẩm. Quá tập trung vào điều hành tiền tệ: Đầu năm 2008, trước khi có gói giải pháp 8 điểm, các ngân hàng đã nhanh chóng đưa ra những giải pháp rút bớt tiền trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất sát với giá thị trường. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định nâng dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng thương mại và qui định các ngân hàng mua trái phiếu ngân hàng Nhà nước. Kèm với đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở mức 30. Ngân hàng Nhà nước không hoàn toàn có quyền lực để áp đặt mức vay nợ cho doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào quyết định của Ngân hàng Thương mại căn cứ vào kết quả của quy trình thẩm định khách hàng và sau đó còn phụ thuộc vào nguồn vốn cũng như giá vốn huy động của ngân hàng. Trong điều kiện lãi suất thực âm những năm gần đây, không có nhiều cơ hội cho chính sách tiền tệ thực hiện kích cầu. Tình trạng này phản ánh một thực tế là ngân hàng đang tài trợ một khoản lãi suất cho doanh nghiệp khi cho vay). Điều này không khuyến khích các ngân hàng cho vay. Một thực tế khác là hệ thống doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, điều này hạn chế nhu cầu vay đầu tư vào sản xuất. Việc đưa ra chỉ tiêu triển khai gói hỗ trợ lãi suất nếu không được kiểm soát tốt có thể khiến ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay ảo hoặc sai mục tiêu, đối tượng hỗ trợ. Việc mở rộng chính sách tiền tệ chỉ dừng lại ở việc tăng dự trữ của các Ngân hàng thương mại mà không dẫn tới tăng tổng dự nợ tín dụng bởi các ngân hàng khó tìm được khách hàng đủ điều kiện vay vốn và khách hàng cũng không có nhu cầu vay do chưa tìm được dự án đầu tư và đầu ra cho sản phẩm. Một số đề xuất Rõ năm 2009 là năm khá thành công với chính sách tiền tệ. Đó là việc Chính phủ điều hành chính sách này linh hoạt và ít “sốc” hơn năm 2008; năm 2009, hệ thống tài chính ngân hàng đã trở lại trạng thái bình thường và ổn định; thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối  đến nay đã thông suất và qua đó NHTM cho vay ra được, các DN tiếp cận được vốn VND và ngoại tệ khi hoạt động kinh doanh của họ đã có dấu hiệu khởi sắc từ cuối 2009. Tuy nhiên, chúng ta cần rút ra một vài bài học chủ chốt liên quan đến CSTT của năm 2009 Thứ nhất, đó là bài học về kiểm soát tín dụng. Cho đến nay vấn đề tăng tưởng tín dụng cho nền kinh tế vẫn là chủ đề đáng quan tâm của thị trường. Năm 2009 tăng trưởng tín dụng đã vượt định hướng là một bài học về quản lý. Hơn thế nữa, chính sự tăng trưởng tín dụng như vậy chắc chắn có tác động đến lãi suất cả trên phương diện vĩ mô và vi  mô. Về mặt vi mô, sự ước tính về tăng trưỏng tín dụng theo định hướng từ đầu năm chắc chắn đã phần nào làm phá vỡ kế hoạch kinh doanh của từng NHTM và từ đó ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của các DN. Thứ hai, bài học về cân đối vốn trong hệ thống. Sự nóng nguồn trung và dài hạn trong hệ thống ngân hàng năm qua hiển nhiên là có thực. Qua đó cho thấy vấn đề về cải thiện cân đối kỳ hạn tại các NHTM vẫn là một vấn đề nóng. Sự  nóng về mất cân đối về kỳ hạn này được phản ánh vào lãi suất trên thị trường liên ngân hàng vẫn thường xuyên nóng. Lãi suất huy động cũng có biểu hiện mất cân đối ở chỗ: lãi suất liên tục tăng mà NHTM vẫn khó huy động. Lãi suất  huy động ngắn hạn cao bằng lãi suất trung và dài hạn; thị trường tín dụng suất hiện nhiều loại phí (hoa hồng) bất hợp lý... Năm 2009 không có sự đua lãi suất của các NHTM như năm 2008 nhưng bài học về cân đối vốn vẫn còn nguyên. Bài học về sẵn sàng chống sốc lãi suất, tỷ giá. Với thực tế về nguồn vốn của DN và khả năng quản trị tài chính của DN VN thời gian qua, chúng ta dễ thấy rằng các DN khá dễ tổn thương trước các cú sốc tiền tệ, nhất là sốc về lãi suất, số về tỷ giá...  Về tiền tệ (VND) và lãi suất, khi cơ cấu nguồn vốn còn không cân đối với sử dụng vốn trong khu vực ngân hàng vẫn căng và  nguồn vốn của DN dựa nhiều vào vốn vay ngân hàng... thì các DN cần đảm bảo rằng họ phải sẵn sàng chống sốc tiền tệ (ít nhất là biến động lãi suất) trong tương lai. Khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường, từ DN đến Nhà nước phải sẵn sàng đối phó với các cú sốc bằng các chính sách ứng phó phù hợp. Việc “giật mình” với các cú sốc trong bất kỳ trường hợp nào nhà nước hay DN đều chứng tỏ mức độ sẵn sàng chưa cao và đó lại là lỗi chủ quan chứ không phải khách quan. Kinh tế năm 2010 đang diễn tiến với rất nhiều tín hiệu tích cực. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể thấy một số định hướng của CSTT cho năm 2010 như sau: Hướng tới tăng trưởng tín dụng hợp lý. Gần đây, NHNN đã phát đi tín hiệu về  khống chế tăng trưởng tín dụng 25% trong 2010 chỉ cao hơn một chút so với 2008, năm thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát. Theo đó, năm 2010, tăng trưởng tín dụng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ, tốc độ tăng trưởng sẽ bị siết chặt và chỉ bằng khoảng 2/3 so với năm 2009. Cụ thể, NHNN sẽ khống chế tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng khoảng 25% trong 2010, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% năm 2009. Định hướng này chắc chắn sẽ đảm bảo lãi suất không quá căng cho năm 2010. Tỷ giá linh hoạt, đảm bảo cân bằng: Với dự báo là năm 2010, diễn biến tiền tệ thế giới vẫn phức tạp (nhất là các đối tác thương mại chủ chốt của VN), dự báo về cán cân thanh toán của VN (nhất là cán cân thương mại vẫn thâm hụt đáng kể) thì Chính phủ sẽ chắc chắn thực hiện điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, đảm bảo thị trường không bị đình đốn trong khi vẫn  khuyến khích xuất khẩu và không làm tăng quá mức gánh nặng nợ lên các DN vay vốn ngoại tệ. Cung ứng tiền hợp lý: NHNN đã phát đi thông điệp và nhấn mạnh rằng năm tới sẽ tập trung điều hành cung ứng tiền mặt một cách chặt chẽ cùng với việc kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng đó là định hướng CSTT phù hợp trong điều kiện chỉ số CPI đang có chiều hướng đi lên. Hướng  dòng vốn cho khu vực sản suất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức. Khi  dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay; hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn được định hướng đúng đắn,  tình trạng bong bóng (chứng khoán, nhà đất,... vàng) sẽ giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định. Chính phủ cần giảm bớt (hoặc kiểm soát chặt) tình trạng đầu cơ thái quá trong nền kinh tế (như sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính quá mức trên TTCK, tiền tệ; các loại kinh doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu vực sản xuất vật chất,...). Khi Chính phủ kiên quyết giảm thiểu  tình trạng đầu cơ quá mức thì chắc chắn tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính ngân hàng nói riêng sẽ giảm. Khi đó thị trường tiền tệ và ngoại hối (mà cụ thể là lãi suất và tỷ giá) sẽ ổn định. Tiếp tục nâng cao quản trị rủi ro tại các NHTM so với vốn ngày càng tăng. Theo định hướng  của NHNN, đến năm 2010, các NHTMCP VN phải đạt 3.000 tỷ VND. Cùng với mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa thêm công cụ mới vào hoạt động trong thời gian qua, các NHTM đang lớn lên nhưng vấn đề quản lý lại chưa theo kịp (nhất là quản lý tài sản nợ, tài sản có và trong đó có quản  lý rủi ro lãi suất). Trên phương diện quản lý (cả vĩ mô và vi mô), định hướng cho năm 2010, các NHTM này cần chứng tỏ rằng NHTM vốn càng lớn, quy mô càng lớn thì vấn đề quản trị, quản lý cũng được nâng cao và mạnh tương ứng. Khi các vấn đề về quản lý ở các NHTM (khu vực vi mô) này tốt, chắc chắn chính sách tiền tệ của NHNN (vĩ mô) sẽ hiệu quả hơn nhiều. Cải cách luật phù hợp với tình hình mới về tiền tệ và ngân hàng. Các luật ngân hàng (Luật NHNN, Luật các TCTD) rõ ràng cũng đang cần được cải cách phù hợp với tình hình mới khi thị trường tài chính VN đã phát triển, hội nhập sâu rộng hơn cuối những năm 1990 rất nhiều. Trong đó, có vấn đề đáng quan tâm như: có hay  không có “lãi suất cơ bản”; NHTM được kinh doanh/ cho vay chứng khoán, kinh doanh /cho vay bất động sản hay vàng... đang được xã hội mong đợi một định hướng rõ ràng. Khi định hướng luật  rõ rằng, dễ dự đoán, thị trường tiền tệ sẽ ổn định. PHẦN KẾT LUẬN Chính sách tiền tệ dù chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới từ cuối năm 2008 đến nay, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, kinh tế nước ta đã ngăn chặn được suy giảm và dần tạo được đà tăng trưởng, kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội được bảo đảm. Trong thời gian tới, kinh tế nước ta tiếp tục phát triển, nhưng đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức; việc nghiên cứu, rút ra bài học, quan điểm mang tính khoa học và thực tiễn, làm cơ sở cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và những năm tiếp theo là nhu cầu cần thiết. Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế của nhà nước “nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô”. Trong tình hình diễn biến và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đặt ra, chúng ta cần nhìn lại và đánh giá, tổng kết rút ra bài học gì tốt, chưa tốt trong thời gian vừa qua và dự báo, đánh giá đúng diễn biến trước mắt và trong thời gian tới khi nền kinh tế thế giới vượt qua suy thoái và dần hồi phục, kinh tế Việt Nam cũng bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển bền vững. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Kinh tế vĩ mô, TS. Nguyễn Minh Tuấn, Th.S Trần Nguyễn Minh Ái, NXB Lao động Xã hội, 2009. Nghiệp vụ thị trường tiền tệ, PGS TS. Lê Hoàng Nga, NXB Tài chính, 12/2008. Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nguyễn Đăng Dờn. NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2009. Đại khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 dưới con mắt các nhà báo và các chuyên gia kinh tế quốc tế, Dịch giả: Nguyễn Văn Nhã, NXB Tri Thức, 2009 . www.vntrades.com vovnews.vn infotv.vn www.cpv.org.vn vneconomy.vn MỤC LỤC ˜&™

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích chính sách tiền tệ của việt nam giai đoạn 2008-2009.doc