Một hình thức giải quyết tranh chấp, luật thương mại hai

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI – MỘT HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời. Pháp luật quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Thấy được những điểm nổi bật của hình thức trọng tài, nên nội dung bài viết của em sẽ đị tìm hiểu về vấn đề này.

doc13 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một hình thức giải quyết tranh chấp, luật thương mại hai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI – MỘT HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời. Pháp luật quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Thấy được những điểm nổi bật của hình thức trọng tài, nên nội dung bài viết của em sẽ đị tìm hiểu về vấn đề này. I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1. Khái niệm trọng tài thương mại Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới hai góc độ: Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Thứ hai, trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp. 2. Đặc điểm trọng tài thương mại 2 .1 Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, trọng tài có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng trọng tài. Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với các bên, đưa ra phán quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên. Thứ hai, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp của yếu tố thỏa thuận, vừa là sự kết hợp của yếu tố tài phán. 2 . 2 Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài có những đặc điểm sau: Một là, trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên, không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước. Các trọng tài viên không phải là các viên chức Nhà nước, không do Nhà nước bổ nhiệm và cũng không hưởng lương từ ngân sách. Khi xét xử trọng tài không nhân danh Nhà nước để ra phán quyết. Hai là, quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có mà xuất phát từ sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Chính các chủ thể tranh chấp, với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhân danh ý chí tối cao của chủ thể tranh chấp mà không nhân danh quyền lực Nhà nước. Ba là, phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự thỏa thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như tòa án nên phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước. Phán quyết trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị ràng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ chế cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước để cưỡng chế thi hành. Như vây, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên đương sự lựa chọn. 3 Một số ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại 3 . 1 Một số ưu điểm của trọng tài thương mại. Thứ nhất, so với tòa án - cơ quan tài phán công, trọng tài có những ưu điểm nổi bật sau: Trước tiên, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên. Khác với tòa án, trọng tài không bị ràng buộc bởi nguyên tắc lãnh thổ nên các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình, bất kỳ họ ở đâu, trong nước hay ngoài nước đồng thời các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên có chuyên môn, nghiệp vụ; lựa chọn quy tắc, thủ tục tố tụng; lựa chọn ngôn ngữ, thời gian, địa điểm... giải quyết tranh chấp. Các nhà kinh doanh tham gia vào tranh chấp luôn e ngại rằng tranh chấp liên quan tới bí mật thương mại, các khiếm khuyết của hàng hóa, sự kém chất lượng của sản phẩm sẽ bị xét xử dưới sự theo dõi của công luận vì điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến công việc kinh doanh của họ trong tương lai. Song với nguyên tắc “xét xử kín”, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ giúp các bên tách rời khỏi sự chú ý của công luận, đảm bảo bí mật của tranh chấp. Một ưu điểm nữa của phương thức trọng tài là quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị, trong khi bản án, quyết định của tòa án có thể phải trải qua nhiều thủ tục xem xét khác nhau (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm). Điều này giúp tiết kiệm chi phí về thời gian cũng như tiền bạc cho các bên tranh chấp. Quyết định trọng tài được thi hành ngay (trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra phán quyết) đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về hàng hóa, tiền bạc của các nhà kinh doanh. Ngoài ra, trọng tài còn có rất nhiều ưu điểm khác như: tính chuyên môn cao thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản... đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp nhanh chóng của các đương sự. Thứ hai, trọng tài có những ưu điểm vượt trội mà thương lượng, hòa giải không có: Việc tham gia thương lượng, hòa giải không chỉ đòi hỏi các bên có thiện chí, trung thực mà còn phải có kiến thức cần thiết về chuyên môn và pháp lý. Điều này không dễ dàng có được đối với mỗi bên tranh chấp, trong khi đó trọng tài thường là những người có chuyên môn, am hiểu pháp luật có thể giúp các bên tranh chấp khắc phục những khiếm khuyết về pháp lý của mình đồng thời trọng tài thường có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp hơn bên thứ ba trong hòa giải. Trọng tài luôn có hẳn một khung pháp luật điều chỉnh. Tuy là tổ chức phi chính phủ nhưng trọng tài lại được sự đảm bảo, hỗ trợ về mặt pháp lý của tòa án. Trong khi đó, hoạt động thương lượng, hòa giải ở nước ta hiện nay hoàn toàn mang tính tự phát, theo truyền thống, chưa có sự tổng kết thành lý luận, chưa có văn bản nào điều chỉnh quá trình thương lượng, hòa giải. Quyền thương lượng, hòa giải xuất phát từ quyền tự do hợp đồng và quyền tự do định đoạt được Hiến pháp và pháp luật quy định. Do đó, giá trị của kết quả thương lượng, hòa giải không được xác định rõ ràng, thường bị các bên lợi dụng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ. Trên thực tế, việc thực hiện kết quả thương lượng, hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên nên trong nhiều trường hợp tính khả thi không cao. 3 . 2 Một số hạn chế nhất định: So với tòa án, trọng tài không có thẩm quyền kê biên tài sản, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản là đối tượng tranh chấp. Việc kê biên chỉ được thực hiện thông qua tòa án trên cơ sở yêu cầu của các bên. Quá trình kê biên này có thể kéo dài, không đảm bảo phong tỏa tài sản kịp thời đề phòng tẩu tán tài sản; quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm là một ưu điểm nổi bật của trọng tài, song nhìn ở phương diện khác đây lại chính là một hạn chế của trọng tài vì quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên các bên khó có cơ hội phát hiện và khắc phục những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp như ở tòa án. Do việc giải quyết tại trọng tài đã có sự xuất hiện của bên thứ ba nên việc giữ bí mật của vụ tranh chấp không thể bằng thương lượng. Ngoài ra, thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho thấy chi phí trọng tài thường được ấn định trước, nhất là những tranh chấp được giải quyết tại các trung tâm trung tâm trọng tài thường có cả các biểu phí được quy định sẵn và biểu phí này thường cao hơn nhiều so với các cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án, hòa giải hay thương lượng mà không phải chủ thể tranh chấp nào cũng có khả năng đáp ứng dù họ rất muốn được giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Tóm lại, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tuy có một số hạn chế, song với những ưu điểm nổi trội của nó, có thể khẳng định đây là phương thức giải quyết đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp. 4 . Các hình thức tổ chức trọng tài 4.1. Trọng tài vụ việc. Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài sẽ chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Trọng tài vụ việc chỉ tồn tại có tính chất lâm thời, không có trụ sở và bộ máy cố định, trọng tài viên do các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn. Thông thường, trọng tài viên có thể được lựa chọn từ các thương gia có tu nghiệp pháp lý hay các luật sư làm việc tại các công ty. Các trọng tài viên không chỉ nắm vững về luật pháp mà còn rất am hiểu về các hoạt động thương mại. Hoạt động của Hội đồng trọng tài không bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng mà chỉ cần đảm bảo nguyên tắc xét xử vô tư, khách quan, đúng pháp luật. mại kể cả tranh chấp quốc tế và trong nước. 4.2 Trọng tài thư Về bản chất, trọng tài ở hầu hết các nước trên thế giới đều tồn tại dưới hình thức trọng tài phi chính phủ, không nằm trong bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có ngoại lệ mang sắc thái riêng. Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có điều khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định. II. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI 1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài 1 . 1 Nguyên tắc trọng tài viên phải tong trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên thâm gia tranh chấp là một trong những nguyên tắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại.Theo Khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại, thỏa thuận trọng tài: “là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”. Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, miễn là các thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và đạo đức xã hội. Có thể thấy rằng thông qua thỏa thuận trọng tài, quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho họ, cụ thể như: Các bên thỏa thuận chọn trung tâm nào, hình thức trọng tài nào,các bên tự lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có quyền giải quyết, các bên thỏa thuận địa điểm, thời hạn mở phiên họp,… 1 . 2 Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan và tuân theo pháp luật. Đây là nguyên tắc trung tâm của trọng tài thương mại đồng thời cũng là yêu cầu đặt ra đối với các chủ thể giải quyết tranh chấp, đó là các trọng tài viên - người được các bên tranh chấp trực tiếp hoặc gián tiếp lựa chọn. Trong qua trình giải quyết tranh chấp, không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên. Một vụ tranh chấp gồm 3 trọng tài viên tiến hành xét sử thì các trọng tài viên hoàn toàn bình đẳng với nhau, xét sử độc lập cắn cứ vào các điều khoản của hợp đồng, và pháp luật hiện hành. Trong quá trình giải quyết tranh chấp trọng tài viên phải thông báo công khai và kịp thời những việc có thể gây nghi ngờ về tính khách quan vô tư của mình. Khi giả quyết tranh chấp kinh tế, trọng tài viên phải căn cứ vào tình tiết các vụ tranh chấp, phải xác minh sự việc nếu thấy cần thiết. Khi giải quyết tranh chấp phải căn cứ vào trủ tục trọng tài,trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật, nếu không căn cứ vào pháp luật nhận hối lộ hay có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài viên. Chỉ có căn cứ vào pháp luật mới đảm bảo tinh vô tư, khách quan, mói tạo được sự tin cậy của cac nhà kinh doanh. Một số trung tâm trọng tài còn yêu cầu trọng tài viên phải xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện hoặc chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập, vô tư khách quan của họ. Đây là nguyên tắc rất quan trọng vì đảo bảo quyền và lợi ích công bằng hợp lý chính đáng của các bên. 1 . 3 Nguyên tắc: Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Các bên tranh chấp bình đẳng với nhau trong việc lựa chọn hay bãi bỏ trong tài viên, trong việc lựa chọn địa điểm tiến hành tố tụng. trong việc đưa đơn yêu cầu về đơn biện minh đối với yêu cầu của phía bên kia, cũng như mọi chứng cứ và tài liệu khác. Tất cả thông tin tài liệu do một bên cung cấp cho trọng tài đều phải thông báo cho bên kia. Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết mà trọng tài viên phải tôn trọng. Nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định của hội đông trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên. Một trong những ưu điểm của giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là các bên có tranh chấp được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết. 1 . 4 Nguyên tắc: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Hầu hết ở các nước đều công nhận nguyên tắc xét sử kín.Tính bí mạt thể hiện ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong thương mại. Các buổi họp xét xử của trọng tài trên cở sở thỏa thuận của các bên có thể tiến hành ở trong phòng mà ở đó chỉ có trọng tài viên vad các đương sự. Trọng tài viên có trách nhiệm đảm bảo bí mật vấn đề liên quan. 1 . 5 Nguyên tắc: Phán quết trọng tài là chung thẩm. Việc giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quết của trọng tài là có giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 – 3 lần, từ sở thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác. Còn cách giải quết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết định trộng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Ủy ban trọng tài( hay hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình. 2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại Về phạm vi thẩm quyền : Theo quy định tại Điều 2 của Luật trọng tài thương mại 2010, thẩm quyền giả quyết gồm : - Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại ; - Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại ; - Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Luật đã khác phục những hạn chế của pháp lệnh trong tài thương mại 2003, mở rộng hơn thẩm quyền giải quyết, phân định rõ phạm vi của thẩm quyền, đảo bảo sự tương thích với các văn bản pháp luật hiện hành như Luật dân sự, tố tụng dân sự, thương mại, đầu tư… Về chủ thể tranh chấp : Luật trọng tài thương mại năm 2010 không giới hạn phạm vi chủ thể tranh chấp. Tổ chức, cá nhân bất kỳ đều có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp miễn là lĩnh vực tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. 3. Trình tự giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài 3 . 1 Nộp đơn và thụ lý đơn Để giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng, nguyên đơn phải giử đơn kiện cho hoặc đúng trung tâm trọng tài mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Đơn kiện phải được gửi đến trung tâm trọng tai trong thời hiệu khởi kiện là 2 năm kẻ từ thời điểm quyền và lợi ích bị xâm phạm trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác. Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo ccuar nguyên đơn, bị đơn phải bản tự bảo vệ cho trung tâm trọng tài. Trương hợp giải quyết bằng trọng tài vụ việc thì nguyên đơn phải gửi đơn cho bị đơn. Trọng tài viên do nguyên đơn có thể là trọng tài viên ngoài danh sách hoặc trong danh sách trọng tài viên bất kỳ trung tâm trọng tài nào của Việt Nam. Nội dung và thời gian nộp đon cũng phải tuân theo quy định của pháp luật. Bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người mà mình chon làm trọng tài. Bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề cso liên quan đến vj tranh chấp. Đơn kiện lại của bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài, hoặc hội đồng trọng tài và nguyên đơn nếu phải giải quyết bằng trọng tài vụ việc. Đơn kiện phải được nộp cùng thời điểm nộp đơn bản tự bảo vệ. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện lại, nguyên đơn phải tự bảo vệ cho trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài và bị đơn. Trước khi hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài, các bên có quyền rút đơn kiện. Trong qua trình tố tụng trọng tài, các bên có thể sửa đổi, bổ sung đơn kiện hoặc bản tự bảo vệ nếu Hội đồng trọng tài chấp nhận. 3.2. Thành lập Hội đồng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên Việc thành lập Hội đồng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên là khâu then chốt, có tầm quan trọng bậc nhất trong trình tự thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài. Khi các bên đã lựa chọn và chỉ định trọng tài viên mà họ tín nhiệm, điều đó hứa hẹn cho kết quả tốt đẹp trong giải quyết tranh chấp. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày các trọng tài viên được nguyên đơn và bị đơn lụa chọn. nếu bị đơn không lựa chọn hoặc có đề nghị thì Chủ tịch trung tâm trọng tài và chỉ định trọng tài viên cho bị đơn, các trọng tài viên bầu một trọng tài viên khác bầu một trọng tài viên khác là chủ tịch hội đồng trọng tài. Nếu quá thời hạn trên các trọng tài viên không lựa chọn được thì chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định chủ tịch hội đồng trọng tài. Nếu các bên có thỏa thuận thì có thể cùng chọn ra một trọng tài viên duy nhất đẻ giải quyết tranh chấp, trong thời hạn 30 ngày nếu không lựa chọn được có thể yêu cầu chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên duy nhất. Có thể thay thay đổi trọng tài viên nếu trong quá trình tố tụng, có trọng tài viên không thể tiếp tục tham gia hoặc các trọng tài viên thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 42 Bộ luật trọng tài thương mại. Đó là : a ) Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên ; b ) Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp ; c ) Có căn cứ rõ ràng cho thấy trọng tài viên không vô tư, khách quan ; d ) Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ việc ra tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản. Nếu hội đồng trọng tài chưa thành lập, việc thay đổi trọng tài viên do chủ tịch trung tâm trọng tài quyết định. Nếu hhooi đồng trọng tài đã thành lập, việc thây đổi trọng tài viên do các thành viên còn lại của hội đồng quyết định. Trong trường hợp không quyết định được hoặc các trọng tài viên từ chối giải quyết tranh chấp thì chủ tịch trung tâm trọng tài quyết định. Nếu giải quyết bằng trọng tài vụ việc, trình tự lập hội đồng trong tài cũng tương tự nhau, nhưng trường hợp này việc thành lập trọng tài có sự giúp đỡ của Tòa án. Đó là sau khi hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện mà bị đơn không thông báo lựa chọn được trọng tài viên làm chủ tịch hội đồng thì các bên cso quyền yêu cầu tòa án chỉ định. 2.3. Công tác điều tra trước khi xét xử Sau khi được lựa chọn hoặc chỉ định, các trọng tài viên nghiên cứu hồ sơ và tiến hành các công việc cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp. Bằng năng lực và kinh nghiệm của mình, trọng tài viên có thể tiến hành công việc theo cách riêng của mình, cũng có thể tìm hiểu vụ việc từ người thứ ba. Song việc giải quyết vẫn được tiến hành căn cứ vào những điều khoản của hợp đồng và pháp luật hiện hành. 3.4. Phiên họp giải quyết tranh chấp Một nguyên tắc quan trọng đồng thời cũng là ưu điểm nổi bật của trọng tài là các phiên họp được xét xử kín nhằm đảm bảo uy tín, danh dự của các bên. Hội đông trọng tài gửi giất triệu tập cho các bên chậm nhất 30 ngày trước ngày diễn ra phiên họp. Các bên có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia phiên họp, có quyền mời nhân chứng và luật sư. Nếu nguyên đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng, hoặc bỏ phiêm họp mà hội đồng trọng tài không đồng ý thì coi như rút đơn kiện. Bị đơn có thể yêu cầu hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết hoặc có đơn kiện lại. trong trường hợp này phiên họp trọng tài vẫn tiến hành. Phiên họp có thể dduocj hoán nếu các bên có lý do chính đáng và hội đồng trọng tài xem xét có tranh chấp nhận yêu cầu hay không. Kết thúc phiên họp hội đồng trọng tài phải đưa ra phán quyết trọng tài nhằm chung thẩm các vấn đề đã đưa ra. Phán quyết của trọng tài được bieur quyết theo nguyên tắc đa số. Được công bố tại phiên họp hoặc sau đó nhưng chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng. Phán quyết có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra phán quyết, theo yêu cầu một bên hoặc hội đồng trọng tài chủ động sửa chữa lỗi chính tả hoặc số liệu trong pahns quyết, ra phán quyết bổ sung, một bên có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài giải thích nội dung phán quyết. 3.5. Hủy, thi hành quyết định trọng tài Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tai, nếu các bên không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huy phán quyết thì các bên được thi hành cso quyền làm đơn yêu cầu cơ quant hi hành án dân sự thi hành phán quyết trọng tài. Một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài nếu phán quyết đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại điều 68 Bộ luật thương mại đó là : a ) Không có thảo thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. b ) Thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này ; c ) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài ; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy ; d ) Chúng cú do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để phán quyết là giả mạo ; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranhc chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài ; đ ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. III. MỘT SỐ BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 1. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. 1 . 1 Về một số quy định của pháp luật : Về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời : Luật trọng tài thương mại mới đã quy định được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, đây là một bước tiến. Song lại không quy định việc thi hành các quyết định áp dụng biện pahsp khẩn cấp tạm thời, quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng trọng tài. Do đó cần có dự thảo nghị định đưa vào quy định này. Về thỏa thuận trọng tài cần quy định rõ ràng, và cụ thể hơn. 1 . 2 Tìm hiểu thực tiễn : giải quyết tranh chấp trong những năm qua, có thể lý giải tại sao các doanh nghiệp nước ta vẫn còn e ngại khi lựa chọn trong tài là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp của mình. Hơn thế, do trọng tài hoạt động không hiệu quả trong một thời gian dài nên các nhà kinh doanh chưa dám đặt niềm tin vào phương thức này. Thứ hai, đội ngũ trọng tài viên còn mỏng, năng lực giải quyết tranh chấp kinh doanh còn có những hạn chế nhất định, trong khi đó vấn đề đào tạo nghề cho đội ngũ này chưa được quan tâm thỏa đáng. Thứ ba, pháp luật về trọng tài thương mại còn một số bất cập chưa hợp lý, cơ chế thi hành quyết định trọng tài do mới được thiết lập nên vận hành chưa thực sự trôi chảy. 2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài 2 .1 Bổ sung các quy định về thỏa thuận trọng tài. Phát luật trọng tài cần có qui định về: hình thức trọng tài, trung tâm trọng tài, địa điểm trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, vấn đề về lệ phí… Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại một hiện tượng mà các bên giao kết hợp đồng cần hết sức lưu ý là mặc dù có thỏa thuận trọng tài nhưng tranh chấp vẫn không thể được giải quyết bằng trọng tài vì thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được trong thực tế. 2.2. Cho phép trung tâm trọng tài mời trọng tài viên nước ngoài vào danh sách trọng tài viên của trung tâm Trọng tài thương mại sẽ hoạt động hiệu quả hơn nhiều nếu trung tâm được mời người nước ngoài vào danh sách trọng tài viên của trung tâm. Điều này không những tạo cơ hội cho các bên tranh chấp lưa chọn trọng tài viên, và học hỏi kinh nghiệm. 2.3. Hạn chế sự quản lý, can thiệp hành chính Nhà nước vào hoạt động của trọng tài nhằm thực sự thừa nhận tính chất phi chính phủ của trọng tài Bản chất của trọng tài là một tòa án tư, tồn tại và hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào uy tín và hiệu quả trong thực tế của nó. Sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết, tuy nhiên chỉ nên dừng lại ở việc định ra khung pháp luật để trọng tài hoạt động, không nên áp dụng nguyên tắc quản lý hành chính đối với trọng tài. Trong thời điểm hiện nay, để trọng tài có thể hấp dẫn được các nhà kinh doanh, pháp luật tài phán trọng tài cần thừa nhận tính chất phi Chính phủ của trọng tài. 2.4. Một số giải pháp khác Cần thành lập một Hiệp hội trọng tài thương mại ở Việt Nam. Hiện nay, các trung tâm trọng tài ở Việt Nam hoạt động khá tản mạn, khoanh vùng. Từ khi PLTTTM có hiệu lực, cả nước mới chỉ có s¸u trung tâm trọng tài tồn tại mà hoạt động của các trung tâm này không có sự liên kết, hỗ trợ để tập hợp thành một đội ngũ mạnh. Sự nhỏ lẻ, manh mún làm cho trọng tài đã yếu kÐm sẽ mờ dần đi trong cách nhìn của giới doanh nghiệp. Hiện nay, rất ít người biết đến sự hiện diện của các trung tâm trọng tài và hoạt động của nó. Bên cạnh đó, các trung tâm trọng tài không hoạt động nên cũng không có điều kiện và kinh phí để quảng bá về mình nên ngày càng thu hẹp lại, đội ngũ trọng tài viên khó có cơ hội để gặp gỡ, trao đổi về kinh nghiệm và những vấn đề khác liên quan đến trọng tài, những vướng mắc trong thực tiễn của trọng tài cũng không được tập hợp để có xu hướng đề xuất kiến nghị khắc phục kịp thời cho tất cả các trung tâm trong cả nước. Là một tổ chức phi chính phủ, khi chưa đủ mạnh để mỗi trung tâm tự khẳng định mình, trọng tài cũng có nhu cầu như các tổ chức xã hội khác là cần có một “mái nhà chung” để tập hợp lực lượng, nâng cao số lượng và chất lượng trọng tài viên. Sự quảng bá mang tầm quốc gia sẽ có hiệu quả hơn so với việc mỗi trung tâm tự tìm con đường riêng cho mình. Sự ra đời của Hiệp hội trọng tài sẽ là cơ hội để trọng tài Việt Nam thiết lập quan hệ với Hiệp hội thương mại, Hiệp hội doanh nghiệp của giới doanh nhân và xa hơn nữa là thiết lập quan hệ hợp tác với các trung tâm trọng tài có uy tín trong khu vực và của các nước phát triển về tài phán trọng tài. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trọng tài viên. Hiện nay, một trong những hạn chế của các tổ chức trọng tài là về vấn đề con người, đặc biệt là ở những tỉnh, thành phố không thuộc trung ương. Đội ngũ trọng tài viên hiện đa phần trình độ chuyên môn chưa cao, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng xét xử. Do đó, để phát triển phương thức trọng tài, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo trọng tài viên thông qua các chương trình đào tạo dài hạn trong nước, nước ngoài kết hợp với các chương trình tập huấn ngắn hạn ở trong nước, ở nước ngoài với sự hướng dẫn của những trọng tài viên, chuyên gia có uy tín trên thế giới. Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, bản thân các trung tâm trọng tài cũng cần có những chính sách cụ thể để bồi dưỡng trọng tài viên của trung tâm mình như: tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu giữa các trung tâm, cử trọng tài viên sang nước ngoài học tập... Cần tuyên truyền pháp luật trọng tài thương mại. Một trong những giải pháp rất quan trọng để pháp luật trọng tài thương mại nhanh chóng đi vào thực tiễn chính là việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng tài. Thứ nhất, cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài thương mại cho các cơ quan Nhà nước có liên quan như: tòa án, cơ quan thi hành án, chính quyền địa phương. Việc nâng cao nhận thức, tác dụng tích cực của trọng tài của cán bộ, công chức Nhà nước là cần thiết tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động trọng tài. Đối với chính quyền địa phương, cần nhận thức tác dụng tích cực của trọng tài thương mại đối với hoạt động kinh doanh của địa phương để có sự trợ giúp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trọng tài trong giai đoạn mới thành lập. Đối với tòa án và cơ quan thi hành án dân sự, việc tăng cường nhận thức của hai cơ quan này lại càng quan trọng hơn khi mà các thẩm phán của tòa án, các chấp hành viên của cơ quan thi hành án là người trực tiếp thực hiện những công việc hỗ trợ đối với hoạt động trọng tài. Mọi sự thờ ơ, bất hợp tác, thiếu tinh thần trách nhiệm, không nắm vững các quy định của pháp luật của các thẩm phán hay chấp hành viên đều ảnh hưởng xấu tới hiệu quả của quá trình trọng tài. Thứ hai, tuyên truyền pháp luật trọng tài thương mại cho các nhà kinh doanh Hiệu quả của hoạt động trọng tài phụ thuộc rất nhiều vào thái độ, nhận thức của doanh nghiệp đối với tổ chức trọng tài. Ở Việt Nam trong những năm qua, số lượng các vụ việc tranh chấp mà các trung tâm trọng tài tiếp nhận và giải quyết là rất khiêm tốn. Nguyên nhân tình trạng này phần lớn là do các doanh nghiệp chưa nắm được một cách chính xác chức năng, nhiệm vụ cũng như tính ưu việt của trọng tài so với hình thức khác. Do đó, việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của trọng tài thương mại là vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, cÇn tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài để các nhà kinh doanh nhận thức được rằng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không những đem lại cho các bên quyền chủ động hơn mà còn tạo cơ hội cho họ bảo vệ được bí mật nghề nghiệp, giữ được hòa khí, duy trì được quan hệ làm ăn lâu dài giữa các bên tranh chấp. Thành lập một trung tâm trọng tài chuyên giải quyết các tranh chấp về đầu tư. Hiện nay, vấn đề đầu tư ở nước ta đang diễn ra sôi nổi, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và cũng chính trong bối cảnh này, ngày càng có nhiều tranh chấp phát sinh trong quan hệ đầu tư nước ngoài. Trước đây, loại tranh chấp này thường được giải quyết tại tòa án nhưng từ khi PLTTTM có hiệu lực đến nay các bên tranh chấp lại có xu hướng đưa ra các trung tâm trọng tài kinh tế Việt Nam giải quyết. Song các nhà đầu tư còn chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng giải quyết tranh chấp của các trung tâm trọng tài hiện nay vốn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại nói chung. Do đó, để tăng độ hấp dẫn của trọng tài đối với các nhà đầu tư nên thành lập một trung tâm trọng tài chuyên giải quyết các tranh chấp về đầu tư nhằm chuyên sâu công tác giải quyết trong lĩnh vực này. KẾT LUẬN Pháp luật về trọng tài được hình thành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau mà pháp luật về trọng tài cũng có những quy định khác nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận học kỳ trọng tài thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp , luật thương mại hai bài này mình được 9đ.doc