Những vấn đề chung về công ty cổ phần

A.Khái niệm chung : 1.Khái Niệm và Đặc Điểm Công Ty Cổ Phần: Trong lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người . ở mỗi giai đoạn khác nhau lại có các hình thức tổ chức kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của nó. Trong các hình thức đó , mô hình công ty có vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia cũng như trong quan hệ kinh tế Quốc tế. Hiện nay có rất nhiều loại công ty,một hinh thức phát triển của doah nghiệp - đó là công ty cổ phần Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ,ra đời đầu tiên từ các nước Tây Âu .Nó là “ Công ty được hình thành trên cơ sở liên hợp nhiều tư bản cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu , lợi nhuận của công ty được phân phối giũa các cổ đông theo số lượng cổ phần. Tuỳ theo pháp luật từng nước mà công ty được tổ chức dưới các hình thức khác nhau . Công ty cổ phần về thực chất là loại hình tổ chức doanh nghiệp trong đó các thành viên góp vốn trở thành cổ đông của công ty được quyền tham gia quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công tyđược hưởng lợi nhuận và chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp .Công ty cổ phần có quyền huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu . Do đó , nó có quy mô huy động vốn rộng rãi với cơ chế thuận lợi , linh hoạt nên rất phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại . Từ nhu cầu huy động vốn trong toàn xã hội do xã hội hoá sản xuất cùng sự phát triển của kinh tế thị trường , của lưu thông hàng hoá - tiền tệ , đặc biệt là quan hệ tín dụng ngân hàng , là nguyên nhân và đIều kiện quan trọng tất yếu dẫn tới sự ra đời của công ty cổ phần , Công ty cổ phần có ưu thế hơn hẳn so với mô hình doanh nghiệp khác. Do huy động được lượng vốn lớn một cách nhanh chóng nên công ty cổ phần làm tăng nhanh quy mô sản xuất , đồng vốn được sử dụng có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh , tạo cơ chế phân tán tủi ro nhằm hạn chế những tác động tiêu cực về kinh tế – xã hội trong công tylâm vào tình trạng phá sản . Đồng thời nó còn tạo khả năng tồn tạI lâu bền cho doanh nghiệp .thúc đẩy thị trường chứng khoán ra đời và đây chính là hình thức kinh tế trung gian quá độ chuyển lên phương thức sản xuất XHCN. Mặc dù còn tồn tại một số khuyết tật nhưng công ty cổ phần có vai trò rất quan trọng trong nền sản xuất xã hội nên được phát triển phổ biến ở nhiều nước trên thế giới .Công ty cỏ phần được hình thành bằng ba con đường cơ bản : Một là: con đường truyền thống – từ doanh nghiệp một chủ lên công ty.trên cơ sở liên tư bản tư nhân trong nước hình thành công ty cổ phần. Hai là : con đường liên kết tư bản tư nhân với Nhà nước thông qua phát hành cổ phiếu . Ba là : con đường chuyển doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thành công ty cổ phần (Cổ phần hoá DNNN).

doc7 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2139 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề chung về công ty cổ phần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1: những vấn đề chung về công ty cổ phần A.Khái niệm chung : 1.Khái Niệm và Đặc Điểm Công Ty Cổ Phần: Trong lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người . ở mỗi giai đoạn khác nhau lại có các hình thức tổ chức kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của nó. Trong các hình thức đó , mô hình công ty có vị trí hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia cũng như trong quan hệ kinh tế Quốc tế. Hiện nay có rất nhiều loại công ty,một hinh thức phát triển của doah nghiệp - đó là công ty cổ phần Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ,ra đời đầu tiên từ các nước Tây Âu .Nó là “ Công ty được hình thành trên cơ sở liên hợp nhiều tư bản cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu , lợi nhuận của công ty được phân phối giũa các cổ đông theo số lượng cổ phần. Tuỳ theo pháp luật từng nước mà công ty được tổ chức dưới các hình thức khác nhau . Công ty cổ phần về thực chất là loại hình tổ chức doanh nghiệp trong đó các thành viên góp vốn trở thành cổ đông của công ty được quyền tham gia quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công tyđược hưởng lợi nhuận và chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp .Công ty cổ phần có quyền huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu . Do đó , nó có quy mô huy động vốn rộng rãi với cơ chế thuận lợi , linh hoạt nên rất phù hợp với nền sản xuất lớn hiện đại . Từ nhu cầu huy động vốn trong toàn xã hội do xã hội hoá sản xuất cùng sự phát triển của kinh tế thị trường , của lưu thông hàng hoá - tiền tệ , đặc biệt là quan hệ tín dụng ngân hàng , là nguyên nhân và đIều kiện quan trọng tất yếu dẫn tới sự ra đời của công ty cổ phần , Công ty cổ phần có ưu thế hơn hẳn so với mô hình doanh nghiệp khác. Do huy động được lượng vốn lớn một cách nhanh chóng nên công ty cổ phần làm tăng nhanh quy mô sản xuất , đồng vốn được sử dụng có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh , tạo cơ chế phân tán tủi ro nhằm hạn chế những tác động tiêu cực về kinh tế – xã hội trong công tylâm vào tình trạng phá sản . Đồng thời nó còn tạo khả năng tồn tạI lâu bền cho doanh nghiệp .thúc đẩy thị trường chứng khoán ra đời và đây chính là hình thức kinh tế trung gian quá độ chuyển lên phương thức sản xuất XHCN. Mặc dù còn tồn tại một số khuyết tật nhưng công ty cổ phần có vai trò rất quan trọng trong nền sản xuất xã hội nên được phát triển phổ biến ở nhiều nước trên thế giới .Công ty cỏ phần được hình thành bằng ba con đường cơ bản : Một là: con đường truyền thống – từ doanh nghiệp một chủ lên công ty.trên cơ sở liên tư bản tư nhân trong nước hình thành công ty cổ phần. Hai là : con đường liên kết tư bản tư nhân với Nhà nước thông qua phát hành cổ phiếu . Ba là : con đường chuyển doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thành công ty cổ phần (Cổ phần hoá DNNN). 2.Những Ưu Thế và Thuận Lợi Của Công Ty Cổ Phần : Thuận lợi đầu tiên mà DNNN sau khi tiến hành cổ phần hoá là giải quyết được vấn đề vốn và đổi mới công nghệ.Một doanh nghiệp muốn phát triển được tốt thì vấn đề đầu tiên được đặt ra chính là vốn,hơn nữa đối với một nước đi lên từ nền nông nghiệp lạc hậu lại bị ảnh hưởng bởi chiến tranh tàn phá như Việt Nam thì tình trạng vốn lại càng trở nên cấp thiết hơn.Một thực trạng chung đối với hầu hết các doanh nghiệp là hoạt động dựa trên cơ sở vốn vay, chỉ một phần rất nhỏ tồn tại bằng vốn chủ sở hữu nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.Doanh nghiệp luôn phải tìm mọi cách để thu hút vốn.Các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu sử dụng hình thức thu hút vốn gián tiếp, có nghĩa là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính hay các tổ chức tín dụng khác thuộc nhà nước(ngoài số vốn được nhà nước trợ cấp từ ngân sách nhà nước).Nhưng các tổ chức tín dụng này đều có nguồn thu hút vốn từ nhân dân và các tổ chức kinh tế khác, như vậy việc thu hút vốn của các DNNN qua một khâu trung gian phần nào làm giảm tốc độ chu chuyển của đồng tiền, chịu thêm một mức lãi suất và một số rủi ro khác. Hơn nữa, tâm lý chung của dân Việt Nam là nếu có tiền tiết kiệm dư thừa,thay vì đem vào gửi ngân hàng tiết kiệm thì họ lại để ở nhà cất giữ vì họ cho rằng như thế là an toàn hơn.Vì vậy lượng vốn trong các tổ chức tín dụng thuộc nhà nước nhìn chung cũng không đủ lớn để cung cấp cho tất cả các doanh nghiệp quốc doanh.Trong khi đó các công ty cổ phần do đặc điểm có hình thức sở hữu đa dạng,cổ phần được bán rộng raĩ cho các thành phần kinh tế,tạo ra khả năng huy động vốn trong toàn xã hội bao gồm cá nhân,các tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội trong và ngoài nước,làm phong phú thêm nguồn vốn.Thêm vào đó,nguồn vốn của các công ty này lại phần lớn là vốn tự có do các cổ đông đóng góp nên khả năng tài chính tương đối lớn,phần nào tạo được lòng tin cho các đối tác. Có được nguồn vốn dồi dào, doanh nghiệp có thể tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh tăng khả năng phát triển của công ty đồng thời làm tăng uy tín của công ty đối với người lao động,tạo lợi thế cho việc tiêu thụ những đợt cổ phiếu bán ra để thu hút vốn của doanh nghiệp.Cứ như vậy,quy mô sản xuất được mở rộng hơn, người lao động có thu nhập lớn hơn do ngoài tiền lương tiền cổ tức họ còn được hưởng một khoảng thu “ngầm” do cổ phiếu của công ty làm ăn có hiệu quả tạo ra. Hơn nữa có nguồn vốn phong phú, doanh nghiệp có thể tiến hành đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho các hàng hoá do chúng ta sản xuất ra và tạo được uy tín cho hàng Việt Nam.Trước đây, các doanh nghiệp quốc doanh sản xuất trong điều kiện máy móc thiết bị từ thời Pháp thuộc để lại,phần lớn máy móc trước đó đã qua sử dụng và nhìn chung là lạc hậu so với các nước phát triển đến 70-80 năm vì vậy năng suất không cao,chất lượng sản phẩm lại thấp.Trong những năm qua với nguồn vốn ít ỏi một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nhập khẩu một số máy móc nhưng đến 70% là đã qua sử dụng,và một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chính là thiếu vốn.Chính vì vậy có thể nói với nguồn vốn phong phú các công ty cổ phần có lợi thế trong việc bắt kịp với công nghệ tiên tiến hiện đại,nhằm nâng cao chất lượng hàng Việt Nam ngang với mặt bằng chung của toàn thế giới. Một thuận lợi nữa mà cổ phần hoá các DNNN đem lại đó chính là việc tạo điều kiện cho người lao động được làm chủ thực sự, thay đổi phương pháp quản lý,tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,nâng cao thu nhập của người lao động.Việc người lao động được làm chủ thực sự sẽ có tác động khuyến khích họ làm việc tích cực hơn,nâng cao tinh thần tiết kiệm và trách nhiệm của mình trong công việc,tránh được tình trạng “sở hữu chung”, “cha chung không ai khóc” như thời kỳ trước.Hơn nữa, các công ty cổ phần thực hiện cơ chế quản lý phân quyền thay cho cơ chế quản lý theo kiểu tập trung như trong các DNNN ở giai n dân ta đang hướng tới. chương 2: Thực Trạng và Giải Pháp cho Tiến trình Cổ phần hoá DNNN hiện nay A.thực trạng dnnn : Thực Trạng DNNN và Yêu Cầu CPH: a) Thực trạng DNNN trước CPH: ở nước ta,cũng giống như các nước XHCN trước đây thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung,lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nướđoạn trước,vì vậy không những đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị trường mà còn bắt kịp được sự thay đổi của thị trường một khi nó bị biến động. Từ năm 1989 đến nay nền kinh tế nước ta đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường.Bài học lịch sử đã cho chúng ta thấy không thể đặt sự phát triển nền kinh tế thuần tuý trên cơ sở kinh tế thị trường và khu vực tư nhân mà không có sự can thiệp của nhà nước,bên cạnh đó cũng không thể hoàn toàn dựa vào khu vực kinh tế nhà nước mà xem nhẹ kinh tế thị trường và khu vực tư nhân.Cổ phần hoá là giải pháp vừa tạo nên được sự thay đổi trong các doanh nghiệp quốc doanh,mặt khác còn góp phần chống sự phát triển tự phát,tràn lan của thành phần kinh tế tư nhân mà mặt tiêu cực của nó là tạo nên một lớp người muốn đi theo chủ nghĩa tư bản từ đó chống lại con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng nhà nước và toàc bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH.Vì vậy,khu vực kinh tế nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các DNNN do cấp địa phương quản lý.Theo số liệu thống kê, đến ngày 1-1-1990, cả nước có 12.084 DNNN, trong đó có 1.695 doanh nghiệp do trung ương quản lý, 10.389 doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý. Hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh đều do kinh tế nhà nước nắm giữ.Khu vực kinh tế nhà nước có số vốn trị giá khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, khoảng 70% tổng giá trị tài sản toàn xã hội, tạo ra khoảng từ 30%-38% giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân khoảng 23%-30%.Hàng năm, kinh tế nhà nước vẫn là nguồn thu ngân sách chủ yếu của ngân sách nhà nước(60%-70% tổng thu ngân sách).Tuy nhiên nếu trừ đi lượng vốn đầu tư và khoản trợ cấp ngầm qua tín dụng ưu đãi của ngân hàng cũng như phần khấu hao cơ bản và nhiều loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên do bán dầu thô v.v... thì mức độ đóng góp trên còn chưa tương xứng. Trước khi tiến hành cổ phần hoá,các doanh nghiệp quốc doanh ở nước ta cũng giống như nhiều nước trên thế giới hoạt động hết sức kém hiệu quả.Có thể minh hoạ cho nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau: + Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân thường cao hơn gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. + Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình thế giới.Ví dụ, chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất bằng 1,88 lần, sản phẩm cơ khí bằng 1,3-1,8 lần. Mức tiêu hao năng lượng của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng cao hơn so với mức trung bình của thế giới. Ví dụ, trong sản xuất hoá chất cơ bản bằng 1,44 lần, than bằng 1,75 lần, trong sản xuất giày gấp 1,26 lần... + Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp nhà nước rất thấp và không ổn định.Điều này được giải thích một phần là do thực trạng công nghệ của các DNNN quá lạc hậu thậm chí còn lạc hậu mấy chục năm so với các nước phát triển khác.Trung bình trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; 65% số sản phẩm đạt mức độ trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% số sản phẩm kém chất lượng.Vì vậy hàng hoá của chúng ta không thể xuất sang thị trường các nước phát triển và những thị trường khó tính khác.Hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và hiện tượng thích dùng hàng nhập của một bộ phận dân cư là không thể tránh khỏi.Và lượng hàng tồn đọng chiếm đến hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội, điều này có ảnh hưởng xấu đến khả năng quay vòng vốn cũng như khả năng mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp. + Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp.Ví dụ, hệ số sinh lời chung của vốn cố định tính chung chỉ đạt 7%/năm và hệ số sinh lời của vốn lưu động đạt 11%/năm. Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực này cũng hết sức thấp.Cụ thể là trong một số năm gần đây, hàng năm Nhà nước dành hơn 70% vốn đầu tư ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được từ 34%-35% tổng sản phẩm xã hội trong khi chúng lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại học, công nhân kỹ thuật và phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh. + Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn.Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 1990, trong số 12.084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4.584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 30% tổng số các DNNN.Trong đó, quốc doanh trung ương có 501 cơ sở thua lỗ,bằng 29,6% số cơ sở do trung ương quản lý; quốc doanh địa phương có 4.083 cơ sở thua lỗ, chiếm 39,9% số đơn vị do địa phương quản lý.Các đơn vị thua lỗ trên có giá trị tài sản cố đình bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước và với 787.300 lao động trong tổng số 2.590.000 lao động, bằng32,9% số lao động của toàn bộ khu vực kinh tế nhà nước.Hơn nữa,các doanh nghiệp đôi khi không thật thà trong khai báo lãi-lỗ làm cho tình trạng lãi giả lỗ thật ngày càng gia tăng. Những số liệu trên cho thấy việc làm thua lỗ của các DNNN đã gây tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân đưa đến việc bội chi ngân sách nhà nước triền miên trong mấy năm qua.Thêm vào đó, nhà nước lại có hàng loạt chính sách bù giá, bù lương, bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho gánh nặng tài chính và các khoản nợ của Nhà nước ngày càng nặng nề và nghiêm trọng. Về thị trường,trước đây ngoại thương ở nước ta chủ yếu dựa trên cơ sở mua bán trao đổi với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa.Từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ kéo theo một loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu đã khiến cho chúng ta mất đi những thị trường truyền thống.Chính sách mở cửa cho phép mở rộng buôn bán với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị cũng không giúp gì cho việc tiêu thụ hàng hoá trong nước vì hàng hoá của ta không đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá của các nước khác, đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Khả năng liên doanh liên kết với nước ngoài của các DNNN cũng tương đối thấp một mặt do các DNNN làm ăn không có hiệu quả nên không tạo ra được một sức hút mạnh mẽ đối với các công ty, tổ chức nước ngoài.Mặt khác,do tình trạng lãi giả lỗ thật đang phổ biến ở các DNNN cũng như sự không chính xác của thông tin đã làm cho các doanh nghiệp nước ngoài tỏ ra nghi ngại trước việc đầu tư vào các doanh nghiệp này. Một điểm đáng được lưu tâm nữa là vốn và tài sản của các DNNN là không nhiều,phần lớn bị phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng thuộc nhà nước,nên nhìn chung triển vọng phát triển và đi lên của các DNNN là không cao.Thu nhập của lao động trong các DNNN cũng thuộc vào mức trung bình.Cơ chế phân phối không dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà chủ yếu nhằm phục vụ chính sách xã hội, mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, không kích thích người lao động trong các doanh nghiệp này nâng cao hiệu quả công tác và năng suất lao động.Thêm vào đó,đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ hạn chế cộng thêm sự bảo thủ,trì trệ, thiếu năng động đã khiến cho các doanh nghiệp này càng rơi vào tình trạng bế tắc.Đồng thời cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp mang tính cứng nhắc kéo dài quá lâu đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng. b) Thực trạng và tiến trình CPH DNNN Hiện Nay: Đứng trước tình hình các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn không có hiệu quả như trên đã đề cập đến,nhà nước ta đã cố gắng áp dụng nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng trên, trong đó, cổ phần hoá được đánh giá là biện pháp hữu hiệu hơn cả.Không phải đến năm 1992, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mới được đề cập đến mà ngay từ cuối năm 1987, chính phủ đã nhận thấy cần phải cổ phần hoá một số DNNN và giao cho Bộ tài chính chủ trì việc làm thí điểm (điều 22 tại Quyết định 217/hđbt).Đó là chủ trương hoàn toàn đúng nhưng còn quá sớm do chưa có các điều kiện khách quan cũng như điều kiện chủ quan cần thiết như bao cấp quá lớn, kinh tế thị trường chưa phát triển, chưa có sự thống nhất về quan điểm, quyết tâm của toàn Đảng và toàn dân nên chủ trương này đã bị lãng quên. Đến 10/5/1990, chính phủ lại có quyết định143/ hđbt trong đó nhắc lại chủ trương cổ phần hoá một số DNNN.Và lần này vấn đề cổ phần hoá đã được nói rõ hơn về mục đích, cách làm...và mặc dù Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương rất tích cực làm được nhiều việc cho sự khởi đầu nhưng sau gần 2 năm, chủ trương đó vẫn dừng lại ở mức các dự thảo.Trên thực tế thì ở một số nơi cũng có tiến hành cổ phần hóa một phạm vi nào đó của DNNN nhưng nhìn chung không theo một bài bản thống nhất nên cũng không phát huy được tính hiệu quả của việc cổ phần. Hai năm sau,ngày 8/6/1992 chủ tịch hội đồng bộ trưởng lại ra quyết định số 202-CT về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần,kèm theo đó là đề án chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần áp dụng tại các doanh nghiệp được chọn làm thí điểm. Ngày 4/3/1993,thủ tướng chính phủ tiếp tục ra chỉ thị số 84/Ttg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN.Các DNNN được thí điểm cổ phần hoá đều mang lại những kết quả tốt đẹp,vì vậy chính phủ đã ra quyết định cổ phần hoá các DNNN trên diện rộng Ngày 7/5/1996,chính phủ ra nghị định số 28 nhằm thực hiện cổ phần hoá các DNNN trên diện rộng trong phạm vi cả nước.Sau đó nghị định số 44 của chính phủ ra đời có những sửa đổi thuận lợi tạo điều kiện cho quá trình cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn.Nhìn chung,bên cạnh các khó khăn còn tồn tại,quá trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Công tác chuyển đổi được thực hiện theo hai hướng cổ phần hoá các DNNN theo địa phương và theo các bộ ngành.Từ cuối năm 1991 đến cuối năm 1997,trong cả nước đã tiến hành cổ phần hoá được 18 DNNN đã đem lại một bộ mặt mới cho những doanh nghiệp này,bước đầu khẳng định được sự đúng đắn của chủ trương cổ phần hoá.Có thể đánh giá thành tựu bước đầu của cổ phần hoá qua một số dữ liệu sau: + Đối với doanh nghiệp: Vốn tăng bình quân 45%/năm. Doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm. Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng 19,1%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng 74,6%/năm. + Đối với nhà nước: nguồn thu của nhà nước từ thuế cao hơn nhiều cộng thêm vào đó lại là những khoản thu về sau khi bán cổ phần và lợi tức của nhà nước từ các công ty cổ phần.Hơn nữa các DNNN sau khi cổ phần hoá này còn có tỉ lệ tăng nộp ngân sách hàng năm là 98%/năm. b.Những khó khăn và giải pháp trong quá trình cổ phần hoá các DNNN : 1. Một Số Vấn Đề Đặt Ra Trong và Sau CPH: Tuy vậy ,tiến trình cổ phần hoá DNNN đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập về cơ chế ,chính sách , đặc biệt là đối với người lao động . Việc thực hiện các chính sách ưu đãi cho các DNNN chuyển đổi cũng là vấn đề nổi cộm , do cách hiểu và vận dụng không thống nhất giữa các bộ , các địa phương trong việc thực hiện về quyền ưu đãi và miễn giảm thuế .có nơi thì cho rằng doanh nghiệp sau chuyển đổi phải có phương án đầu tư thì mới được miễn giảm , nơi khác thì cho rằng cứ doanh nghiệp chuyển đổi là được hưởng ưu đãi như quy định tại luật khuyến khích đầu tư trong nước như doanh nghiệp mới thành lập (coi phương án CPH là phương án đầu tư thành lập doanh nghiệp mới ). Các chính sách ưu đãi về tín dụng , quyền thuê đất , hoạt động xuất nhập khẩu cũng không nhất quán : cơ chế của chính phủ thì cho phép , nhưng các ban , ngành thì hạn chế hoặc phân biệt đối xử Trong khi chính phủ thì cho phép các doanh nghiệp tiếp tục vay vốn của các NHTM , các tổ chức tín dụng của nhà nước ,nhưng phía ngân hàng lại quy định chỉ có những DN mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối thì mới được áp dụng , còn những DN mà nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối thì chỉ được áp dụng trong 2 năm đầu sau khi chuyển đổi Đối với các khoản nợ và tài sản tồn đọng đã được loại trừ khi xác định giá trị DN , theo cơ chế hiện hành thì DNNN thực hiện chuyển đổi được quỳên loại trừ một số khoản nợ và tài sản tồn đọng ra khỏi giá trị DN để CPH ,giao, bán ,khoán ... nhưng trên thực tế ,số lượng nợ và tài sản tồn đọng được phép loại trừ khi xác định giá trị DN đén thời điểm chuyển đổi vẫn chưa xử lý xong cũng không ít ( theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì hiện có khoảng 292 tỷ đồng nợ và tài sản tồn đọng vẫn còn đang nằm tại các DN sau chuyển đổi ). Mặc dù một số bộ ,địa phương đã có cơ chế uỷ quyền để bù đắp chi phí ,nhưng thực tế ,việc xử lý số nợ và tài sản này cũng không có dấu hiệu tiến triển ... Nguyên nhân do nhà nước không giải quyết triệt để số lao động dôi dư trước khi tiến hành CPH và không cho phép công ty cổ phần đổi mới cơ cấu lao động trong vòng 12 tháng sau khi cổ phần hóa , hoặc không cho phép đổi mới cơ cấu lao động trong vòng 3năm giao DN ,nên đã làm giảm tính hấp dẫn của CPH vì cơ cấu lao động cũ là yếu tố cản trở lớn đến khả năng làm ăn có hiệu quả của DN trong tương lai Chính sách ưu đãi đặc biệt đối với người lao động trong các DNNN CPH và tạo điều kiện cho họ mua cổ phiếu tại DN là một chính sách đúng đắn nhưng chưa tính đến tình trạng cụ thể của từng loại hình DNNN, đặc biệt là các DN làm ăn thua lỗ vì vậy chính sách này chưa hấp dẫn người lao động .Người lao động đặc biệt là đối tượng nghèo , do chưa dự đoán được tương lai của DN . chưa quen bỏ vốn đầu tư , chưa quen mạo hiểm nên chưa sẵn sàng mua cổ phiếu Bộ LD-TBXH cho biết , quy định về mua cổ phần giá ưu đãi hiện cũng là nỗi bức xúc của người lao động . Trong khi người lao động trong DN CPH được nhà nước bán với giá ưu đãi 10 cổ phiếu/năm công tác thì nhứng người lãnh đạo , quản lý DN và bố , mẹ ,vợ , chồng , con của họ cũng làm việc tại DN đó lại bị khống chế mức mua cổ phần .Trên thực tế , có DN đủ ( thậm chí thừa ) 10 cổ phần/năm công tác ,có DN chỉ giữ ở mức 5 hoặc 6 (có khi ít hơn ) cổ phần cho một năm công tác . Trước đây khi thực hiện thí điểm CPH theo quyết định 202/TTg , người lao động mua một cổ phần bằng tiền của mình thì được thêm một cổ phần , hưởng thụ tỷ lệ 50/50 , nhưng hiện nay , thực hiện nghị định 44/1998/CP thì tỷ lệ này là 30/70 nên đã có trường hợp người lao động bán ngay cổ phần được ưu đãi để được quyền ưu đãi và chênh lệch , gây khó khăn cho DN. 2 .Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh CPH: 2.1. Đổi mới, sắp xếp lại các DNNN. Cổ phần hoá DNNN và sắp xếp DNNN là hai nội dung hết sức cơ bản của Nghị quyết Trung ương IV dưới tiêu đề là tiếp tục đổi mới DNNN sắp xếp hai nội dung cải cách Doanh nghiệp này tách rời nhau thì tất sẽ không đạt được xếp vào loại cổ phần hoá, còn sắp xếp lại DNNN giúp xác định rõ những Doanh nghiệp cần phải cổ phần hoá để tạo điều kiện cho các cấp, các ngành nhận thức rõ cổ phần hoá là một việc làm bắt buộc không làm trước thì phải làm sau. Việc chọn ra những DNNN đủ tiêu chuẩn cho việc cổ phần hoá để đem lại thành công và tạo ra hiệu quả trong hoạt động về sau của DNNN đã được cổ phần hoá. Từ đó, chúng ta có thể chia ra 2 loại Doanh nghiệp: Doanh nghiệp thuộc loại cổ phần hoá và Doanh nghiệp không thuộc loại cổ phần hoá. Những Doanh nghiệp không thuộc loại cổ phần hoá bao gồm: Các Doanh nghiệp phục vụ cho an ninh quốc phòng. Các Doanh nghiệp có các công nghệ và sản phẩm kỹ thuật cao thuộc lĩnh vực bí mật quốc gia. Những DNNN đã và đang trong tình trạng phá sản, không có phương án khắc phục, cơ cấu vốn mất cân đối nghiêm trọng. Những DNNN quá nhỏ (với chủ sở hữu dưới 500 triệu VDN) 2.2. Thành lập các tổ chức ban chỉ đạo cổ phần cấp bộ, tỉnh, thành phố. Trên Trung ương hiện nay, chúng ta có Ban chỉ đạo Trung ương về cổ phần hoá còn đối với các bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nên thành lập một tổ chức gọi là Ban cổ phần hoá để sắp xếp phân loại DNNN đồng thời tổ chức triển khai chủ trương cổ phần hoá DNNN. Các tổ chức này được cấp kinh phí hoạt động độc lập và hoạt động theo chế độ chuyên trách từ khi tiến hành làm thí điểm cho đến lúc hoàn thành công tác cổ phần hoá. Để thành lập một tổ chức tham gia trực tiếp vào Hội đồng quản trị và ban giám đốc của Công ty cổ phần và tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại Doanh nghiệp sẽ là cơ quan trung ương các tổ chức cấp bộ, tỉnh, thành phố. Quá trình cổ phần hoá rất phức tạp do vậy việc thành lập một tổ chức chương trình chuyên nghiệp với vai trò là người tư vấn, hỗ trợ cho người tiến hành cổ phần hoá về mặt kỹ thuật (định giá tài sản Doanh nghiệp, xác định giá kinh doanh, phương án kinh doanh tiếp thị tại Doanh nghiệp cổ phần, biện pháp quản lý sau cổ phần hoá....) là rất cần thiết trong lĩnh vực cung cấp thông tin cho hãng, kinh nghiệm cổ phần hoá ở các Doanh nghiệp khác đặc biệt giúp cho các Doanh nghiệp xây dựng phương án thực hiện cổ phần hoá và phương án đổi mới Doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá. 2.3. Hoàn thiện khung pháp lý cho quá trình cổ phần hoá. Theo ông Nguyễn Văn Huy, Phó trưởng Ban chỉ đạo Trung ương đổi mới dịch vụ và Ban chỉ đạo Trung ương cổ phần hoá Doanh nghiệp: Việc tạo lập cho được một khung pháp lý thông thoáng, hiệu quả đang là yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp. Về nguyên tắc xác định giá trị Doanh nghiệp hiện còn rắc rối, gây mất nhiều công sức, thì giờ không cần thiết. Số vốn của Nhà nước ít (dưới 5 tỷ VND) thì cho phép được kiểm toán nội bộ để xác định giá trị Doanh nghiệp mà không nhất thiết phải được cơ quan kiểm toán độc lập xác nhận. Những số liệu trong sổ sách kế toán đã qua xác định của kiểm toán nội bộ được xem là những số liệu chính thức để trình các cơ quan thẩm quyền xét duyệt trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp. Đối với những Doanh nghiệp không tính được tỷ suất lợi nhuận so với vốn kinh doanh bình quân của ba năm cuối trước khi cổ phần hoá vì không có Doanh nghiệp tương ứng để so sánh thì sẽ được vận dụng các cách linh hoạt. Bên cạch việc hoàn thiện dần một văn bản chủ đảo để hướng dẫn quá trình cổ phần hoá thì Nhà nước cần ban hành pháp lệnh về cổ phần hoá có tính chất bắt buộc việc thực hiện cổ phần hoá đối với các DNNN. Chúng ta cũng cần sớm ban hành và hoàn thiện một số luật căn bản làm cơ sở pháp lý cho quá trình cổ phần hoá như: các luật thuế, luật thừa kế và thế chấp, luật Ngân sách, luật về phát hành và giao dịch mua bán chứng khoán. ... Với một khung pháp lý hội đủ 2 tiêu chuẩn đầy đủ và chặt chẽ thì các DNNN vốn e ngại việc cổ phần hoá cũng sẽ phải thực hiện cổ phần hoá. 2.4. Giải quyết nhanh chóng một số khúc mắc tồn tại trong Doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá và sau khi thành lập Công ty cổ phần. a) Vấn đề nợ đọng: Để xử lý chính xác, cần phải dựa vào những nợ nần, những nguyên nhân khách quan bao gồm: thay đổi cơ chế chính sách, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tư nhân, cá thể cho vay không còn khả năng tự trả nợ, do DNNN khác chiếm dụng nay đã bị giải thể không còn khả năng trả nợ. Ngoài ra còn do thiên tai, tư nhân có thể bị chết...., những khoản nợ đã được cơ quan chức năng xem xét xoá nợ. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm: tham ô, lợi dụng chức vụ, cố ý làm trái, mua bán lòng vòng từ nguồn vốn đi đến chiếm dụng, quản lý yếu kém, vi phạm chế độ tài chính, khai khống và xác nhận khống nợ, thành lập Doanh nghiệp không đúng chức năng, không đủ điều kiện đẫn đến phát sinh nợ. Ngoài ra còn người giả mạo, giải thể để xù nợ, nợ có móc ngoặc giữa con nợ và chủ nợ, nợ phát sinh không phù hợp với hợp đồng kinh tế. Theo ban chỉ đạo và thanh toán nợ Trung ương, sau khi làm thủ tục sẽ xử lý ngay các DNNN có đủ điều kiện, loại cần phân tích thêm về những phát sinh nợ, loại nào vượt thẩm quyền phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ giải quyết, có loại chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát nhân dân đề nghị khởi tố. Riêng đối với các Doanh nghiệp cổ phần hoá thì khi xác định giá trị Doanh nghiệp để phát hành cổ phiếu sẽ trừ đi các khoản nợ và các khoản nợ này sẽ do Công ty cổ phần sắp thành lập thanh toán theo quyết định của các tổ chức tín dụng. b) Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Chuyển từ DNNN sang Công ty cổ phần đòi hỏi hầu hết các Doanh nghiệp phải sắp xếp đổi mới lại tổ chức hoạt động. Hậu quả là thường dẫn đến việc dư thừa lao động. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết việc làm và chế độ cho bộ phận cán bộ công nhân viên một cách thoả đáng để cho moi người dân đều nhận thức được cổ phần hoá là một hướng đi tích cực của Nhà nước. Nhà nước cho phép dùng tiền bán cổ phiếu trong cổ phần của Nhà nước để đóng bảo hiểm và thanh toán cho nhiều cán bộ công nhân viên về nghỉ hưu, về chế độ một lần trước khi Doanh nghiệp chuyển sang Công ty cổ phần, hoặc có thể dùng tiền từ nguồn bán các Doanh nghiệp nhỏ phá sản, những ứ đọng chậm luân chuyển, tài sản không cần dùng để trợ cấp cho các đối tượng này. Ngoài ra đối với người lao động bị giảm biên chế cần bổ sung một số chính sách như thế nào? Vấn đề huy động tiền bán cổ phiếu vào sử dụng ngay cho mục tiêu đào tạo người lao động, trợ giúp lao động dôi dư hoặc cho chính Doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng là điều rất thiết thực để phát huy hiệu quả của đồng vốn, cơ quan tài chính cần có hướng dẫn cụ thể cho Doanh nghiệp thực hiện. c) Bán cổ phiếu ưu đãi. Nghị định 28/CP quy định chính sách cấp không một số cổ phiếu tương đương 10% giá trị Doanh nghiệp và bán chịu một số cổ phiếu tương đương 15% giá trị Doanh nghiệp theo lãi suất ưu đãi đối với người lao động trong DNNN tiến hành cổ phần hoá. Dù là cấp không và bán chịu (theo NĐ/28 CP ) hoặc bán giảm giá và bán trả dần (theo NĐ 44/CP ) thì thực chất cũng đều giúp cho người lao động có được sở hữu cổ phần từ một phần nguồn vốn hiện có hoặc nguồn sẽ thu của Nhà nước ở Công ty cổ phần hoá, song NĐ 28/ CP qua thực tế đã biểu hiện nhược điểm là: Do quy định tổng số cổ phần cấp không tương đưong 6 tháng lương cấp bậc nên Doanh nghiệp thực hiện chưa được 30% mức quy định của Nhà nước. Mặt khác, loại cổ phiếu này vẫn thuộc sở hữu Nhà nước không được chuyển nhượng nên chưa thật hấp dẫn. Về tổng cổ phần ưu đãi cho người lao động, NĐ 44/CP theo Thông tư 104-TC của Bộ Tài chính “mỗi cổ phần bán ưu đãi, người lao động phải trả 70.000 đồng còn 30.000 là giá trị ưu đãi cho người lao động”. Do đó tổng giá trị ưu đãi là tổng giá trị được giảm giá còn giá trị cổ phần ưu đãi là gồm cả phần mua bằng tiền mặt và phần giảm giá. Nếu tổng số năm công tác của người lao động trong Doanh nghiệp nhân với mức giảm giá, tương đương 20% phần vốn của Nhà nước tại Doanh nghiệp thì tổng giá trị cổ phần ưu đãi có thể hơn 20% cổ phần vốn của Nhà nước tại Doanh nghiệp. Việc quy định mức cổ phiếu cấp cho mỗi người và tổng số cổ phiếu được cấp không quá 10% giá trị Doanh nghiệp là chưa hợp lý. Việc quy định mua chịu một số cổ phiếu trả chậm trong 5 năm với lãi suất 4%/năm và hàng năm người lao động phải trả tối thiểu 20% giá trị cổ phiếu mua chịu và 4% lãi trên số nợ vay là chưa khuyến khích người lao động. Khi thực hiện cổ phần hoá, nhiều Doanh nghiệp cần được giải quyết cho cán bộ công nhân viên nghỉ hưu, mất sức, về hưởng chế độ một lần nhưng khó khăn về tài chính nên không đóng bảo hiểm xã hội liên tục và cơ quan bảo hiểm xã hội không làm thủ tục. Để động viên khuyến khích người lao động, đề nghị Nhà nước cho phép vận dụng tổng số cổ phiếu được cấp không quá 10% giá trị Doanh nghiệp hoặc không quá 12 tháng lương cấp bậc đối với mỗi người lao động: Nhà nước nên quy định mọi người lao động được mua chịu số cổ phiếu theo quy định, phần cổ phiếu mua bằng tiền mặt là tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế của mỗi người không khống chế mức tối đa nếu ở đó phần cổ phiếu được phép bán ra người lao động không mua hết. Để khuyến khích nhiều Doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, Nhà nước nên có chính sách cho phép dùng tiền bán cổ phiếu để đóng bảo hiểm và thanh toán cho những cán bộ công nhân viên về nghỉ chế độ một lần trước khi Doanh nghiệp chuyển sang Công ty cổ phần. Hoặc cho phép Ban cổ phần hoá Doanh nghiệp được sử dụng nguồn tài chính từ việc bán tài sản, hàng hoá ứ đọng, chậm luân chuyển, tài sản không cần dùng, một phần vốn giữ để thanh toán có chế độ hưu trí, mất sức, nghỉ chờ việc, nghỉ hưởng trở cấp một lần của người lao động ở những cơ sở không có điều kiện mua bảo hiểm xã hội trước khi cổ phần hoá. Đề nghị giảm giá trị Doanh nghiệp đối với các Doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá trong năm 1997: 5%; 1998: 3%; 1999: 0%. Về vốn, vấn đề bán cổ phiếu cho người nước ngoài, theo ông Trần Văn Tá - Thứ trường bộ Tài chính thì bước đầu quan trọng nhất là tuyên truyền giải thích để họ biết về chủ trương, cơ chế chính sách về cổ phần hoá của Nhà nước. Hiểu được việc mua cổ phần có được những lợi ích gì khác so với hình thức đầu tư trước đây. Phải lựa chọn các Doanh nghiệp trong loại hình Doanh nghiệp đã được Chỉnh phủ cho phép tiến hành thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài, đó là các Doanh nghiệp được phép bán cổ phần ra công chúng. Để khuyến khích các Doanh nghiệp có vốn tích luỹ cao (hơn 80% giá trị Doanh nghiệp) thì mức cổ phiếu được mua chịu, trả chậm sẽ nâng lên mức tối da là 30% giá trị tài sản Doanh nghiệp. Đối với phần thủ nhập từ cổ tức của các cổ đông là người lao động trong Doanh nghiệp, dự kiến sẽ được miễn thuế thu nhập trong 2 năm đầu. Ngoài ra, Nhà nước nên quy định Giám đốc, kế toán trưởng không được mua quá cổ phần ưu đãi bình quân của Doanh nghiệp nhằm đảm bảo công tác trong Doanh nghiệp và khuyến khích vai trò tích cực của Giám đốc trong công tác cổ phần hoá. Kết luận Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng có tầm chiến lược nhằm thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới cơ cấu DNNN. Song đó không phải là “phép mầu” luôn gặp thuận lợi. Trước những thách thức đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn của quá trình hội nhập quốc tế và tác động của cơ chế thị trường, không có ngoại lệ nào đối với bất kỳ loại hình Doanh nghiệp nào. Sự thành công của một Doanh nghiệp tuỳ thuộc trước tiên vào sự sáng suốt của đội ngũ cán bộ quản lý và ý thức làm chủ của tậpt hể lao động trong Doanh nghiệp. Cổ phần hoá là mô hình thúc đẩy hình thành các yếu tố tích cực đó. Đặc điểm xã hội hoá khá rộng rãi của mô hình này có thể vận dụng thích hợp trong nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh hiện nay của đất nước khi thực hiện cổ phần hoá DNNN thuận lợi có mà khó khăn cũng có do vậy Đảng và Nhà nước cần vận dụng kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới song vẫn giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Đó là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của qúa trình cổ phần hoá DNNN ở nước ta.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCo phan hoa cac DNNN - bai khac 2.DOC