Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-Lông gây ra ở thành phố Hồ Chí Minh

Lâu nay người dân trên hầu khắp hành tinh hơn 6 tỉ người đã trở nên quen thuộc với việc sử dụng túi ni-lông hàng ngày. Tuy nhiên, những người sử dụng túi ni-lông đa phần mới chỉ quan tâm tới những tiện ích của nó mà không hề biết những chiếc túi ni-lông được tạo ra từ Poyethylen, một loại nhựa dẻo nóng từ dầu mỏ và việc sử dụng túi ni lông tràn lan sẽ gây tác động xấu tới môi trường ra sao. Mỗi năm, tồn thế giới sử dụng hơn 13 tỷ túi ni-lông, trung bình mỗi người sử dụng 220 túi. Mỗi túi ni-lông thường chỉ được sử dụng 12 phút trước khi bị vứt đi nhưng chúng lại tồn tại trong môi trường đến hàng nghìn năm. Hiện nay, túi ni-lông hiện đang trở thành “thảm họa” môi trường ở Việt Nam. Việc hạn chế việc dụng bừa bãi túi ni-lông và tiến tới từng bước loại trừ túi ni-lông ra khỏi đời sống là việc cần phải làm và phải làm ngay trước khi Việt Nam trở thành một “bãi rác ni-lông”. Túi ni-lông được làm từ những chất khó phân hủy. Muốn túi ni-lông phân hủy hồn tồn phải mất hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4784 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-Lông gây ra ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BÀI TẬP VỀ NHÀ MÔN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Chủ đề : NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM DO TÚI NI-LÔNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. Lớp K13M1 Nhóm: 5 …..Gồm các SV: SV1: NGUYỄN TUẤN NGHỊ SV2: MAI VĂN DŨNG SV3: VÕ HỒNG SANG SV4: BÙI TẤN THIÊN KIM SV5: TRẦN MINH HÙNG SV6: NGUYỄN QUỐC ĐẠT TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010 Lời nói đầu Lâu nay người dân trên hầu khắp hành tinh hơn 6 tỉ người đã trở nên quen thuộc với việc sử dụng túi ni-lông hàng ngày. Tuy nhiên, những người sử dụng túi ni-lông đa phần mới chỉ quan tâm tới những tiện ích của nó mà không hề biết những chiếc túi ni-lông được tạo ra từ Poyethylen, một loại nhựa dẻo nóng từ dầu mỏ và việc sử dụng túi ni lông tràn lan sẽ gây tác động xấu tới môi trường ra sao. Mỗi năm, tồn thế giới sử dụng hơn 13 tỷ túi ni-lông, trung bình mỗi người sử dụng 220 túi. Mỗi túi ni-lông thường chỉ được sử dụng 12 phút trước khi bị vứt đi nhưng chúng lại tồn tại trong môi trường đến hàng nghìn năm. Hiện nay, túi ni-lông hiện đang trở thành “thảm họa” môi trường ở Việt Nam. Việc hạn chế việc dụng bừa bãi túi ni-lông và tiến tới từng bước loại trừ túi ni-lông ra khỏi đời sống là việc cần phải làm và phải làm ngay trước khi Việt Nam trở thành một “bãi rác ni-lông”. Túi ni-lông được làm từ những chất khó phân hủy. Muốn túi ni-lông phân hủy hồn tồn phải mất hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm. Trong khi đó, hiện nay tại Việt Nam số lượng túi ni-lông được tập trung về bãi rác để xử lý tập trung chiếm tỷ lệ không cao, đa phần còn lại bị vứt xuống sông, hồ, cống rãnh, kênh rạch, gây ngập úng… Nghiêm trọng hơn các nhà khoa học còn phát hiện ra rằng từ đất và nước bị ô nhiễm bởi túi ni-lông sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con người cả trực tiếp và gián tiếp. Thực tế, có nhiều loại túi ni-lông có lẫn lưu huỳnh, được làm từ dầu mỏ nguyên chất. Không thể loại trừ khả năng nhiễm độc từ túi ni-lông được dùng để bọc các loại thực phẩm tươi sồng, đồ ăn chín…Ngồi ra, bên cạnh ảnh hưởng tới nguồn nước,đất, sức khỏe của cộng đồng, ngồi ra còn gây ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị. PHẦN I GIỚI THIỆU CHUNG * Bối cảnh của nghiên cứu Hiện nay tình hình ô nhiễm tui nilon đang là một vấn đề cần được quan tâm ,vì túi nilon chỉ đem lại cái lợi nhỏ trước mắt nhưng sau đó là những tác hại vô cùng khủng khiếp đó là gay ô nhiễm môi trường Túi ni-lông được sản xuất từ nhựa polyethylene có nguồn gốc từ dầu mỏ và quá trình tự phân hủy của nó diễn ra rất chậm. Thực tế, dưới tác động của ánh sáng, túi xốp vỡ ra thành nhiều phân tử nhựa nhỏ hơn, độc hại hơn và cuối cùng gây ô nhiễm cho đất và nguồn nước. Chúng có thể len lỏi vào thức ăn của động vật và con người. Khi không được vứt ra bãi rác hoặc đốt bỏ, túi nhựa thường được nước đưa ra biển thông qua đường cống thải, sông rạch. Theo Cơ quan Khảo sát Nam cực Anh Quốc, túi nhựa được thấy trôi nổi ở vùng biển phía Bắc Bắc cực trong khi Trung tâm bảo tồn môi trường biển của Mỹ gần đây cho biết túi nhựa chiếm hơn 10% số rác tấp vào đường bờ biển nước này. Túi ni-lông có thể là thảm họa kết liễu đời sống của nhiều sinh vật. Theo Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã thế giới, nhiều cá thể thuộc khoảng 200 lồi sinh vật biển (như cá voi, cá heo, hải cẩu, rùa...) đã chết sau khi nuốt phải túi ni-lông do nhầm là thức ăn; nhiều lồi thủy sản cũng bị chết ngộp khi chui vào túi ni-lông. Theo các nhà khoa học, trong một số loại túi ni lông có lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất, khi bị đốt cháy, gặp hơi nước sẽ tạo thành axit sunfuric dưới dạng các cơn mưa axit, rất có hại cho phổi người và động vật. Tệ hơn, túi ni lông làm bằng nhựa PVC có chứa clo, khi cháy tạo ra chất đioxin và axit clohiđric vô cùng độc hại. *Địa điểm ,khu vực nghiên cứu Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người. PHẦN II TRÌNH BÀY ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU CHI TIẾT 1. Tên đề tài tiểu luận NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM DO TÚI NI-LÔNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. 2. Cơ quan quản lý Sở tài nguyên môi trường 3. Cơ quan chủ trì Khoa Công nghệ và Quản lý môi trường- trường ĐHDL Văn Lang. 4. Các cơ quan phối hợp Bộ Tài nguyên và Quản lý môi trường. Sở tài nguyên và môi trường. Cục Bảo vệ Môi trường. 5. Tình hình nghiên cứu 5.1 Trong nước: Ở Việt Nam, mỗi ngày các bà nội trợ cũng thải ra hàng triệu túi, bao bì bằng ni-lông. Chỉ một phần nhỏ trong số này được thu gom, tái chế, còn phần lớn bị vứt đi vô tội vạ không chỉ gây lãng phí về kinh tế, mà còn đặt ra nhiều vấn đề về môi trường. Việc quá lạm dụng sản phẩm ni-lông trong bao gói, đựng, chứa thực phẩm, hàng hóa, cùng với sự bừa bãi, vô ý thức của con người đã tạo thành thứ rác rưởi lan tràn khắp nơi, từ các khu du lịch, di tích, danh lam thắng cảnh, đến đồng ruộng, hồ ao, sông ngòi... Theo Tổ chức bảo vệ thiên nhiên WWF, các bãi biểncủa Pháp luôn bị ô nhiễm bởi khoảng 122 triệu chiếc túi ni-lông. Ở Việt Nam chưa có con số thống kê cụ thế, nhưng chắc chắn mức độ ô nhiễm và khối lượng rác thải ni-lông sẽ vượt qua con số này nhiều. Theo các nhà khoa học, việc sử dụng bao bì ni-lông có thể gây nguy hại đối với môi trường bởi đặc tính không phân hủy của plastic. Bao bì ni-lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các lồi thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cây cỏ, dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi. Bao bì ni-lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống thốt nước thải sẽ làm cho ruồi muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni-lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải hoặc mắc phải. Nhưng nguy hại hơn cả là tác hại của bao bì ni-lông đối với sức khoẻ con người. Những bao bì ni-lông nhuộm màu sẽ làm ô nhiễm thực phẩm do chúng chứa các kim loại như chì, ca-đi-mi (một loại kim loại, sản phẩm phụ của quá trình sản xuất kẽm, chì, đồng từ quặng) gây tác hại cho não và là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung thư phổi. Khi bị đốt cháy, các các loại bao bì ni-lông sẽ tạo thành nhiều khí độc, đặc biệt là chất dioxin có thể gây ngộ độc, gây ngất, nôn ra máu, khó thở, gây rối loạn chức năng, bị ung thư, giảm khả năng miễn dịch, ảnh hưởng đến các tuyến nội tiết. Với phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai,khi hít phải loại khí này, rất dễ đứa trẻ sinh ra đời sẽ bị mắc các dị tật bẩm sinh. Hơn nữa, từ nhận thức đến việc nâng lên thành chính sách còn một khoảng cách quá xa. Cũng đã có nhiều nhà khoa học lên tiếng về mối hiểm hoạ này nhưng đến nay, trong hệ thống các văn bản pháp lý của Việt Nam chưa có quy định nào quy định việc cấm hay hạn chế sử dụng túi ni lông trong đời sống. Các địa phương cũng chưa tổ chức được việc tái chế túi ni lông nên phó mặc cho những cơ sở thủ công với công nghệ lạc hậu, không hợp vệ sinh. Trong hoàn cảnh hiện tại nước ta còn sử dụng rất nhiều túi nilon thì việc tuyên truyền giáo dục ý thức bao hàm việc giáo dục việc bỏ túi nilon đúng nơi quy định thay vì bỏ khắp nơi trên mặt đất và song rạch. 5.2Ngồi nước Trung Quốc Trung Quốc là nước đi đầu trong việc hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng ni-lông trong bao gói sản phẩm, đựng hàng hóa. Nhiều nước cũng đã tham gia "Một ngày không có ni-lông" vì môi trường sống, vì sức khỏe của con người. Nhưng trong tương lai, vẫn cần các nhà nghiên cứu chế tạo ra một loại hợp chất có thể thay thể được ni-lông nhưng lại dễ phân hủy, không độc hại đến môi trường, môi sinh. Trên thế giới, hầu hết các nước phát triển đã sử dụng túi ni lông tự phân huỷ ngay từ những thập niên 30-40 của thế kỷ trước, nhưng ở ta, mọi chuyện gần như mới chỉ bắt đầu. Trong “cuộc chiến” với túi ni lông, đã có những đơn vị đi tiên phong như Trung tâm Nghiên cứu sản xuất các chế phẩm sinh học thuộc Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam. Trung tâm này đã sản xuất túi không độc từ nguyên liệu polymer thiên nhiên. Công ty sản xuất kinh doanh của Người tàn tật Hà Nội cũng mạnh dạn mở một hướng đi mới bằng việc nhập khẩu một dây chuyền sản xuất túi ni lông tự phân huỷ hiện đại của Đài Loan. Không khí cacbonic, không metan, không dioxin độc hại nhưng sản phẩm làm ra lại khó đưa ra thị trường vì giá bán ra cao gấp 3-4 lần túi ni lông bình thường. Không tiêu thụ kịp, những chiếc túi tự tiêu này lâu ngày cũng bị phân huỷ dưới tác động của ánh sáng mặt trời. Trong trường hợp này, gánh nặng kinh doanh không đùa với những người “ưa mạo hiểm”. Ngay cả trên thế giới, việc tìm hướng đi cho vấn đề rác túi ni lông bằng cách nghiên cứu, sản xuất túi ni lông tự phân huỷ là một giải pháp tối ưu vì dung hồ được lợi ích kinh tế và vệ sinh môi trường. Nhưng để thành công, trong giai đoạn đầu, những người đi tiên phong cần một chỗ dựa cả về chính sách lẫn ưu đãi về tài chính để họ không “đơn độc”. Chia sẻ trách nhiệm với những doanh nghiệp này cũng là cách mà người tiêu dùng nên làm, chẳng hạn như đóng phí cho những loại túi ni lông dùng một lần rồi bỏ. Ở các siêu thị tại Pháp, người mua hàng phải trả 5 xu cho một chiếc túi sinh thái được sản xuất từ nguyên liệu tự nhiên. Tiền phí này được tính trực tiếp trên hố đơn tính tiền của siêu thị. Số tiền nhỏ nhoi nhưng khiến người ta nhớ mãi bởi nó nhắc nhở người sử dụng về trách nhiệm của mỗi cá nhân với môi trường. Nước Anh Theo Telegraph, xứ Wales sẽ là nơi đầu tiên tại đảo quốc sương mù áp dụng thuế đối với túi nilon đựng hàng hóa. Cơ quan lập pháp xứ Wales hôm qua thông báo sắc thuế mới sẽ bắt đầu được áp dụng từ đầu năm 2011. Với mỗi túi nilon người sử dụng phải nộp 15 xu (khoảng 4.500 VNĐ) cho cửa hàng. Số tiền thu được sẽ dành cho các dự án bảo vệ môi trường. Những người ủng hộ chủ trương này hy vọng sắc thuế mới sẽ khuyến khích người dân đựng hàng hóa bằng loại túi sử dụng nhiều lần hoặc có khả năng phân hủy nhanh. Ảnh minh họa của Telegraph. Jane Davidson, Bộ trưởng Môi trường xứ Wales, nói: "Những túi nilon bị vứt bỏ là nguồn tài nguyên lãng phí. Chính quyền nhận thấy việc kêu gọi người dân tình nguyện tẩy chay túi nilon không phát huy tác dụng đáng kể. Vì thế chúng tôi phải hành động. Ở nhiều nước khác, tình trạng sử dụng túi nilon giảm hẳn khi người dân phải chịu thuế". Telegraph cho biết, mỗi năm người dân xứ Wales vứt 480 triệu túi nilon. Loại túi này chỉ phân hủy hồn tồn sau ít nhất 1.000 năm. Ireland đã áp dụng thuế túi nilon từ năm 2002 với mức thuế 15 xu/túi. Kể từ đó tới nay số tiền thu được đã đạt 109 triệu bảng (153 triệu USD). Số lượng túi nilon mà người dân Ireland sử dụng giảm tới 90% và chi phí xử lý rác thải cũng giảm rõ rệt. Nước Pháp Ở nhiều siêu thị của Pháp, người mua hàng được khuyến khích mua các túi đựng hàng loại lớn và siêu thị sẽ không phát các túi nylon đựng hàng cỡ thông thường nữa. Các túi nylon cỡ lớn này giá rất rẻ (khoảng 0,1 euro, tương đương với 2.000 đồng), có thể sử dụng nhiều lần và khi rách thì có thể đem đến siêu thị để đổi lấy túi mới. Có nhiều chất liệu, loại nylon thông thường, loại nylon có thể phân huỷ sinh học (biodegrable), loại bằng chất liệu giấy... và các kích cỡ khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng, của từng gia đình. Chiến dịch này đã rất được người dân Pháp ủng hộ và đang được nhân rộng trên tồn nước Pháp. . Ấn Độ Hiện nay ở ẤN ĐỘ nhiều bang của nước này cũng chính phủ cũng đã đưa ra nhiều biện pháp để giảm xử dụng túi nilon, từ năm 2005 nhiều bang của nước này cũng đã đưa ra quyết định cấm sử dụng túi nilon. Tuy nhiên việc xử dụng tui nilon đã trở thành thoi quen của người dân ẤN ĐỘ cho nên việc áp dụng chính sách moi cũng chưa được hiệu quả Đức đã có các chủ trương cấm sử dụng túi nilon và khuyến khích người tiêu dùng  sử dụng túi bằng giấy và các loại vật liệu thân thiện với môi trường khác,và tui sinh học là diều mà các nhà kdoa hoc nghĩ đên đầu tiên,bởi vì tính tiện lợi của loại túi này nhưng vấn đề túi giả túi sinh học đã xuất hiện ,làm ảnh hưởng tới môi trường và sự tin cậy của người dân 5.3 Tính cần thiết của nghiên cứu Hiện nay, mỗi ngày số lượng túi nilon được tập trung về bãi rác thành phố Hồ Chí Minh lên tới gần 50 tấn, đó là còn chưa kể tới số túi nilon vứt ở trên đường phố và các cống rãnh. Phần lớn các túi nilon là không phân hủy sinh học nên khi lẫn vào đất, nó làm giảm sự tăng trưởng của cây trồng, kẹt cống rãnh, không thốt nước được gây ra ngập cục bộ, ảnh hưởng gián tiếp tới sức khỏe con người và cảnh quan đô thị. Nhưng số người có ý thức sử dụng hạn chế sử dụng túi nilon không nhiều. Để góp phần bảo vệ môi trường, nhiều hệ thống siêu thị cũng đã triển khai giải pháp hạn chế sử dụng túi nilon bằng cách thay thế túi nilon thường bằng túi tự phân hủy. Trung bình mỗi ngày tại siêu thị Maximark sử dụng hết 80kg túi nilon phân hủy để đựng đồ cho khách hàng. Hiện nay, một số siêu thị khác của TP. HCM cũng đang khuyến khích khách hàng dùng túi sử dụng nhiều lần thay cho túi nilon sử dụng một lần. Tuy nhiên, để hạn chế sử dụng túi nilon, nếu chỉ có sự nỗ lực của các doanh nghiệp thôi thì chưa đủ, quan trọng là mỗi người tiêu dùng phải thay đổi thói quen đã tồn tại từ rất lâu nay.Nhà nước cần phải đưa ra các biện pháp thuyết phục để người dân thay đổi dần thói quen xử dụng túi nilon Từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy được tác hại của túi nilon tới môi trường như thế nào, nó ảnh hưởng trực tiếp đến con người và một tác hại to lớn về sau đó là làm thay đổi khí hậu ,góp một phần lớn vào việc hủy hoại môi trường 6. Mục tiêu của đề tài - Làm quen với các phương pháp đánh giá tác động môi trường. - Nhận biết các vấn đề môi trường. - Hiểu được cách giải quyết. - Các vấn đề còn tồn tại. - Xác định các ảnh hưởng nhằm đề ra các biện pháp kỹ thuật và quản lý để giảm đến mức thấp nhất các ảnh hưởng xấu và phát huy cao nhất các ảnh hưởng tốt. Một hệ thống ĐTM lý tưởng phải được áp dụng cho tất cả các dự án có ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và xác định rõ ảnh hưởng nào là nghiêm trọng nhất. 7. Nội dung nghiên cứu chính - Xác định hiện trạng ô nhiễm môi trường do túi ni_lông gây ra. - Đánh giá tác động môi trường do các hoạt động chôn lấp chất thải rắn đối với môi trường; - Đề xuất các biện pháp công nghệ để xử lý ô nhiễm; - Đề xuất các biện pháp quản lý phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường. 8. Phương pháp nghiên cứu - Khảo sát thực tế, lấy ý kiến của người dân, người mua hàng về tác hại của việc sử dụng túi ni-lông. - Thu thập số liệu từ cơ quan quản lý trực thuộc, tham khảo thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Đánh giá tác động tổng hợp bằng các phương pháp đã học: sơ đồ lưới, bảng liệt kê, ma trận, … 9. Sản phẩm của đề tài - Ngiên cứu về vấn đề xử dụng túi ni-long hiện nay của người dân trên địa bàn thành phố HỒ CHÍ MINH ,trình bày dưới dạng báo cáo do bộ tài nguyên và môi trường phê duyệt 10. Dự tốn kinh phí -Khoảng 50 nghìn đồng tiền truy cập internet và 100 nghìn đồng tiền xăng đi khảo sát 11. Tiến độ thực hiện Nội dung Tuần 1 Tuần 2 Thu thập số liệu Khảo sát khu vực ô nhiễm Nghiên cứu những ảnh hưởng của ô nhiễm do tui nilon Xây dựng báo cáo tổng hợp Nộp bài PHẦN III NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH 3.1 Giới thiệu về thành phố HỒ CHÍ MINH Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887-1901. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, lãnh thổ Việt Nam hồn tồn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam)[1], mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người. Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 20,2 % tổng sản phẩm và 27,9 % giá trị sản xuất công nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70 % lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất. Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Trong nội ô thành phố, đường xá trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống giao thông công cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất. 3.2 Vị trí địa lí Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Vùng cao nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, tồn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét. 3.3 Điều kiện tự nhiên Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, Thành phố Hồ Chí Mình có nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt đó trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngồi ra còn có gió tín phong theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa, 80%, và xuống thấp vào mùa không, 74,5%. Trung bình, độ ẩm không khí đạt bình quân/năm 79,5%. 3.4 Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngồi. Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngồi quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%. Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội. Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tồn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn. 3.5 Xã hội Dân cư. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Thành phố Hồ Chí Minh có dân số 7.123.340 người, gồm 1.812.086 hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người chiếm 51,9% . Dân số thành phố tăng nhanh Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều, ngay cả các quận nội ô. Trong khi các quận 3, 4, 5 hay 10, 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km² thì các quận 2, 9, 12 chỉ khoảng 2.000 tới 6.000 người/km². Ở các huyện ngoại thành, mật độ dân số rất thấp, như Cần Giờ chỉ có 96 người/km². Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 1,9%. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, có số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu. Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh của những quốc gia công nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 71,19, con số ở nữ giới là 75,00. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002. Tồn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh. Thế nhưng mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh tồn thành phố. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hồn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ. Sở Y tế thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngồi để tăng chất lượng phục vụ. Giáo dục Về mặt hành chính, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cở sở giáo dục từ bậc mầm non tới phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, tồn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III. Ngồi ra, theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành phố có 1.169 cơ sở công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục. Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (đại học Sài Gòn và đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với năm đại học thành viên. Nhiều đại học lớn khác của thành phố như Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế... đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia. Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây nhưng giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không biết chữ vẫn còn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều trường học sinh phải học ba ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thành. 4. Hiện trạng ô nhiễm túi nilon tại thành phố HỒ CHÍ MINH Túi nilon đã trở thành vấn nạn của các thành phố lớn cũng như ở nông thôn. Hầu như không có con đường, ngõ phố hay lối xóm nào không có túi nilon phất phơ, vương vãi. Cảnh tượng các ao hồ hay sông ngòi bồng bềnh những túi rác đã trở nên quá quen thuộc. Tuy nhiên túi nilon lại mang tiềm ẩn ô nhiễm môi trường rất độc hại và nó có 1 độ bền cơ học rất cao nên rất khó để phân hủy. Vì thế, túi nilon được xem là một trong những loại rác khó phân hủy nhất thế giới. Những chiếc túi bồng bềnh làm tắc nghẽn sông hồ, cống rãnh, làm chết nhiều lồi thủy sinh, làm đất "ngạt thở" và là nơi trú ngụ và phát tán của côn trùng, gây ô nhiễm nặng nề. Việc sử dụng tứi nilon để đựng đồ ăn, đặc biệt là đồ ăn nóng có thể gây hại cho sức khỏe cho con người. Những chất độc hại từ túi nilon làm mới, đặc biệt là tái chế, càng nguy hiểm hơn. Ung thư càng ngày càng nhiều, nguyên nhân từ những việc mà chúng ta có thể tránh được thì hãy nên tránh. Túi nilon tại các kênh rạch Hàng năm, Việt Nam sản xuất hàng nghìn tấn túi nilon các loại, xếp vào hàng các quốc gia “xài sang” túi nilon trên thế giới. Tính trung bình mỗi gia đình Việt Nam hàng ngày sử dụng không dưới 10 túi nilon các loại. Túi nilon được sử dụng hàng ngày xong được vứt vào sọt rác, xuống cống, mương thốt nước, vườn hoa, vỉa hè, lòng đường... Bất cứ chỗ nào có bóng dáng con người là nơi đó túi nilon được “hào phóng” thả về với gió, trả lại thiên nhiên một cách vô tư. Đây là cảnh tượng thường thấy khắp các sông, hồ 5. Đánh Giá Tác Động Môi Trường Do Túi Nilon Gây Ra Với số lượng túi nilon thải ra môi trường quá nhiều hiện nay thì vấn dề ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết. -Ảnh hưởng tới môi trường nước Túi nilon thải ra kênh rạch làm tác nghẽn dòng chảy , ảnh hưởng tới hoạt động sống của con người ,cá chết hàng loạt ảnh hưởng tới hệ sinh thái , Túi nilon kẹt sâu trong cống rãnh, kênh rạch còn làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch gây ứ đọng nước thải và gây ngập úng. Các điểm ứ đọng nước thải sẽ là nơi sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh -Ảnh hưởng tới môi trường đất Túi nilon phân hủy rất chậm nên khi chôn vào đất sẽ làm cho nền đất ở đó yếu , sau một thời gian các chất hóa học độc hại trong túi nilon sẽ làm ô nhiễm môi trường đất, làm cây cối bị chết, túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxi đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng -Ảnh hưởng tới sức khỏe Một tác hại nữa đó là việc xử lý túi nilon là một bài tốn khó giải. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, việc chôn lấp túi nilon sẽ ảnh hưởng tới môi trường đất, nước do nilon khó phân hủy, còn đốt chúng sẽ tạo ra khí thải có chất độc dioxin và Furan gây ngộ độc, ảnh hướng đến tuyến nội tiết, gây ung thư, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn chức năng tiêu hóa và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ… Theo các nhà khoa học, trong một số loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất, khi bị đốt cháy, gặp hơi nước sẽ tạo thành axit sunfuric dưới dạng các cơn mưa axit rất có hại cho phổi. -Mất cảnh quan môi trường Ngồi ra, bên cạnh ảnh hưởng tới nguồn nước, đất, sức khỏe túi nilon còn gây mất cảnh quan môi trường. Túi nilon ở khắp mọi nơi 6. Giải pháp khắc phục đang thực hiện và dự định sẽ thực hiện. Tác hại của túi ni-lông đối với môi trường gần đây được nhắc đến rất nhiều và không còn là điều quá xa lạ đối với tồn xã hội. Cần giảm thiểu sử dụng túi ni-lông – đó là điều không phải bàn cãi, nhưng giải pháp hữu hiệu để giảm thiểu sử dụng túi ni-lông vẫn là vấn đề mà cả những nhà hoạt động vì môi trường, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học và người dân còn đang tranh luận.   Nghiêm cấm sản xuất và buôn bán túi ni-lông Tác hại nghiêm trọng của túi ni-lông đối với môi trường khiến nhiều nước trên thế giới đã nghiêm cấm sản xuất và buôn bán túi ni-lông ở các mức độ và quy mô khác nhau, tùy điều kiện kinh tế xã hội của mình. Thủ đô Dhaka của Bangladesh là thành phố đầu tiên trên thế giới cấm sử dụng túi ni-lông từ năm 2002; những chiến dịch tương tự như cấm hoặc hạn chế sử dụng cũng diễn ra ở Rwanda, Đài Loan, Singapore, Israel, Ấn Độ, Botswana, Eritrea, Kenya, Tanzania, Nam Phi, Italia, Úc, Mỹ, Anh, Pháp, Ailen… Mới đây nhất, Trung Quốc cũng ra lệnh cấm sử dụng túi ni-lông siêu mỏng trong một nỗ lực giảm ô nhiễm và tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu mỏ. Con số khiêm tốn 7% trong số 1077 độc giả tham gia cuộc thăm dò của ThienNhien.Net ủng hộ giải pháp nghiêm cấm sản xuất và buôn bán túi ni-lông phần nào cho thấy những khó khăn trong tính khả thi của giải pháp này tại Việt Nam. Khó khăn này xuất phát từ rất nhiều lý do: từ phía người sản xuất đến người tiêu dùng, từ lý do kinh tế đến kỹ thuật công nghệ. Với người sản xuất, túi ni-lông là mặt hàng có kỹ thuật sản xuất đơn giản, nguồn cung vật liệu dồi dào và rẻ; với người tiêu dùng, nó là sản phẩm tiện dụng, kinh tế. Hiện nay vẫn chưa có sản phẩm nào có thể cạnh tranh với túi ni-lông về độ nhẹ, bền, chịu nước, kỹ thuật sản xuất đơn giản, giá thành thấp, tiện lợi... Chính vì thế có thể nói giải pháp cấm hồn tồn việc sản xuất và sử dụng túi ni-lông là khó khả thi. Tuy cấm sản xuất và tiêu dùng túi ni-lông hồn tồn là việc khó làm một sớm một chiều nhưng thiết nghĩ, bước đầu chúng ta có thể khoanh vùng cấm tiêu dùng và sử dụng. Thực tế cũng đã có những giải pháp đề nghị cấm sử dụng túi ni-lông ở các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại. Giải pháp này được coi là có cơ sở và khả thi vì những khu vực đó là nơi mà người tiêu dùng có điều kiện và cũng có ý thức hơn để hy sinh chút ít lợi ích kinh tế trước mắt vì lợi ích bền vững của môi trường. Thực tế cho thấy chương trình "Metro cùng khách hàng bảo vệ môi trường" do hệ thống siêu thị Metro khởi xướng năm 2007 nhằm hạn chế lượng túi ni-lông thải ra môi trường đã rất thành công mặc dù lúc đầu cũng vấp phải một số phản ứng không đồng tình từ khách hàng. Thực hiện chương trình này, Metro đã bán cho khách hàng những chiếc túi được làm từ sợi tổng hợp có thể sử dụng nhiều lần thay cho những chiếc túi ni-lông mỏng phát miễn phí.   Nâng cao nhận thức cua người tieu dùng Cùng với sự phát triển cua kinh tế xã hội nhận thúc của người dân cũng ngày được nâng cao. Rất nhiều người nhận thức được tác hại của túi nilon với môi trường,nhưng lại chưa có hành động cụ thể để giảm thiểu,hạn chế xử dụng nó. Nhiệm vụ của tuyên truyền chính là nâng cao nhận thức và biến nhận thức thành hành đọng cụ thể để bảo vệ môi trưởng Việc thay đổi thói quen là vô cùng khó khăn nhưng rõ ràng chúng ta có thể làm nhiều hơn những gì đã làm được để hạn chế thói quen ấy. việc tuyên truyền hạn chế xử dụng túi nilon và định hướng cho người tiêu dùng thói quen dùng túi một cách tiết kiệm hợp lí cần được tiến hành rộng rãi Đánh thuế cao lên mặt hàng này Đánh thuế vào mặt hàng túi nilon,mức thuế sẽ được cộng vào giá thành của túi và người tiêu dùng sẽ phải trả khi mua hàng , mức thuế sẽ được tính theo từng loại túi Thay thế bằng túi phân hủy sinh hoc Túi phân hủy sinh học đang là vấn đề được các nhà khoa học quan tam rất nhiều đến việc bảo vê môi trường Túi phân huỷ sinh học được kỳ vọng là giải pháp giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường và khắc phục tình trạng thiếu đất chôn lấp rác thải nilon. Song nạn hàng giả và sự thiếu rõ ràng thông tin về nhãn mác đã gây khó khăn cho cả người tiêu dùng, các nhà sản xuất chân chính lẫn cơ quan quản lý. Câu chuyện túi nilon và túi phân hủy sinh học vẫn loanh quoanh, khó xử ngay cả ở những nước phát triển như khu vực Bắc Mỹ Tái chế túi nilon Quản lí các cơ sở tái chế túi nilon một cách nghiêm ngặt để tránh tình trạng các cơ sở tái chế làm không đúng quy trình sản xuất ,túi vẫn còn bẩn gây ảnh hưởng tới người xử dụng Tính phí thu gom và tái chế túi ni lông Người sản xuất túi ni lông phải trả và không được chuyển sang người tiêu dùng thông qua giá sản phẩm. . Khuyến khích các siêu thị, trung tâm thương mại cam kết tham gia chương trình giảm sử dụng túi ni lông đựng hàng. .Tuyên truyền giảm sử dụng túi ni lông và định hướng người tiêu dùng thói quen dùng túi sử dụng nhiều lần. . Lập hệ thống thu gom và tái chế túi ni lông. 7. Kết luận và kiến nghị 7.1. Kết luận Hiện nay ,dù các nhà quản lí ở TP.HCM đã có rất nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu xử dụng túi nilon,tuy nhiên những giải pháp đó cũng chưa khắc phục được tình trạng hiện tại. Tại Việt Nam, theo một khảo sát của cơ quan môi trường, việc sử dụng vô tội vạ túi nilon dường như thành thói quen khó bỏ của người Việt Nam. Trung bình một người/năm(Việt Nam) sử dụng ít nhất 30kg các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa. Từ 2005 đến nay, con số lên tới 35 kg/người/năm. Năm 2000, trung bình một ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra môi trường. Đến nay, con số đó là 2.500 tấn/ngày và có thể còn hơn. Theo ngành môi trường, nhu cầu về vốn đầu tư bảo vệ môi trường của Việt Nam là 85.000 tỷ đồng. Trong số tiền trên, có đến vài trăm tỷ được sử dụng để khắc phục những thiệt hại do đồ nhựa, túi nilon thải ra môi trường. 7.2 Kiến nghị Công tác quản lý môi trường phải chặt chẽ, tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt xử dụng túi nilon của người dân. Tìm ra những công nghệ mới, phát triển khoa học kĩ thuật tiên tiến nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường. Mỗi người hãy tập thói quen hạn chế sử dụng túi nilon khi không thật cần thiết, góp phần hạn chế số lượng túi nilon thải ra môi trường hằng ngày. Giải quyết vấn đề rác túi nilon bằng cách nghiên cứu, sản xuất túi nilon tự phân huỷ là một giải pháp khả thi cao, dung hồ được lợi ích kinh tế và vệ sinh môi trường..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-lông gây ra ở thành phố hồ chí minh.doc