Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ tồn tại chủ yếu theo luật pháp quốc gia. Cái được gọi là quyền sở hữu trí tuệ toàn cầu (quốc tế) có nghĩa là một tập hợp các quyền có khả năng được thực thi theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, có thể nói rằng ở hầu hết các nước, quyền mang tính chất quốc gia đó không chỉ tồn tại như một hệ quả của nội luật mà còn là các nghĩa vụ quốc tế đa phương, song phương hoặc khu vực. Ở một số hiệp hội khu vực như Liên minh châu Âu, pháp luật khu vực có thể có hiệu lực áp dụng trực tiếp tại các quốc gia hoặc có thể đặt ra các tiêu chuẩn về sở hữu trí tuệ cho pháp luật quốc gia. Luật sở hữu trí tuệ quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hài hoà hoá các quy phạm pháp luật quốc gia về nội dung và thủ tục. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp Hiệp định về các khía

pdf52 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2948 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n giao đối với (i) việc dịch nhằm mục đích phục vụ việc giảng dạy, học tập hoặc nghiên cứu và (ii) việc nhân bản để sử dụng liên quan đến các hoạt động truyền thụ kiến thức mang tính hệ thống, các tác phẩm được bảo hộ theo Công ước. Những li-xăng này có thể được cơ quan có thẩm quyền của nước đang phát triển có liên quan cấp sau khi kết thúc một thời hạn nhất định và tuân thủ các thủ tục nhất định. Họ phải quyết định việc đền bù cho chủ sở hữu quyền. Nói cách khác, bên được cấp li-xăng cưỡng bức phải thanh toán khoản tiền bản quyền phù hợp với các chuẩn mực về tiền bản quyền mà thông thường phải trả trong các trường hợp li-xăng được cấp theo hợp đồng giữa các bên của hai nước liên quan. Ngoài ra, phải có các quy định nhằm bảo đảm việc dịch đúng hoặc nhân bản chính xác tác phẩm trong phạm vi cho phép, và phải nêu tên tác giả trên tất cả các bản sao của bản dịch và nhân bản đó. Tuy nhiên, không được phép xuất khẩu các bản sao của bản dịch và nhân bản đã được làm ra và công bố theo li-xăng cưỡng bức. Vì li-xăng này là li-xăng không độc quyền, chủ sở hữu quyền tác giả được phép đưa ra thị trường các bản sao tương tự của mình, trên cơ sở đó quyền tiếp tục làm bản sao của bên nhận li-xăng có thể sẽ chấm dứt. Điều 9.1 Hiệp định TRIPS, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, buộc các Thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới phải “tuân thủ các Điều từ 1 đến 21 của Công ước Berne (1971) và Phụ lục của Công ước này”. Tuy nhiên, liên quan đến quyền nhân thân được đề cập tại Điều 6bis Công ước Berne, Điều 9.1 Hiệp định TRIPS quy định rằng “các Thành viên không có các quyền và nghĩa vụ theo Hiệp định này đối với các quyền được cấp theo Điều 6bis Công ước đó hoặc các quyền được bắt nguồn từ đó”. Ngoại lệ về quyền nhân thân này được đưa vào Hiệp định theo đòi hỏi của Hoa Kỳ vì họ có vấn đề với khái niệm đó. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 33 Nguyên tắc đối xử quốc gia theo Công ước Berne được chấp nhận theo Điều 3 của Hiệp định TRIPS và Điều 2.2 Hiệp định TRIPS quy định rằng không một quy định nào trong các phần từ I đến IV của Hiệp định này liên quan đến các nguyên tắc cơ bản, khả năng có được, phạm vi, việc sử dụng và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, cũng như việc đạt được và duy trì các quyền này “ảnh hưởng đến các nghĩa vụ đang tồn tại mà các Thành viên có thể có đối với nhau theo Công ước Berne” Cuối cùng, các quy định về quyền tác giả của Hiệp định TRIPS mở rộng một số quy định về nội dung của Công ước Berne. Do đó, ví dụ, Điều 10.1 quy định rằng “phần mềm máy tính, bất kể dưới dạng mã nguồn hay mã máy, phải được bảo hộ như các tác phẩm viết theo Công ước Berne (1971)”. Các điều khoản cụ thể khác liên quan đến quyền cho thuê, thời hạn bảo hộ, các hạn chế và ngoại lệ và việc bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng. 4. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO (Hiệp định TRIPS) Sở hữu trí tuệ với danh nghĩa là một vấn đề thương mại của thế giới trước Vòng đàm phán Uruguay Từ cuối những năm 1970, đã tồn tại sự nhận thức ngày càng gia tăng, đặc biệt là Hoa Kỳ, rằng việc giả mạo sản phẩm mang nhãn hiệu có ảnh hưởng lớn đến doanh số thương mại. Năm 1979, Hoa Kỳ và Cộng đồng châu Âu đã đạt được một thoả thuận về một bản dự thảo “Hiệp định về các biện pháp ngăn cản nhập khẩu hàng hoá giả mạo”. Trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1982, một số cuộc họp không chính thức với một số nước công nghiệp phát triển đã cho ra đời bản dự thảo sửa đổi của Bộ luật chống hàng giả. Trong giai đoạn 1982-1986, một Uỷ ban chuẩn bị của GATT đã xác định các vấn đề cần quan tâm của Vòng đàm phán GATT sắp tới. Hoa Kỳ đã đề xuất rằng Vòng đàm phán này cần xem xét tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và khẳng định rằng GATT là một diễn đàn phù hợp để tìm kiếm việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Các cuộc đàm phán sau đó do các Đại sứ của Thuỵ Sĩ và Colombia chủ trì đã tìm kiếm một sự thoả hiệp giữa các quan điểm đối nghịch về thẩm quyền pháp lý của GATT về những vấn đề này và đã đưa ra một bản đề xuất làm cơ sở cho Tuyên bố Bộ trưởng vào ngày 20.9.1986 về việc khởi động Vòng đàm phán Uruguay. Vòng đàm phán Uruguay Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 34 Khi xác định các chủ đề đàm phán của Vòng đàm phán này, Tuyên bố Bộ trưởng giải thích rằng Để giảm bớt những lệch lạc và những trở ngại cho hoạt động thương mại quốc tế, lưu ý tới sự cần thiết phải thúc đẩy việc bảo hộ một cách có hiệu quả và thoả đáng các quyền sở hữu trí tuệ, và bảo đảm rằng các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ không trở thành các rào cản đối với hoạt động thương mại hợp pháp, các cuộc đàm phán phải nhằm mục đích làm rõ các quy định của GATT và soạn thảo kỹ lưỡng thành các quy tắc và nguyên tắc mới phù hợp. Các cuộc đàm phán phải đạt được mục đích xây dựng một khuôn khổ đa phương về các nguyên tắc và quy tắc liên quan đến thương mại quốc tế trong lĩnh vực hàng giả, trong đó có tính đến các hoạt động đã được thực hiện trong khuôn khổ GATT. Kế hoạch đàm phán được lập ra theo Quyết định ngày 28 tháng 1 năm 1987 với tiêu đề “Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, kể cả buôn bán hàng giả”, đã xác định rằng giai đoạn khởi động của quá trình đàm phán cần giải quyết vấn đề thu thập các tài liệu thực tế có liên quan và đệ trình các văn kiện của các bên có quan tâm. Đáp lại đề xuất này, ngày 19 tháng 10 năm 1987, Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa Kỳ tại Geneva đã đệ trình một đề xuất mang tính nội dung về việc cấm buôn bán các hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng việc thực hiện các biện pháp kiểm soát hải quan và thông qua việc ban hành và thực hiện các chuẩn mực pháp lý đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Các cuộc đàm phán sau đó của Vòng đàm phán bị đình lại và gần như là thất bại do sự bế tắc trong các chính sách về nông nghiệp. Trước khi rà soát giữa kỳ dự kiến vào tháng 12 năm 1988, thoả thuận đã đạt được hoặc gần với 11 lĩnh vực đang đàm phán khác. Một ngoại lệ đối với thoả thuận về hàng loạt vấn đề này là sở hữu trí tuệ, khi dưới sự đứng đầu của Ấn Độ và Braxin, các nước đang phát triển tiếp tục nêu vấn đề về sự phù hợp của sở hữu trí tuệ với GATT, đặc biệt là do sự tồn tại của WIPO. Một yếu tố then chốt trong sự thành công cuối cùng của việc đưa Hiệp định TRIPS và GATT là sự sẵn sàng của Hoa Kỳ trong việc xác định các mục tiêu đàm phán của họ thông qua pháp luật thương mại trong nước. Sự bế tắc ở GATT đã dẫn đến việc năm 1984 Hoa Kỳ sửa đổi điều khoản 301 của Luật Thương mại năm 1974, cho phép Tổng thống tìm kiếm các biện pháp loại bỏ các hoạt động thương mại “không thể biện minh hoặc không hợp lý”. Đạo luật thuế quan và thương mại năm 1984 đã quy định một cách rõ ràng Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 35 về khả năng khởi kiện về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo điều khoản 301, theo đó yêu cầu hoạt động rà soát hằng năm của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) về các hoạt động sở hữu trí tuệ của các đối tác thương mại của Hoa Kỳ. USTR được yêu cầu phải xác định “các nước bị để ý hàng đầu” (“priority foreign countries”), là những nước từ chối “bảo hộ đầy đủ và thoả đáng quyền sở hữu trí tuệ” hoặc những nước “từ chối quyền tiếp cận thị trường công bằng và hợp lý” đối với các thương nhân Hoa Kỳ. USTR còn có nghĩa vụ xếp các nước này vào danh sách “watch list” hoặc “priority watch list” để tiến hành điều tra nhanh (fast track investigation) và sau đó tiến hành các biện pháp trả đũa thương mại dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu. Điều khoản đặc biệt 301 được gắn mục đích rõ ràng là một sự bổ sung cho chiến lược đàm phán về TRIPS của Hoa Kỳ. Phiên Rà soát giữa kỳ được tổ chức tại Montreal vào cuối năm 1988 chỉ mang lại một sự đồng thuận nhỏ về quan điểm của các nhóm nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển. Tuy nhiên, một sự đột phá mang tính quyết định đã đạt được tại cuộc họp vào tháng 4 năm 1989 của Uỷ ban Đàm phán Thương mại, theo đó một Thoả thuận khung về phương hướng đàm phán tiếp theo về quyền sở hữu trí tuệ đã được dàn xếp. Thoả thuận khung này bao gồm việc chấp nhận (i) khả năng áp dụng những nguyên tắc cơ bản của GATT và các thoả thuận và công ước về sở hữu trí tuệ có liên quan; (b) quy định các chuẩn mực và nguyên tắc thoả đáng liên quan đến khả năng có được, phạm vi và việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; (c) quy định các biện pháp có hiệu quả để thực thi các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; và quy định các thủ tục có hiệu quả và phù hợp để ngăn ngừa và giải quyết các tranh chấp giữa các chính phủ, trong đó có khả năng áp dụng các thủ tục của GATT. Trong năm 1989, nhóm đàm phán về TRIPS đã nhận được các văn bản đệ trình từ một số nước và vào đầu năm 1990 số văn bản này đã giảm xuống con số 5. Các văn bản được đệ trình bởi Cộng đồng châu Âu, Nhật Bản, Thuỵ Sĩ và Hoa Kỳ và một văn bản được đề xuất bởi một nhóm các nước đang phát triển. Các phiên bản tiếp theo trong năm 1990 đã được tập hợp trong bản Dự thảo Hiệp định TRIPS đệ trình ngày 22 tháng 11 năm 1990 cho Hội nghị Bộ trưởng dự kiến họp ở Brussel ngày 3 tháng 12 năm 1990. Vẫn tồn tại một số khác biệt về một số vấn đề cụ thể liên quan đến các nguyên tắc của luật sáng chế và luật bản quyền, cũng như những vấn đề quan trọng hơn liên quan đến việc đưa sở hữu trí tuệ vào GATT và khả năng áp dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp cho sở hữu trí tuệ. Tại bất kỳ sự kiện nào, các mối lo ngại này đều bị bỏ qua do hội nghị Brussel sụp đổ vì bế tắc trong vấn đề nông nghiệp. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 36 Vòng đàm phán Uruguay đã được khởi động vào năm sau đó, với những nỗ lực phối hợp của Tổng giám đốc GATT để xác định các vấn đề cần có giải pháp. Nhóm đàm phán về TRIPS đã nhận được các dự thảo văn kiện tiếp theo trong năm 1991 và vào tháng 11 năm 1991, Tổng giám đốc Arthur Dunkel đã đưa ra một bản báo cáo về tiến trình trong đó xác định 20 vấn đề về sở hữu trí tuệ cần phải có giải pháp. Với một sự tiến triển ấn tượng trong thời gian sau đó, Tổng giám đốc GATT đã nỗ lực thúc đẩy kết thúc Vòng đàm phán Uruguay bằng việc đệ trình một bản dự thảo Văn bản cuối cùng kèm theo các Kết quả của Vòng đàm phán Thương mại đa phương Uruguay, bao gồm một văn kiện TRIPS mới trong đó cố gắng giải quyết những khó khăn còn tồn tại bằng việc đề xuất phương án thoả hiệp. Các cuộc đàm phán đã được khởi động lại tại Geneva cuối năm 1992 sau khi có giải pháp cho những bất đồng giữa Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ về các chính sách nông nghiệp và cả Ấn Độ và Hoa Kỳ đều đề xuất các bản sửa đổi cho bản dự thảo của Tổng giám đốc Dunkel. Kết cục là bản dự thảo cuối của Hiệp định TRIPS, được thông qua khi Vòng Uruguay kết thúc tại Hội nghị Bộ trưởng ở Marrakesh ngày 12 đến 15 tháng 4 năm 1994, rất giống với bản Dự thảo của Tổng giám đốc Dunkel cả về hình thức và nội dung. Thi hành và Rà soát Giới thiệu Hiệp định TRIPS có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Các bên tham gia đàm phán nhận thức rõ rằng nhu cầu cấp thiết về việc đàm phán dẫn tới sự ra đời của một văn bản mà cần có những sửa đổi và hoàn thiện tiếp theo và rằng việc thi hành nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Do đó, gắn liền với Hiệp định TRIPS cần phải có một lịch trình sửa đổi áp dụng đối với một số quy định cụ thể về nội dung; chỉ dẫn địa lý (Điều 23.4); khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế cho các sáng chế về sinh học (Điều 27.3.b); và các trường hợp “không vi phạm” (Điều 64). Ngoài ra, Điều 71 yêu cầu Hội đồng TRIPS phải rà soát việc thi hành Hiệp định sau khi kết thúc thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định bắt đầu có hiệu lực và sau đó cứ hai năm một lần. Các thành viên WTO là nước phát triển có nghĩa vụ theo Điều 65(1) Hiệp định TRIPS phải thi hành các quy định này trong vòng một năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tức là cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1995. Các thành viên là nước đang phát triển được dành thêm thời gian ân hạn 4 năm theo Điều 65(2). Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 37 Một số nước đang phát triển đã chỉ ra rằng giai đoạn 5 năm chuyển tiếp cho việc thi hành được quy định theo Điều 65.2 là không đủ để thực hiện các nhiệm vụ hành chính phức tạp và tốn kém theo Hiệp định TRIPS, chẳng hạn việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng hành chính của họ (các cơ quan sở hữu trí tuệ và hệ thống cơ quan hải quan, xét xử), cũng như việc ban hành các luật sở hữu trí tuệ mới. Vì vậy, các nước này muốn được kéo dài thời hạn chuyển tiếp dành cho các nước đang phát triển. Vấn đề này đã được Hội đồng TRIPS bàn đến và được đề cập trong các thông báo của các nước gửi cho WTO trước Hội nghị Bộ trưởng Seattle được tổ chức vào tháng 11 năm 1999. Mặc dù hội nghị Seattle đã bị huỷ bỏ, mối quan tâm của các nước đang phát triển trong việc tìm kiếm sự sửa đổi các quy tắc của Hiệp định TRIPS vẫn được nhắc lại tại Hội nghị Bộ trưởng Doha được tổ chức vào tháng 11 năm 2001. Khoản 18 và 19 Tuyên bố Bộ trưởng được đưa ra tại Doha tuyên bố: 18. Nhằm hoàn thành công việc đã được bắt đầu tại Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hội đồng TRIPS) đối với việc thực hiện Điều 23.4, chúng tôi nhất trí đàm phán về việc thiết lập một hệ thống đa phương thông báo và đăng ký chỉ dẫn địa lý của rượu vang và rượu mạnh tại Phiên họp thứ 5 của Hội nghị Bộ trưởng. Chúng tôi ghi nhận rằng các vấn đề liên quan tới việc mở rộng sự bảo hộ chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 23 liên quan đến các sản phẩm khác không kể rượu vang và rượu mạnh sẽ được giải quyết tại Hội đồng TRIPS theo khoản 12 của Tuyên bố này. 19. Chúng tôi chỉ thị cho Hội đồng TRIPS, trong khi thực hiện chương trình làm việc trong đó có việc rà soát Điều 27.3.b, rà soát việc thực hiện Hiệp định TRIPS theo Điều 71.1 và những vấn đề dự kiến quy định trong khoản 12 của Tuyên bố này, phải xem xét, không kể những lĩnh vực khác, quan hệ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước về Đa dạng sinh học, bảo vệ tri thức truyền thống và văn hoá dân gian cũng như những diễn biến mới liên quan khác được các nước thành viên nêu ra theo Điều 71.1. Để thực hiện nhiệm vụ này, Hội đồng TRIPS phải tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc được quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Hiệp định TRIPS và phải cân nhắc một cách đầy đủ đến quy mô phát triển.” Cả hai chủ đề nêu tại khoản 18 và khoản 19 của Tuyên bố Doha đều thuộc lịch trình rà soát lại Hiệp định TRIPS. Thực tiễn thi hành Hiệp định TRIPS Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 38 Cấp độ quốc gia Các nước đã trở thành thành viên WTO có nghĩa vụ sửa đổi hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của mình cho phù hợp với Hiệp định TRIPS và đưa vào áp dụng các cơ chế thực thi được quy định trong Hiệp định. Kết quả của việc này là sự hài hoà hoá quốc tế về các tiêu chuẩn bảo hộ pháp lý và việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS không phải là một tập hợp đầy đủ các chuẩn mực về sở hữu trí tuệ mà đơn giản chỉ quy định những tiêu chuẩn tối thiểu trong một số lĩnh vực then chốt. Hiệp định dành một số khả năng linh hoạt và một số lĩnh vực quan trọng của việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ để các chính phủ quốc gia điều chỉnh. Những vấn đề này bao gồm các phương thức được sử dụng để thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIPS (ví dụ, lựa chọn hệ thống riêng cho việc bảo hộ giống cây trồng; nội dung các ngoại lệ hạn chế đối với bản quyền, quyền đối với sáng chế, kiểu dáng và nhãn hiệu (ví dụ, việc sao chép hạn chế nhằm mục đích giáo dục); lựa chọn hệ thống đăng ký hoặc hệ thống không yêu cầu về hình thức (ví dụ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp); và thiết lập các tiêu chuẩn vượt quá tiêu chuẩn tối thiểu của Hiệp định TRIPS, còn được gọi là “TRIPS cộng”), Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, vai trò hài hoà hoá của Hiệp định TRIPS còn bị suy yếu bởi các thoả thuận song phương về sở hữu trí tuệ, những thoả thuận áp đặt một số tiêu chuẩn cao hơn Hiệp định TRIPS. Ví dụ, EU và Hoa Kỳ đã ký kết một số hiệp định thương mại tự do trong đó có thay đổi các tiêu chuẩn của TRIPS. Một vấn đề khác cần phải được giải quyết là phạm vi mà các tiêu chuẩn này được mở rộng đến các bên ký kết Hiệp định TRIPS thông qua nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định tại Điều 4. Cấp độ khu vực Một số thoả thuận khu vực về sở hữu trí tuệ quy định việc chấp nhận và thực hiện Hiệp định TRIPS và các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Ví dụ, Hiệp định khung của ASEAN về sở hữu trí tuệ và Hiệp định của APEC đề cập một cách rõ ràng đến việc thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Hiệp định NAFTA có từ trước nhưng cũng có nhiều nội dung tương tự như Hiệp định TRIPS. Tương tự, các Chỉ thị khác nhau của EU về sở hữu trí tuệ, ví dụ Chỉ thị về nhãn hiệu năm 1994, cũng có những quy định phản ánh nội dung của Hiệp định TRIPS và vì vậy nó ràng buộc các Nước thành viên thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Thực thi quyền theo Hiệp định TRIPS Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 39 Việc thi hành có ý nghĩa quan trọng trên thực tế đối với Hiệp định TRIPS nằm ở các quy định về thực thi, theo đó hàng loạt các chế tài về thực thi được quy định cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Các Điều từ 41 đến 50 yêu cầu các thành viên WTO quy định đầy đủ các thủ tục và chế tài thực thi dân sự. Các Điều từ 51 đến 60 buộc các thành viên WTO quy định các thủ tục kiểm soát biên giới cho phép áp dụng các thủ tục hải quan để ngăn chặn việc nhập khẩu hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và hàng sao chép lậu. Các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trước đây không quan tâm đến vấn đề thực thi dân sự. Giờ đây, các chủ thể quyền có thể đòi hỏi các nước quy định các thủ tục để họ có thể thực thi quyền của mình. (a) Thực thi bằng biện pháp dân sự Điều 42 yêu cầu rằng các thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng theo đó bị đơn phải có quyền được “thông báo bằng văn bản một cách kịp thời và chi tiết, trong đó nêu cả căn cứ của các yêu cầu”. Điều 42 cũng yêu cầu về việc cho phép sự hiện diện của cố vấn pháp luật độc lập. Các bên tham gia thủ tục đó “phải có quyền biện minh cho yêu cầu của mình và có quyền đưa ra mọi chứng cứ thích hợp”, các thủ tục không được yêu cầu “quá mức việc đương sự buộc phải có mặt tại toà”. Tương tự như thông lệ trong các thủ tục dân sự ở hầu hết các nước, Điều 43.1 quy định các thủ tục liên quan đến việc phát hiện và quản lý lời khai, khi một bên “đã đưa ra chứng cứ có thể có được một cách hợp lý đủ để biện minh cho những yêu cầu của mình và đã chỉ ra chứng cứ thích hợp để biện minh cho các yêu cầu đó của mình nhưng nằm dưới sự kiểm soát của bên kia”. Điều 43.2 cho phép các Thành viên cho các cơ quan xét xử được “quyền ra quyết định tạm thời và quyết định cuối cùng, khẳng định hoặc phủ định, dựa trên cơ sở những thông tin được đệ trình”. Điều này bao gồm cả “đơn tố cáo hoặc đơn kiện của bên chịu bất lợi vì bị từ chối không được tiếp cận thông tin”. Điều 50.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền “ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời khẩn cấp và hữu hiệu: “b) để bảo toàn các chứng cứ liên quan đến hành vi bị khiếu kiện là xâm phạm quyền”. Theo như lệnh Anton Piller, Điều 50.2 cho phép các cơ quan xét xử được “ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời theo yêu cầu của một bên, nếu phù hợp, … khi có thể thấy rằng chứng cứ đang có nguy cơ bị thủ tiêu”. Ngoài ra, cơ quan xét xử có thể có quyền theo Điều 50.3 “yêu cầu nguyên đơn cung cấp chứng cứ bất kỳ có thể có được một cách hợp lý, đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là chủ thể quyền” và rằng hành vi xâm phạm đã xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra. Hơn nữa, Điều 50.5 quy định rằng để hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền sẽ thực thi biện pháp tạm thời, Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 40 “nguyên đơn có thể được yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết cho việc xác định hàng hoá có liên quan”. Điều 44 cho phép dành cho các cơ quan xét xử quyền “ra lệnh cho một bên chấm dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại nằm trong lãnh thổ của mình” Điều 45.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh “buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường cho những thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã phải gánh chịu do hành vi xâm phạm của người thực hiện hành vi xâm phạm quyền khi đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó.” Nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hành vi xâm phạm quyền, Điều 46 cho phép các thành viên quy định thẩm quyền cho các cơ quan xét xử “để ra lệnh, mà không có bồi thường dưới hình thức bất kỳ, buộc những hàng hoá xâm phạm quyền do các cơ quan đó phát hiện phải bị xử lý bên ngoài các kênh thương mại theo cách thức tránh gây thiệt hại bất kỳ cho chủ thể quyền”. Nếu hiến pháp hiện hành có quy định thì hàng hoá xâm phạm quyền có thể bị tiêu huỷ. Một thẩm quyền bổ sung được quy định cho các cơ quan xét xử là thẩm quyền “ra lệnh buộc xử lý các vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền bên ngoài các các kênh thương mại theo cách thức nhằm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ tiếp diễn hành vi xâm phạm quyền”. Khi xem xét các yêu cầu xử lý hoặc tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm quyền và phương tiện được sử dụng để sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền, các cơ quan xét xử phải chú ý đến “sự cần thiết phải có tính tương xứng giữa các biện pháp chế tài và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm quyền cũng như phải chú ý đến lợi ích của các bên thứ ba.” Đối với hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, Điều 46 quy định rằng “trừ những trường hợp ngoại lệ, việc đơn thuần loại bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hoá một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng hoá đó được đưa vào lưu thông trong các kênh thương mại”. Một sự phát triển đặc biệt hữu ích là thẩm quyền được quy định theo Điều 47 “để ra lệnh buộc người xâm phạm phải thông tin cho chủ thể quyền biết về những người tham gia vào việc sản xuất và phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm quyền và về các kênh phân phối của những người đó”. Điều 47 khuyến nghị không thực hiện thẩm quyền này trong trường hợp điều đó là “không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm quyền”. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 41 Trong trường hợp “các biện pháp thực thi bị lạm dụng”, Điều 48.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên “đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài” phải “bồi thường một cách thoả đáng cho những thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra” cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái. Điều 48.1 cũng quy định rằng nguyên đơn phải trả cho bị đơn “các khoản chi phí đại diện thích hợp”. (b) Các chế tài hình sự Điều 61 quy định rằng các Thành viên phải quy định các thủ tục và hình phạt hình sự “để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu với quy mô thương mại”. Các hình phạt hình sự được liệt kê tại Điều này là: “phạt tù và/hoặc phạt tiền đủ để ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền, tương ứng với mức phạt được áp dụng cho các tội phạm có mức độ nghiêm trọng tương đương”. Ngoài ra, trong những trường hợp thích hợp, Điều 61 quy định về việc “bắt giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm quyền và vật liệu và các phương tiện bất kỳ chủ yếu được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội”. Điều 61 cũng quy định các thủ tục và chế tài hình sự được áp dụng trong các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khác, “đặc biệt là trường hợp cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương mại”. (c) Các biện pháp kiểm soát biên giới Một sự đổi mới quan trọng của Hiệp định TRIPS là việc các thành viên WTO phải quy định và thi hành các biện pháp kiểm soát biên giới để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở mối quan ngại về hoạt động thương mại hàng giả mạo và hàng sao chép lậu đã thúc đẩy sự quan tâm của GATT đến vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, có lẽ mọi người đều cho rằng các kiến trúc sư soạn thảo Hiệp định TRIPS sẽ trông cậy vào sự hỗ trợ của các cơ quan hải quan để ngăn chặn hoạt động thương mại này. Mục 4 Phần III thiết lập một cơ chế đình chỉ việc đưa vào lưu thông hàng hoá bị nghi ngờ là giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hoá sao chép lậu. Việc đình chỉ thông quan có thể được thực hiện trên cơ sở đơn yêu cầu của chủ thể quyền hoặc do các cơ quan kiểm soát biên giới chủ động thực hiện. Điều 51 yêu cầu các Thành viên phải ban hành và thực hiện các thủ tục cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo hoặc hàng hoá sao chép lậu có thể xảy ra, được đệ đơn cho các cơ quan hành chính Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 42 hoặc cơ quan xét xử có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan hải quan đình chỉ thông quan để ngăn chặn hàng hoá đó vào lưu thông tự do. Theo như chú thích của quy định này, thuật ngữ “hàng hoá giả mạo nhãn hiệu” được định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ, kể cả bao bì, mang nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã được đăng ký hợp pháp cho hàng hoá đó hoặc không thể phân biệt với nhãn hiệu đó về những khía cạnh cơ bản, mà không được phép và do vậy xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu đó theo luật của nước nhập khẩu”. Thuật ngữ “hàng hóa sao chép lậu” được định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của người nắm giữ quyền hoặc người được phép của người nắm giữ quyền ở nước sản xuất, và hàng hoá đó được làm ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm ra bản sao sản phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan theo luật của nước nhập khẩu.” Ngoài việc đình chỉ thông quan hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hoá sao chép lậu, Điều 51 còn quy định rằng biện pháp đình chỉ thông quan cũng có thể được áp dụng đối với hành vi xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ khác. Một sự đổi mới đặc biệt hữu ích trong quy định về kiểm soát biên giới là thẩm quyền được trao theo Điều 57 cho phép các Thành viên quy định cho các cơ quan có thẩm quyền, đối với vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ thể quyền, quyền thông báo cho chủ thể quyền biết về “tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hoá đó”. Điều này sẽ hỗ trợ một cách rõ ràng cho chủ thể quyền trong việc tiếp tục điều tra để phát hiện ra những người khác có liên quan đến hàng giả mạo và hàng sao chép lậu. Điều 58 dự tính rằng các Thành viên có thể cho phép các cơ quan có thẩm quyền chủ động hành động trong việc đình chỉ thông quan hàng hoá nếu họ có được những chứng cứ hiển nhiên về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong những tình huống như vậy, Điều này cho phép các cơ quan có thẩm quyền được “yêu cầu chủ thể quyền cung cấp những thông tin có thể giúp họ thực hiện quyền lực đó” Thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS Hiệp định TRIPS buộc các Nước thành viên phải ban hành pháp luật về sở hữu trí tuệ tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong Hiệp định. Vì Hiệp định liên quan đến một số tiêu chuẩn được đề cập trong các điều ước về sở hữu trí tuệ đã tồn tại từ trước, ví dụ Công ước Pari, Công ước Berne và Công ước Rome, do vậy vấn đề thi hành Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 43 các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS không phải là vấn đề quá khó khăn đối với hầu hết các nước. Sau đây là những lĩnh vực mà có thể yêu cầu phải có quy định pháp luật mới để điều chỉnh. Nhãn hiệu Các yêu cầu của Hiệp định TRIPS thường sẽ đòi hỏi các nước thành viên phải mở rộng việc kiểm tra khả năng được đăng ký của nhãn hiệu, chấp nhận chế độ kiểm tra của Hiệp định TRIPS về “có khả năng phân biệt” bổ sung cho khả năng tự phân biệt. Với một số nước, định nghĩa về dấu hiệu có khả năng đăng ký của Hiệp định TRIPS là một lĩnh vực then chốt của việc sửa đổi pháp luật trong nước vì đã có sự thừa nhận rộng rãi rằng thị trường đã mở rộng đến mức định nghĩa trước đây về “nhãn hiệu” không thể hiện đầy đủ phạm vi các dấu hiệu phân biệt được sử dụng trong thương mại. Hiệp định TRIPS đã đưa ra một điểm phân biệt rất hữu ích giữa bản thân một nhãn hiệu với các dấu hiệu hoặc sự kết hợp của các dấu hiệu có thể tạo thành một nhãn hiệu. Hiệp định TRIPS cũng chứa đựng một tiêu chí hữu ích về khả năng nhìn thấy được bằng mắt thường đối với các dấu hiệu có khả năng đăng ký mà có thể bao gồm các khía cạnh của bao bì, hình dạng sản phẩm, màu sắc, âm thanh hoặc mùi vị. Hiệp định TRIPS tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể cho việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Công ước Pari và làm rõ cũng như bổ sung các quy định này, cụ thể là o bằng việc mở rộng việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cho các dịch vụ, o bằng việc quy định rằng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng áp dụng cho các hành vi sử dụng liên quan đến các hàng hoá hoặc dịch vụ không liên quan đến hàng hoá hoặc dịch vụ đã đăng ký, với điều kiện việc sử dụng nhãn hiệu như vậy có thể biểu thị một mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu và lợi ích của chủ sở hữu có thể bị thiệt hại. o bằng việc yêu cầu rằng trong quá trình xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không, phải tính đến sự biết đến nhãn hiệu của bộ phận công chúng có liên quan, trong đó có việc biết đến nhãn hiệu do kết quả của hoạt động quảng cáo nhãn hiệu. Sáng chế Đối với hầu hết các nước phát triển, các nghĩa vụ liên quan đến sáng chế của Hiệp định TRIPS chủ yếu đòi hỏi: Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 44 o kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế chuẩn lên 20 năm o chuyển nghĩa vụ chứng minh trong các vụ xâm phạm độc quyền đối với sáng chế về quy trình, với điều kiện toà án phải tính đến các lợi ích hợp pháp của bị đơn trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh và bí mật sản xuất o áp dụng các quy định của Điều 31 về li-xăng cưỡng bức, đặc biệt yêu cầu đối với toà án trong việc xác định người nộp đơn yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức đã nỗ lực trong một thời hạn hợp lý để được chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép khai thác sáng chế với những điều khoản và điều kiện hợp lý. Đối với một số nước đang phát triển, việc mở rộng phạm vi bảo hộ tới các quy trình cũng như các sản phẩm đòi hỏi những thay đổi đáng kể về luật pháp. Bằng độc quyền sáng chế, Quyền đối với giống cây trồng và sáng chế về công nghệ sinh học Điều 27.3(b) Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng “các Thành viên phải bảo hộ giống cây trồng hoặc theo bằng độc quyền sáng chế hoặc theo một hệ thống riêng hữu hiệu hoặc theo hệ thống kết hợp cả hai”. Điều này cũng quy định rằng “các quy định của khoản này phải được rà soát lại sau 4 năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực”. Theo sự rà soát được bắt đầu vào năm 1999, đã có một sự tranh cãi sôi nổi về nội dung của các hệ thống riêng có thể tuân thủ Điều 27.3(b). Vì không có quy định nào của Hiệp định TRIPS dẫn chiếu đến Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV), cần cân nhắc đến sự chậm trễ trong việc thiết lập một hệ thống riêng. Hơn nữa, các yếu tố then chốt cho việc phát triển hệ thống riêng là không rõ ràng hoặc không được xác định. Trước hết, có thể có nhiều cách thức xác định thuật ngữ giống cây trồng. Để được bảo hộ theo hệ thống quyền của nhà tạo giống cây trồng truyền thống (PBR), giống cây trồng phải đáp ứng tiêu chuẩn về tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định (DUS). Có ý kiến đề xuất rằng “tính đồng nhất” và “tính ổn định” có thể được thay thế bằng tiêu chuẩn về khả năng nhận dạng, cho phép gộp các quần thể cây trồng mà không đồng nhất hơn, nhờ vậy quan tâm được đến lợi ích của các cộng đồng bản địa. Phạm vi bảo hộ có thể chỉ giới hạn ở các bộ phận nhân giống của cây hoặc có thể được mở rộng để bao gồm cả các vật liệu thu hoạch. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 45 Thứ hai, Hiệp định TRIPS không cấm phát triển các hệ thống bảo hộ bổ sung, cũng không cấm bảo hộ đối tượng bổ sung để bảo vệ các hệ thống tri thức bản địa và các đổi mới không chính thống, cũng như để ngăn ngừa sự chiếm đoạt bất hợp pháp. Việc soạn thảo và thông qua Hiệp định TRIPS ban đầu về cơ bản không có sự tham gia tích cực của các nước đang phát triển. Quan điểm đàm phán chính của các nước đang phát triển trong suốt Vòng Uruguay là vấn đề về sự phù hợp của sở hữu trí tuệ với GATT, đặc biệt là vì WIPO đã được thành lập với tư cách là một cơ quan chuyên môn về sở hữu trí tuệ của Liên hợp quốc. Sự không tham gia của các nước đang phát triển trong việc giải quyết các nội dung của Hiệp định TRIPS trong Vòng đàm phán Uruguay đã được khắc phục bằng việc tham gia tích cực của họ trong tiến trình rà soát. Hàng loạt các nhóm nước đang phát triển theo khu vực đã tổ chức các cuộc họp để thoả thuận với nhau về quan điểm đàm phán chung đối với việc rà soát Hiệp định TRIPS cũng như Công ước về đa dạng sinh học. Một Thông báo do Kenya gửi WTO thay mặt cho Nhóm châu Phi hỗ trợ các nội dung chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng năm 1999 đã chỉ ra rằng vì hạn chót để các nước đang phát triển thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIPS là tháng 1 năm 2000 nên việc rà soát sẽ được thực hiện trước khi các nước đang phát triển thực thi nghĩa vụ của mình. Vì các nước đang phát triển có thể không có đủ kinh nghiệm về sự vận hành của Hiệp định nên họ có thể không có cơ hội từ trước để tiến hành các nghiên cứu đánh giá tác động của việc thực hiện Hiệp định này. Hơn nữa, Thông báo này cũng chỉ ra rằng việc rà soát cần lường trước tác động của các tranh cãi tại những diễn đàn có liên quan khác như CBD, UPOV, FAO, Thoả thuận quốc tế về các nguồn gen thực vật (International Undertaking on Plant Genetic Resources) và sự phát triển luật mẫu của OAU về quyền của cộng đồng và kiểm soát việc tiếp cận nguồn sinh học. Các nước đang phát triển cũng đề xuất cho phép kéo dài thêm 5 năm trước khi rà soát Điều 27.3(b). Nhóm các nước châu Phi đã đề xuất rằng “sau câu về bảo hộ giống cây trồng nêu trong Điều 27.3(b), cần chèn vào một chú thích tuyên bố rằng luật riêng bất kỳ về bảo hộ giống cây trồng đều có thể quy định: (i) việc bảo hộ các kết quả đổi mới của các cộng đồng nông dân bản địa và địa phương, phù hợp với Công ước về đa dạng sinh học và Thoả thuận quốc tế về nguồn gen thực vật; Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 46 (ii) sự tiếp tục của các thực tiễn nông nghiệp truyền thống, trong đó có quyền giữ lại, trao đổi và giữ hạt giống và bán sản phẩm thu hoạch; (iii) ngăn cản quyền hoặc thực tiễn phản cạnh tranh, những hoạt động sẽ đe doạ quyền được tiếp cận lương thực của người dân ở các nước đang phát triển, như được phép theo Điều 31 của Hiệp định TRIPS.” Vào ngày 4 tháng 10 năm 1999, Bolivia, Columbia, Ecuador, Nicaragua và Pêru đã có đề xuất cụ thể rằng Hội nghị Bộ trưởng Seattle giao nhiệm vụ trong khuôn khổ Vòng đàm phán (a) phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan khác, tiến hành nghiên cứu để đưa ra các khuyến nghị về các cách thức phù hợp nhất để công nhận và bảo vệ tri thức truyền thống dưới danh nghĩa là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. (b) Trên cơ sở các khuyến nghị nêu trên, khởi xướng các cuộc đàm phán nhằm thiết lập một khuôn khổ pháp lý đa phương cho phép bảo hộ có hiệu quả đối với các hình thức diễn đạt và biểu hiện của tri thức truyền thống. (c) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý được dự kiến nêu tại điểm (b) trên đây để cuối cùng sẽ đưa vào thành một phần kết quả của vòng đàm phán thương mại này. Thông báo ngày 6 tháng 8 năm 1999 của Venezuela đề xuất rằng Hội nghị Bộ trưởng Seattle nên xem xét việc thiết lập “một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ - trên cơ sở bắt buộc trong khuôn khổ Hiệp định TRIPS - với một nội dung mang tính đạo đức và kinh tế áp dụng cho tri thức truyền thống của các cộng đồng bản địa và địa phương, cùng với việc thừa nhận nhu cầu xác định rõ các quyền của các chủ thể quyền tập thể". Như được giải thích tại các tài liệu khác, Hội đồng TRIPS hiện đang xem xét một số đề xuất về việc xác định các phương án lựa chọn về hệ thống riêng theo Điều 27.3(b). Nhiệm vụ nghiên cứu để đưa tri thức truyền thống vào chế định sở hữu trí tuệ được chuyển giao cho WIPO. Quyền tác giả và quyền liên quan Các nghĩa vụ về quyền tác giả của Hiệp định TRIPS không đưa ra các nghĩa vụ thi hành đặc biệt khó khăn đối với các Nước thành viên vì hầu như chỉ yêu cầu việc thực hiện Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 47 các nghĩa vụ mà các Nước thành viên đã chấp nhận theo Công ước Berne. Các nghĩa vụ mới cơ bản đối với các Nước thành viên là: o Bảo hộ chương trình máy tính như các tác phẩm văn học; o Dành quyền cho những người biểu diễn có “khả năng ngăn cản” việc ghi âm trái phép các chương trình biểu diễn của họ và làm bản sao các bản ghi âm hoặc phát sóng trái phép âm thanh các buổi biểu diễn trực tiếp của họ. Thiết kế bố trí (Topographies) mạch tích hợp Đối với hầu hết các nước đang phát triển, các nghĩa vụ nêu trong các Điều từ 35 đến 37 về bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp đòi hỏi phải ban hành các quy định pháp luật mới. Chưa có nhiều mối quan tâm từ các quốc gia sản xuất mạch tích hợp về việc ban hành các quy định pháp luật mới này. Bảo hộ thông tin bí mật Ở hầu hết các nước theo hệ thống luật án lệ, pháp luật và các nguyên tắc luật chung đủ để thi hành các nghĩa vụ theo Điều 39 Hiệp định TRIPS về bảo hộ dữ liệu bí mật. Tuy nhiên, cần phải xây dựng một số quy định pháp luật để bảo hộ dữ liệu thử nghiệm liên quan đến dược phẩm và các hoá chất nông nghiệp và thú y. Kiểm soát các hoạt động phản cạnh tranh trong các li-xăng theo hợp đồng (Điều 40) Điều 40.2 Hiệp định TRIPS cho phép các nước thành viên ngăn cấm hoặc kiểm soát các hoạt động li-xăng gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ có tác động bất lợi đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường có liên quan. Điều này tạo cơ hội cho các nước áp dụng các biện pháp loại bỏ các hoạt động phản cạnh tranh bằng các biện pháp theo luật cạnh tranh hoặc trong các quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ. 5. Nguyên tắc song phương trong vấn đề sở hữu trí tuệ Giới thiệu Một điều rõ ràng là trong mọi giai đoạn đàm phán Hiệp định TRIPS, những người tham gia đàm phán chính (Hoa Kỳ, EC và Nhật Bản) cho rằng Hiệp định TRIPS chỉ quy định những nghĩa vụ tối thiểu. Hiệp định TRIPS dành cho các Thành viên quyền tự quyết trong việc thực hiện “sự bảo hộ có phạm vi rộng hơn” so với các tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định Hiệp định TRIPS (xem Điều 1.1.). Hiệp định TRIPS cũng cho phép các thành Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 48 viên quy định một cách cụ thể một số tiêu chuẩn được lựa chọn trong số các tiêu chuẩn hoặc lựa chọn khi chấp nhận các tiêu chuẩn (các tiêu chuẩn được tạo ra theo sự lựa chọn). Vì vậy, Điều 27.3 cho phép các thành viên quy định một cách cụ thể các tiêu chuẩn về khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế bằng việc loại trừ một số đối tượng không được cấp bằng độc quyền sáng chế và Điều 27.3(b) cho phép các thành viên quyền lựa chọn cách thức bảo hộ giống cây trồng. Các quy định chuyển tiếp nêu tại Điều 65 và 66 dành quyền cho các nước đang phát triển, các nước vốn có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và các nước kém phát triển quyết định thời điểm thông qua và thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Một thoả thuận song phương mà (a) đòi hỏi một Thành viên phải thi hành một tiêu chuẩn có phạm vi rộng hơn; hoặc (b) loại bỏ quyền lựa chọn của một Thành viên theo tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS, được coi là có tiêu chuẩn cao hơn TRIPS. Các hiệp ước song phương cũng quy định những tiêu chuẩn về những vấn đề mà Hiệp định TRIPS không giải quyết (ví dụ, việc nhân bản trong luật bản quyền có bao gồm việc sao tạm thời hay không) và do đó hoàn toàn không phải là cao hơn TRIPS. Để giảm chi phí cho việc thực hiện nguyên tắc song phương, Hoa Kỳ đã phát triển một số mô hình hoặc nguyên mẫu của các hiệp ước song phương mà nước này mong muốn ký kết với các nước khác. Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan là một ví dụ khác về hiệp định mẫu theo dạng này. Đây là một hiệp định có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm các quy định liên quan đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, môi trường và lao động, thương mại điện tử và mua sắm chính phủ. Trái với các quy định tương đối mềm dẻo về môi trường và lao động (ví dụ mỗi Bên “phải cố gắng bảo đảm” rằng các tiêu chuẩn về lao động của mình phù hợp với các chuẩn mực quốc tế (Điều 6.3), các quy định về sở hữu trí tuệ dài và chi tiết hơn. Những nội dung cao hơn tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS trong Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan bao gồm: • Yêu cầu mỗi Bên phải thi hành Công ước UPOV và Jordan phải gia nhập Công ước UPOV trong vòng 12 tháng; Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 49 • Dành cho tác giả, người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền nhập khẩu; • Quy định việc sử dụng phần mềm máy tính của chính phủ; • Thu hẹp các căn cứ loại trừ khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế (về cơ bản loại bỏ các căn cứ loại trừ theo Điều 27.3(b)); • Quy định li-xăng cưỡng bức được soạn lại, giới hạn việc sử dụng li-xăng cưỡng bức trong những trường hợp cụ thể hơn so với quy định của Hiệp định TRIPS, đặt ra các điều kiện cho việc sử dụng li-xăng cưỡng bức. (Các trường hợp cụ thể này là nhằm xử lý các hành động phản cạnh tranh, sử dụng vì mục đích công cộng phi thương mại, các tình huống khẩn cấp quốc gia và các trường hợp khẩn cấp khác, và vì lý do không đáp ứng yêu cầu về việc sử dụng); và • Nghĩa vụ quy định kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế để đền bù cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế vì những chậm trễ do pháp luật gây ra đối với khả năng khai thác độc quyền đối với sáng chế. Có một số khía cạnh quan trọng khác khiến hiệp định này trở thành có tiêu chuẩn cao hơn Hiệp định TRIPS hoặc tạo ra bước phát triển về quyền sở hữu trí tuệ vượt ra khỏi phạm vi của Hiệp định TRIPS. Nhìn chung, rõ ràng là Hoa Kỳ đã thiết lập một hiệp định mẫu giải quyết được các vấn đề đã nhìn thấy trước từ Hiệp định TRIPS hoặc giải quyết được một số vấn đề không rõ ràng của Hiệp định TRIPS. Theo đó, ví dụ Điều 39.3 Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên phải bảo hộ dữ liệu được nộp trong đơn xin phép tiếp thị dược phẩm hoặc sản phẩm hoá nông chứa “các hoá chất mới”, đã để ngỏ vấn đề thế nào là một hoá chất mới, trong khi đó Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan quy định rằng độc quyền đối với hoá chất mới bao gồm cả “độc quyền đối với các dạng sử dụng mới của một hoá chất đã biết trong thời hạn 3 năm”. Tác động của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) đối với nguyên tắc song phương Nguyên tắc MFN từng là một nguyên tắc then chốt điều chỉnh các quan hệ thương mại giữa các quốc gia, đặc biệt là trong khuôn khổ của GATT. Hiệp định TRIPS quy định về nguyên tắc này tại Điều 4. Theo nội dung của điều này, trường hợp một Thành viên của TRIPS dành “một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ bất kỳ” cho công dân của nước bất kỳ khác (tức là nước này không nhất thiết phải là thành viên của Hiệp định TRIPS) thì cũng phải dành sự ưu đãi tương tự cho công dân của các thành viên khác Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 50 của Hiệp định TRIPS. Việc áp dụng nguyên tắc này được hạn chế (ví dụ, không được áp dụng cho các thoả thuận quốc tế (như thoả thuận song phương về sở hữu trí tuệ) có hiệu lực trước khi Hiệp định WTO có hiệu lực (trừ các thoả thuận tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác)). Tác động lớn của nguyên tắc MFN là cân bằng việc dành các đặc quyền và ưu đãi giữa các thành viên của một nhóm các quốc gia có quan hệ thương mại được điều chỉnh theo nguyên tắc này. Trong trường hợp Hiệp định TRIPS, nguyên tắc MFN đã được soạn thảo theo cách khiến cho nguyên tắc này được áp dụng theo một cách thức tương đối không hạn chế. Ví dụ, điều khoản này không tương đương với Điều XXIV. Mỗi khi các nước đang phát triển là thành viên WTO ký kết một thoả thuận quốc tế, bất kể là song phương hay đa phương, theo đó dành sự ưu đãi nhiều hơn so với Hiệp định TRIPS cho một quốc gia khác thì sẽ dẫn đến việc nguyên tắc MFN sẽ buộc các nước đang phát triển này phải dành những sự ưu đãi đó cho tất cả các thành viên WTO (tuỳ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 4). Điều này có nghĩa là nguyên tắc MFN trong Hiệp định TRIPS khi được kết hợp với các thoả thuận song phương sẽ làm lợi cho hai nhà xuất khẩu sở hữu trí tuệ hàng đầu thế giới, đó là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Một khi Hoa Kỳ đàm phán một hiệp định với một thành viên WTO là nước đang phát triển, nguyên tắc MFN đảm bảo rằng EU sẽ được hưởng lợi từ các tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đạt được. Cũng như vậy trong trường hợp EU đạt được các lợi ích từ một thoả thuận song phương liên quan tới sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, điều này cũng đúng trong trường hợp Hoa Kỳ và EU đàm phán với nhau các thoả thuận song phương chứa đựng các tiêu chuẩn cao hơn TRIPS, những tiêu chuẩn này sẽ trở thành những mục tiêu thực tiễn của các tiêu chuẩn tối thiểu mới mà vòng đàm phán thương mại bất kỳ của WTO trong tương lai sẽ phải đạt được. Điểm then chốt là nguyên tắc MFN khi được kết hợp với nguyên tắc song phương về sở hữu trí tuệ sẽ có tác dụng mở rộng và thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu mới về sở hữu trí tuệ nhanh hơn. Tài liệu tham khảo Abbott, Frederick M., Thomas Cottier, Francis Gurry, The International Intellectual Property System, Commentary and Materials, Kluwer Law International, 1999. Antons, C. M. Blakeney và C. Heath, Intellectual Property Harmonisation Within ASEAN and APEC, The Hague: Kluwer Law International, 2004. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 51 Battiste, Marie, Protecting Indigenous Knowledge And Heritage: A Global Challenge, Saskatoon: Purich Pub., 2000. Black, Trevor, Intellectual Property In The Digital Era, London: Sweet & Maxwell, 2002. Blakeney, M Trade Related Aspects of Intellectual Property Rights: A Concise Guide to the TRIPS Agreement, Sweet & Maxwell, London, 1996 Cooper Dreyfuss, Rochelle & Zimmerman, Diane Leenheer & First, Harry, Expanding The Boundaries Of Intellectual Property : Innovation Policy For The Knowledge Society, Oxford ; New York : Oxford University Press, 2001. Correa, Carlos M. Abdulqawi A. Yusuf eds, Intellectual Property and International Trade: The TRIPS Agreement, Kluwer Law International, London, Boston, 1998 D’Amato, Anthony and Doris E. Long eds, International Intellectual Property Law, Kluwer Law International, London; Boston, 2001 Doern, G. Bruce, Global Change And Intellectual Property Agencies: An Institutional Perspective, London: Pinter, 1999. Drahos, Peter and Mayne, Ruth, Global Intellectual Property Rights: Knowledge, Access & Development, Macmillan 2001. Endeshaw Assafa, Intellectual property policy for non-industrial countries Aldershot: Dartmouth 1996. Ficsor, Mihály, The Law Of Copyright And The Internet: The 1996 WIPO Treaties, Their Interpretation And Implementation, Oxford University Press, 2002. Gervais Daniel, The TRIPS Agreement: Drafting History and Analysis, Sweet & Maxwell, London, 1998. Goldstein, Paul, International Intellectual Property Law: Cases and Materials, New York: Foundation Press, 2001 Heath, Christopher, Intellectual Property In The Digital Age: Challenges For Asia, The Hague; Boston: Kluwer Law International, 2001. Ilardi, A and M. Blakeney, International Encyclopaedia of Intellectual Property Treaties Oxford: Oxford University Press 2004. Letterman, G. Gregory, Basics Of International Intellectual Property Law, Ardsley, N.Y.: Transnational Publishers, 2001. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp 52 Maskus Keith E., Intellectual Property Rights in the Global Economy, Washington, D.C. Institute for International Economics, 2000. May, Christopher and Sell, Susan, A Critical International History of Intellectual Property Rights, Lynne Rienner Publishers 2005. Nolff, Markus, Trips, PCT, And Global Patent Procurement, London: Kluwer Law International, 2001. Petersmann, Ernst-Ulrich and Harrison, James eds., Reforming the World Trading System: Legitimacy, Efficiency and Democratic Governance, Oxford University Press, 2005. Primo Braga, Carlos A, Intellectual Property Rights And Economic Development. Washington, D.C.: World Bank, 2000. Reinbothe, Jorg, The WIPO Treaties 1996: The WIPO Copyright Treaty And The WIPO Performances And Phonograms Treaty, London: Butterworths, 2002. Sell Susan, Private Power, Public Law: The Globalization of Intellectual Property Rights, Cambridge University Press, May 2003 WIPO, Guide To Intellectual Property Worldwide, Geneva: WIPO, 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuật quốc tế về sở hữu trí tuệ.pdf