Luật kinh tế - Những vấn đề cơ bản về luật kinh tế ở Việt Nam

Từ năm 1986, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường. Hiệu quả kinh tế đạt được trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương đó. Vì vậy, cơ chế thị trường đã được HP 1992 của nước ta ghi nhận thành nguyên tắc hiến định. Cả lý luận và thực tiễn đều đã khẳng định rằng nền kinh tế nào cũng cần nêu cao vai trò quản lý của nhà nước. Với bản chất “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ta lại càng to lớn. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp về quan hệ kinh tế, với sự đa dạng về chủ thể, về lợi ích, về hình thức pháp lý, Dù phức tạp thế nào đi nữa, sự quản lý của nhà nước cũng phải đảm bảo một nền kinh tế có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có định hướng rõ rệt. Vì vậy, yêu cầu khách quan do nền kinh tế thị trường đặt ra đối với pháp luật thể hiện ở mức độ khái quát sau: a) Trong nền kinh tế thị trường văn minh, việc đảm bảo sự thống nhất, hài hoà giữa kinh tế và xã hội là yêu cầu khách quan. Hai mặt này vốn luôn ở trạng thái mâu thuẫn nhau. Trong khi đó, với mục đích nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, bản thân nền kinh tế thị trường không bao hàm trong nó cơ chế bảo đảm các vấn đề xã hội. Sự thống nhất giữa sự phát triển cả kinh tế lẫn xã hội chỉ có thể đạt được bằng sự can thiệp của nhà nước bằng pháp luật. Bởi vì, m ột trong những giá trị xã hội to lớn của pháp luật là gắn liền với những thuộc tính đặc trưng của đời sống cộng đồng, là “khế ước của cộng đồng”.

pdf67 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2010 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật kinh tế - Những vấn đề cơ bản về luật kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u Nhà nước hoặc cơ bản thuộc về Nhà nước. Thứ hai, đặc điểm về quyền quyết định hoặc quyền chi phối với doanh nghiệp: Vì doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn Điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối nên Nhà nước có toàn quyền định đoạt đối với doanh nghiệp hoặc quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách thức các chức danh quản lý chủ chốt, đối với việc tổ chức quản lý và các quyết định quản lý quan trọng khác của doanh nghiệp. Thứ ba, đặc điểm về hình thức tồn tại: Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay rất đa dạng, nó có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như Công ty Nhà nước, Công ty cổ phần Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước có từ hai thành viên trở lên, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước: Thứ tư, đặc điểm về tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản. Doanh nghiệp hà nước là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, thực hiện hách toán kinh doanh, lấy thu bù chi và phải đảm bảo có lãi để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp nhà nước có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng đó về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ( trách nhiệm hữu hạn) Như vậy, doanh nghiệp nhà nước độc lập cả về kinh tế và pháp lí. Trong cơ chế thị trường hiện nay, Nhà nước không chịu trách nhiệm thay cho doanh nghiệp mà doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về số vốn mà nhà nước đầu tư vào trong doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước khách hàng bằng tài sản của doanh nghiệp. 2. Các loại doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau: a. Dựa theo hình thức tổ chức, doanh nghiệp nhà nước có thể được chia thành các loại sau đây: - Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Nhà nước thành lập, tổ chức, quản lí, đăng kí hoạt động công ty nhà nước theo quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 và các văn bản thi hành. Công ty nhà nước tồn tại dưới hình thức công ty nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước. CP D Co lle ge 50 - Công ty cổ phần nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ các cổ đông là các công ty nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiẹp 2005 - Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên: là công ty trách nhiệm hữu hạn do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lí và đăng kí hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 - Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có từ hai thành viên trở lên: là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên công ty là các công ty nhà nước hoặc các tổ chức được nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005. - Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó b. Dựa theo nguồn vốn, doanh nghiẹp nhà nước có thể được chia ra các loại sau: - Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu 100% vốn. Đó là các công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên. Những doanh nghiệp này, mặc dù được tổ chức theo các hình thức khác nhau nhưng đều do nhà nướcđầu tư 100% vốn. - Doanh nghiệp do nhà nước có cổ phần, vốn góp chi phối. Đó là các công ty cổ phần mà nhà nước chiếm trên 50% cổ phiếu, công ty trách nhiệm hữu hạn mà nhà nước chiếm trên 50% phần vốn góp. Trong loại doanh nghiệp có sự đan xen sở hữu nhà nước và sở hữu của các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác. c. Dựa theo mô hình tổ chức quản lý, doanh nghiệp nhà nước có thể được chia ra các loại sau: - Doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị: là doanh nghiệp nhà nước mà ở đó hội đồng quản trị là cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước thực hiện chức năng quản lý hoạt động của doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị: là doanh nghiệp nhà nước mà ở đó giám đốc doanh nghiệp được nhà nước bổ nhiệm hoặc thuê để điều hành hoạt động của doanh nghiệp và phải chịu trách nhiệm trách nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. II. TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY NHÀ NƯỚC Như trên đã phân tích, doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên đều được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005. Chỉ có công ty nhà nước là được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghệp nhà nước năm CP D Co lle ge 51 2003. Vì vậy, phần này chỉ đề cập đến vấn đề tổ chức quản lí của công ty nhà nước. 1. Công ty nhà nước không có hội đồng quản trị Công ty nhà nước không có hội đồng quản trị có cơ cấu quản lí gồm giám đốc, các phó giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Cơ cấu quản lí này được áp dụng đối với các công ty nhà nươc có quy mô nhỏ. . Giám đốc: là người đại diện theo pháp luật của công ty. Là người điều hành cao nhất trong công ty và phải chịu trách nhiệm một mình về toàn bộ hoạt động của công ty. Giám đốc do người kí quyết định thành lập công ty bổ nhiệm hoặc thuê trên cơ sở hợp đồng. Như vậy, giám đốc công ty nhà nước hiện nay không nhất thiết phải là người của nhà nước nữa mà có thể là bất kì một người nào, kể cả người nước ngoài, có đủ tiêu chuẩn và điều kiện theo quy đinh của pháp luật. Đó là người có năng lực kinh doanh và tổ chức quản lí công ty, có trình độ đại học, có chuyên môn thuộc lĩnh vực kinh doanh chính của công ty, có ít nhất ba năm kinh nghiệm tham gia quản lí. Ngoài ra, giám đốc còn phải sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết, hiểu biết pháp luật, thường trú tại Việt nam. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã quy định những trường hợp không được đảm nhiệm chức vụ giám đốc, đó là: Những người đã làm giám đốc công ty nhà nước nhưng vi phạm kỉ luật đến mức bị cách chức, miễn nhiệm hoặc để Công ty thua lỗ hai năm liên tiếp, người bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý điều hành doanh nghiệp theo quy định của Pháp luật (Điều 24 Luật doanh nghiệp Nhà nước). Giám đốc được bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng theo thời hạn không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại hoặc ký tiếp hợp đồng. Giám đốc phải chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm hoặc người ký hợp đồng thuê và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền, nhiệm vụ được giao. Giám đốc có thể bị miễn nhiệm hoặc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Giám đốc được hưởng chế độ lương theo năm. Mức tiền lương và tiền thưởng tương ứng với hiệu quả hoạt động của Công ty, do người quyết định bổ nhiệm quyết định hoặc theo hợp đồng đã ký. Tiền lương được tạm ứng hàng tháng, quyết toán hàng năm. Tiền thưởng hàng năm được tính dựa vào kết quả kinh doanh năm của Công ty và chỉ được chi trả một phần. Phần còn lại được chi trả sau khi kết thúc nhiệm kỳ. Đây là quy định mới nhằm gắn trách nhiệm của Giám đốc với kết quả kinh doanh của Công ty, dù là Giám đốc được bổ nhiệm hay được thuê. Nếu Giám đốc để Công ty Nhà nước lỗ; để mất vốn Nhà nước; quyết định dự án đầu tư không hiệu quả, không thu hồi được vốn đầu tư, không đảm bảo tiền lương và các chế độ khác cho người lao động trong Công ty; để xảy ra các sai phạm về quản lý vốn, tài sản, về chế độ kế toán, kiểm toán; để Công ty lỗ hai năm liên tiếp hoặc không đạt chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn Nhà nước đầu tư thì sẽ không được thưởng, không được nâng lương, bị hạ lương và bồi thường thiệt hại cho Nhà nước theo quy định của pháp luật. PD C oll eg e 52 Nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của Giám đốc được quy định cụ thể trong các Điều 26, 27 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Giám đốc Công ty Nhà nước không có hội đồng quản trị có quyền tự quyết cao trong việc quản lý điều hành Công ty Nhà nước vì không bị ràng buộc bởi các Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng Quản trị như các Giám đốc Công ty có Hội đồng Quản trị. Nhưng cũng vì thế mà trách nhiệm của Giám đốc trong Công ty Nhà nước không có Hội đồng Quản trị cũng nặng nề hơn: Một mình quyết định và một mình chịu trách nhiệm. * Các Phó Giám đốc và kế toán trưởng: Các Phó Giám đốc giúp Giám đốc điều hành Công ty theo phân công và sự ủy quyền của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật và nhiệm vụ được phân công và ủy quyền. Kế toán trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán của Công ty; giúp Giám đốc giám sát tình hình tài chính của công ty theo pháp luật về tài chính, kế toán chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước Pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền. Ngoài ra, trong Công ty Nhà nước còn có văn phòng và các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng tham mưu giúp việc cho Giám đốc, các Phó Giám đốc trong quản lý điều hành công việc. 2. Công ty Nhà nước có Hội đồng quản trị: Công ty Nhà nước có Hội đồng Quản trị có cơ cấu quản lý gồm: Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Cơ cấu này được áp dụng ở các tổng Công ty Nhà nước và các Công ty Nhà nước độc lập có quy mô lớn. * Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị được thành lập ở các tổng Công ty Nhà nước và Công ty Nhà nước độc lập có quy mô lớn để thực hiện chức năng quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty. Đây là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu Nhà nước tại Công ty Nhà nước có quyền nhân danh Công ty Nhà nước để quyết định mọi vấn đề liên quan dến việc xác định và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của Công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền trách nhiệm của chủ sở hữu phân cấp cho cơ quan, tổ chức khác. Hội đồng Quản trị gồm Chủ tịch hội đồng Quản trị và các thành viên hội đồng quản trị, trong đó có các thành viên chuyên trách và có thể có thành viên không chuyên trách nhưng Chủ tịch Hội đồng Quản trị và trưởng ban kiểm soát phải là thành viên chuyên trách. Tổng Giám đốc có thể là thành viên Hội đồng Quản trị và trưởng ban kiểm soát phải là thành viên chuyên trách. Tổng Giám đốc có thể là thành viên Hội đồng Quản trị. Số lượng thành viên Hội đồng Quản trị do người quyết định thành lập Công ty quyết định nhưng không quá 7 người. Những người này cũng do người quyết định thành lập Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc thay thế, khen thưởng kỷ luật. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng CP D Co lle ge 53 Quản trị không quá 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại. Tiêu chuẩn và điều kiện của thành viên Hội đồng quản trị được quy định tại Điều 31 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Hội đồng Quản trị làm việc theo chế độ tập thể: Mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng Quản trị đều được xem xét và quyết định theo đa số tại các cuộc họp của Hội đồng Quản trị hoặc lấy ý kiến các thành viên bằng văn bản. Hội đồng Quản trị phải họp ít nhất mỗi quý một lần để xem xét và quyết định những vấn đề thuộc quyền hạn nhiệm vụ của mình. Đối với những vấn đề không cần thảo luận thì Hội đồng Quản trị có thể lấy ý kiến các thành viên bằng văn bản. Hội đồng Quản trị có thể họp bất thường để giải quyết các vấn đề cấp bách của Công ty do Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc hoặc trên 50% tổng số thành viên Hội đồng Quản trị đề nghị. Các cuộc họp hoặc lấy ý kiến các thành viên Hội đồng Quản trị chỉ hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự. Nghị quyết, quyết định của Hội đồng Quản trị có hiệu lực khi có trên 50% tổng số thành viên biểu quyết tán thành, tường hợp số phiếu ngang nhau thì bên có phiếu của Chủ tịch Hội đồng Quản trị là quyết định. Các thành viên Hội đồng Quản trị phải cùng nhau chịu trách nhiệm trước người ra quyết định bổ nhiệm và trước pháp luật về các quyết định của Hội đồng Quản trị. Thành viên nào bảo lưu ý kiến của mình sẽ không phải chịu trách nhiệm về quyết định đó của Hội đồng Quản trị. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Quản trị được quy định tại Điều 30 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Chủ tịch và các thành viên Hội đồng Quản trị phải thực hiện một cách trung thực, có trách nhiệm các quyền hạn và nhiệm vụ được giao vì lợi ích của Công ty và lợi ích của Nhà nước, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và pháp luật (Điều 43 Luật doanh nghiệp Nhà nước). Để kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của các bộ phận khác trong Công ty, Hội đồng Quản trị thành lập ban kiểm soát gồm trưởng ban là thành viên Hội đồng Quản trị và một số thành viên khác có Hội đồng Quản trị quyết định, trong đó có một đại diện của Công đoàn Công ty. Thành viên ban kiểm soát phải có các tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại Điều 37 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Ban kiểm soát phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị về thực hiện nhiệm vụ được giao. * Tổng Giám đốc: Như trên đã phân tích, Hội đồng Quản trị làm việc theo chế độ tập thể, các phiên họp được tiến hành theo định kỳ (hằng quý mới họp một lần). Còn Tổng Giám đốc là người điều hành hoạt động hằng ngày của Công ty, do đó Tổng Giám đốc có vai trò đặc biệt quan trọng trong Công ty. Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty đồng thời tổng Giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Tổng Giám đốc phải điều hành hoạt động của Công ty theo mục tiêu kế hoạch, phù hợp với Điều lệ Công ty và các Nghị quyết, quyết định của Hội đồng Quản trị. Tổng Giám đốc có thể là người của Nhà nước do Hội đồng Quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm nhưng cũng có thể không phải là CP D Co lle ge 54 người của Nhà nước mà do Hội đồng Quản trị thuê trên cơ sở hợp đồng. Trong cả hai trường hợp đều phải có sự chấp thuận của người quyết định thành lập Công ty. Để được bổ nhiệm hoặc được thuê điều hành Công ty Nhà nước Điều 24 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Tổng Giám đốc có thể là thành viên Hội đồng Quản trị. Trong trường hợp này, tổng Giám đốc sẽ do Hội đồng Quản trị bổ nhiệm, còn trong trường hợp thuê Tổng Giám đốc thì tổng Giám đốc không thể là thành viên Hội đồng Quản trị, vì thành viên Hội đồng Quản trị phải do người quyết định thành lập Công ty Nhà nước bổ nhiệm. Trong mối quan hệ giữa Hội Đồng Quản trị và Tổng Giám đốc về việc quản lý điều hành Công ty, khoản 1 Điều 42 Luật doanh nghiệp Nhà nước quy định: Khi tổ chức thực hiện các Nghị quyết, quyết định của Hội đồng Quản trị, nếu phát hiện vấn đề không có lợi cho Công ty thì Tổng Giám đốc báo cáo với Hội đồng Quản trị để xem xét điều chỉnh lại Nghị quyết, quyết định. Nếu Hội đồng Quản trị không điều chỉnh lại thì Tổng Giám đốc vẫn phải thực hiện nhưng có quyền bảo lưu ý kiến và kiến nghị lên người ký quyết định thành lập Công ty. Quy định này chỉ có thể thực hiện được trong trường hợp Tổng Giám đốc là thành viên Hội đồng Quản trị, còn nếu Tổng giám đốc do Hội đồng Quản trị thuê thì Tổng Giám đốc khó có thể thực hiện được quyền bảo lưu ý kiến và kiến nghị của mình. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Giám đốc được quy định cụ thể tại Điều 41 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Luật doanh nghiệp Nhà nước cũng quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của Tổng Giám đốc tại Điều 43. Để thực hiện được công việc điều hành Công ty, Tổng Giám đốc có các Phó Tổng Giám đốc, kế toán trưởng và các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ giúp việc. II. THÀNH LẬP, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ CÔNG TY NHÀ NƯỚC: Quy chế thành lập, tổ chức lại, giải thể Công ty Nhà nước được ghi nhận trong chương 2 Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và được hướng dẫn cụ thể trong Nghị định 180/2004/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2004. 1. Thành lập Công ty Nhà nước: Những năm trước đây Công ty Nhà nước được thành lập một cách tùy tiện, không theo một quy chế pháp lý chặt chẽ, có nhiều cơ quan có thẩm quyền thành lập Công ty Nhà nước. Thậm chí cả những cơ quan không có chức năng quản lý Nhà nước năng quản lý Nhà nước về kinh tế cũng thành lập Công ty Nhà nước. Hậu quả là một khối lượng lớn hơn Công ty Nhà nước ra đời nhưng làm ăn thua lỗ kéo dài làm tổn hại, hao mòn nguồn vốn của Nhà nước. Do đó, thời gian qua, Nhà nước đã mất nhiều công sức tổ chức sắp xếp lại các Công ty Nhà nước, hàng loạt các Công ty Nhà nước phải giải thể. Để kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò nòng cốt, vai trò chỉ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, hiện nay việc thành lập mới Công ty Nhà nước chỉ được thực hiện ở những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự CP D Co lle ge 55 tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công ty Nhà nước sau khi thành lập phải hoạt động được và phải mang lại hiệu quả kinh tế xã hội nhất định. Do đó, việc thành lập mới Công ty Nhà nước hiện nay phải rất thận trọng và phải tuân theo một thủ tục pháp lý do luật định. * Luật doanh nghiệp Nhà nước hiện nay quy định rõ những ngành lĩnh vực, địa bàn được thành lập mới Công ty Nhà nước. Đó là những ngành, lĩnh vực, địa bàn sau đây. - Nhành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội; - Ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn; - Ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao; - Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư; Chính phủ sẽ quyết định và định kỳ công bố quy hoạch phát triển Công ty Nhà nước theo ngành, lĩnh vực, địa bàn kể trên. * Thủ tục thành lập mới Công ty Nhà nước phải tuân theo các bước sau đây: Bước 1: Đề nghị thành lập Công ty Nhà nước. Việc thành lập mới Công ty Nhà nước phải được bộ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị. Người đề nghị phải căn cứ vào danh mục những ngành, lĩnh vực, địa bàn được xem xét thành lập mới Công ty Nhà nước, phương án thành lập mới Công ty Nhà nước, đã được Chính phủ phê duyệt để xây dựng đề án và lập hồ sơ thành lập trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. * Đề án thành lập mới Công ty Nhà nước phải có các nội dung chủ yếu sau đây: - Sự cần thiết thành lập Công ty; danh mục sản phẩm, dịch vụ do Công ty cung ứng; tình hình thị trường; khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của Công ty và luận chứng khả thi về khả năng cạnh tranh cả sản phẩm dịch vụ; - Địa điểm đặt trụ sở chính của Công ty hoặc địa điểm xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh và diện tích đất sử dụng; - Khả năng cung ứng lao động, nguyên liệu, vật liệu, năng lượng và những điều kiện cần thiết khác để Công ty hoạt động sau khi thành lập; - Dự kiến tổng vốn đầu tư; nguồn vốn đầu tư ban đầu của Nhà nước, nguồn và hình thức huy động vốn còn lại, nhu cầu và biện pháp tạo vốn lưu động đối với Công ty; CP D Co lle ge 56 - Luận chứng khả thi về hiệu quả kinh tế xã hội và sự phù hợp của việc thành lập Công ty với quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế; - Báo cáo đánh giá tác động môi trường và các biện pháp bảo vệ môi trường; - Dự kiến mô hình tổ chức quản lý Công ty và thời hạn hoạt động. * Hồ sơ thành lập mới Công ty Nhà nước gồm: - Tờ trình đề nghị thành lập Công ty; - Đề án thành lập mới Công ty; - Dự thảo điều lệ Công ty (dự thảo Điều lệ Công ty tối thiểu phải có các nội dung được quy định tại khoản 5 Điều 7 Luật doanh nghiệp Nhà nước); - Đơn xin giao đất, thuê đất; - Đơn đề nghị ưu đãi đầu tư (nếu có). Bước 2: Lập Hội đồng thẩm định: Trước khi ra quyết định thành lập mới Công ty Nhà nước, người có thẩm quyền quyết định thành lập Công ty Nhà nước, phải lập Hội đồng thẩm định để thẩm định đề án thành lập mới Công ty Nhà nước. Hội đồng thẩm định xem xét các điều kiện thành lập mới Công ty Nhà nước được quy định tại Điều 8 Luật doanh nghiệp Nhà nước. Cần lưu ý là Hội đồng thẩm định chỉ là cơ quan tư vấn cho người quyết định thành lập Công ty, người quyết định thành lập phải chịu trách nhiệm về quyết định thành lập mới Công ty Nhà nước. Bước 3: Quyết định thành lập Công ty Nhà nước. Trên cơ sở kết quả thẩm định các điều kiện thành mới Công ty Nhà nước của Hội đồng thẩm định, người có quyền thành lập Công ty Nhà nước ra quyết định thành lập Công ty. Theo Điều 9 Luật doanh nghiệp Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập mới Công ty Nhà nước đặc biệt quan trọng, chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới Công ty Nhà nước khác thuộc lĩnh vực mình quản lý. Khi quyết định thành lập mới Công ty Nhà nước, người quyết định phải đồng thời tiến hành bổ nhiệm chủ tịch Hội đồng quản trị và các thành viên của nó, bổ nhiệm hoặc thuê Tổng Giám đốc; quyết định việc bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng thuê Giám đốc Công ty không có Hội đồng Quản trị. Bước 4: Đăng ký kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý bắt buộc trong việc thành lập doanh nghiệp nói chung. Sau khi được người có thẩm quyền ra quyết định thành lập, Công ty chưa được phép hoạt động kinh doanh. Muốn tiến hành hoạt động CP D Co lle ge 57 kinh doanh, Công ty phải đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, nơi Công ty có trụ sở chính, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập. Công ty Nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Công ty mới được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư xây dựng Công ty và hoạt động kinh doanh. Nếu Công ty kinh doanh những ngành nghề có điều kiện thì chỉ được kinh doanh khi cơ quan Nhà nnước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh. Việc công bố nội dung đăng ký kinh doanh, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, thay đổi nội dung đăng ký được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp. 2. Tổ chức lại Công ty Nhà nước: Tổ chức lại Công ty Nhà nước là việc thay đổi hình thức pháp lý ban đầu của Công ty mà không làm thay đổi sở hữu của Công ty. Các hình thức tổ chức lại Công ty bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển Công ty Nhà nước thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hai thành viên trở lên; chuyển Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập thành tổng Công ty do các Công ty tự đầu tư và thành lập. - Sáp nhập Công ty Nhà nước là việc một hay nhiều Công ty Nhà nước (gọi là Công ty bị sáp nhập) nhập vào một Công ty khác (gọi là Công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản quyền và nghĩa vụ của Công ty hoặc các Công ty bị sáp nhập sang cho Công ty nhận sáp nhập, các Công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn tại. - Hợp nhất Công ty Nhà nước là việc hai hay nhiều Công ty (gọi là Công ty bị hợp nhất) hợp lại với nhau thành một Công ty mới (gọi là Công ty hợp nhất). Các Công ty bị hợp nhất chấm dứt sự tồn tại, Công ty mới kế thừa toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của các Công ty bị hợp nhất. - Chia Công ty Nhà nước là việc một Công ty Nhà nước (gọi là Công ty bị chia) được phân chia thành hai hay nhiều Công ty mới. Công ty bị chia chấm dứt sự tồn tại. Các Công ty mới cùng liên đới chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ và cùng hưởng mọi quyền lợi của Công ty bị chia. - Tách Công ty Nhà nước là việc chuyển một bộ phận của một Công ty đang hoạt động (gọi là Công ty bị tách) thành một Công ty mới (gọi là Công ty được tách) mà không chấm dứt hoạt động của Công ty bị tách. Công ty bị tách và Công ty được tách cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ trước khi tách của Công ty bị tách. - Chuyển Công ty Nhà nước thành Công ty trách nhiệm hữu một thành viên hoặc hai thành viên trở lên. Trước khi Luật doanh nghiệp Nhà nước được sửa đổi, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2001/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2001 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Việc chuyển đổi này thực ra không có ý nghĩa gì về kinh tế cũng như PD C oll eg e 58 pháp lý vì bản thân doanh nghiệp Nhà nước đã là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Lý do duy nhất có thể lý giải cho việc chuyển đổi này là để cho doanh nghiệp đó không hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước nữa mà hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Còn việc chuyển Công ty Nhà nước thành Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hai thành viên trở lên nhằm mục đích tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp Nhà nước cùng đầu tư kinh doanh dưới hình thức một doanh nghiệp. Theo Điều 73 Luật doanh nghiệp Nhà nước còn có hình thức khoán và cho thuê Công ty Nhà nước nhưng thực ra đây không phải là hình thức tổ chức lại Công ty mà chỉ là việc thay đổi cách thức quản lý, thay đổi cách thức kinh doanh của Nhà nước đối với Công ty Nhà nước. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng khoán hoặc thuê doanh nghiệp với người nhận khoán hoặc người nhận thuê. Tổ chức lại Công ty Nhà nước là một hành vi định đoạt đối với Công ty Nhà nước, do đó chỉ có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đại diện cho chủ sở hữu mới có quyền quyết định tổ chức lại Công ty Nhà nước. Về nguyên tắc, người quyết định thành lập Công ty Nhà nước có thẩm quyền quyết định tổ chức lại Công ty Nhà nước. Trường hợp sáp nhập, hợp nhất Công ty Nhà nước giữa các bộ phận, giữa các tỉnh thì cần có sự thỏa thuận; cơ quan nào sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu của Công ty hợp nhất sát nhập Công ty. Nếu không thỏa thuận được thì các cơ quan có Công ty sát nhập hoặc hợp nhất sẽ là đồng chủ sở hữu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hai thành viên trở lên. Trường hợp tổ chức lại tổng Công ty thì phải có ý kiến của Hội đồng thẩm định và phương án tổ chức lại phải được Chính phủ phê duyệt. Thủ tướng Chính phủ quyết định tổ chức lại các Công ty Nhà nước quan trọng trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh. Khi tổ chức lại Công ty Nhà nước mà dẫn đến thay đổi hình thức pháp lý hoặc mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh, vốn điều lệ thì Công ty phải làm thủ tục đăng ký lại hoặc đăng ký bổ sung với cơ quan đăng ký kinh doanh. 3. Giải thể Công ty Nhà nước: Nếu như thành lập Công ty Nhà nước là khai sinh ra Công ty Nhà nước để nó trở thành một chủ thể kinh doanh thì giải thể Công ty Nhà nước là chấm dứt sự tồn tại của Công ty, chấm dứt hoạt động kinh doanh của Công ty theo quyết định của người đã ký quyết định thành lập Công ty Nhà nước. Sau khi hoàn tất thủ tục giải thể, Công ty bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. Việc giải thể Công ty Nhà nước không phải do Công ty quyết định mà do người ký quyết định thành lập Công ty quyết định. Công ty Nhà nước bị xem xét giải thể trong các trường hợp sau đây: - Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập mà Công ty không xin gia hạn. Khi ký quyết định thành lập Công ty, người ký có quyền xác định thời hạn hoạt động của Công ty. Hết thời hạn hoạt động mà Công ty không xin gia hạn thì Công ty sẽ bị giải thể. CP D Co lle ge 59 - Công ty kinh doanh thua lỗ kéo dài những chưa lâm vào tình trạng phá sản. Về nguyên tắc, Nhà nước thành lập ra Công ty Nhà nước để kinh doanh nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế của mình nhưng nếu Công ty kinh doanh thua lỗ thì mục đích thành lập Công ty không đạt được nên cần phải giải thể Công ty. Trường hợp Công ty lâm vào tình trạng phá sản thì sẽ giải quyết theo Luật phá sản. - Công ty không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước giao sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết. Công ty Nhà nước là doanh nghiệp của Nhà nước, vì vậy mà nó phải thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội nhất định nhưng nếu Công ty không thực hiện thì Công ty cũng không còn lý do tồn tại mà cần phải giải thể. - Việc tiếp tục duy trì Công ty là không cần thiết trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ duy trì Công ty Nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực cần thiết. Nếu thấy việc duy trì Công ty là không cần thiết nữa thì Nhà nước sẽ giải thể Công ty. Người quyết định giải thể Công ty phải lập Hội đồng giải thể. Hội đồng giải thể có chức năng tham mưu cho người quyết định giải thể Công ty về việc quyết định giải thể Công ty và tổ chức thực hiện quyết định giải thể Công ty theo trình tự và thủ tục do Chính phủ quy định. 4. Chuyển đổi sở hữu Công ty Nhà nước: a. Mục tiêu và thẩm quyền quyết định chuyển đổi sở hữu Công ty Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp Nhà nước chỉ cần có mặt ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Nhưng doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng, Nhà nước có thể quyết định chuyển đổi sở hữu đối với những doanh nghiệp này. Mục tiêu của việc chuyển đổi sở hữu Công ty Nhà nước là: - Cơ cấu lại sở hữu của Công ty mà Nhà nước thấy không cần nắm giữ nữa hoặc không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ để sử dụng có hiệu quả hơn số tài sản Nhà nước đã đầu tư ở Công ty. - Huy động thêm các nguồn vốn đầu tư của cá nhân, tổ chức trong và ngoài Công ty để hình thành Công ty có nhiều nguồn vốn, nhiều chủ sở hữu để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của Công ty. - Tạo điều kiện cho người lao động góp vốn thực sự làm chủ Công ty và có việc làm. Chuyển đổi sở hữu Công ty Nhà nước là một hình thức định đoạt đối với Công ty Nhà nước, do đó chỉ có những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới có quyền quyết định. Theo Điều 83 Luật doanh nghiệp Nhà nước thì bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền lựa chọn và CP D Co lle e 60 quyết định hình thức chuyển đổi sở hữu Công ty Nhà nước. Những người này phải tổ chức xác định giá trị Công ty, quyết định giá trị Công ty, phê duyệt phương án chuyển đổi sở hữu Công ty thuộc quyền quản lý của mình theo trình tự và thủ tục do Chính phủ quy định tại Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển Công ty nhà nước thành Công ty cổ phần và Nghị định số 180/2005/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2005 về giao, bán, khoán, khoán kinh doanh, cho thuê Công ty Nhà nước. b. Các hình thức chuyển đổi sở hữu Công ty Nhà nước: * Cổ phần hóa Công ty Nhà nước: Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp, chúng ta đã thành lập quá nhiều doanh nghiệp Nhà nước, nay chuyển sang nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp Nhà nước không cần thiết phải có mặt ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước chỉ được thành lập và duy trì ở những ngành, những lĩnh vực then chốt, quan trọng có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, từ năm 1990 đến nay, Nhà nước đã tiến hành các biện pháp sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước nhằm giảm bớt số lượng doanh nghiệp Nhà nước như: Giải thể, sáp nhập, bán, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, trong đó cổ phần hóa là một biện pháp quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước từ chỗ nó chỉ thuộc sở hữu của Nhà nước thành Công ty cổ phần thuộc sở hữu của nhiều cổ đông. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước thực chất là án một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp Nhà nước thông qua hình thức bán cổ phần của doanh nghiệp. Nhà nước tiến hành bán cổ phần dưới các hình thức sau đây: Thứ nhất, giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Ví dụ, khi Nhà nước quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp, giá trị của doanh nghiệp được xác định là 2 tỉ đồng thể hiện bằng 2.000 cổ phiếu. Mỗi cổ phiếu có mệnh giá là 1 triệu đồng. Nhà nước phát hành thêm 8.000 cổ phiếu nữa và bán cho các tổ chức, cá nhân khác. Vốn của Công ty cổ phần bây giờ là 10 tỉ đồng tương ứng với 1.000 cổ phiếu. Nhà nước có 2.000 cổ phiếu các tổ chức, cá nhân khác có 8.000 cổ phiếu trong Công ty cổ phần. Nhà nước và họ là những cổ đông của Công ty. Thứ hai, bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Ví dụ: doanh nghiệp Nhà nước được đưa ra cổ phần hóa có giá trị là 6 tỉ đồng tương ứng với 6.000 cổ phiếu. Nhà nước bán đi 5.000 cổ phiếu, giữ lại 1.000 cổ phiếu. Nhà nước và những người mua cổ phiếu cùng là cổ đông của Công ty. Thứ ba, bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại Công ty. Ví dụ: doanh nghiệp Nhà nước được đưa ra cổ phần hóa có giá trị là 5 tỉ đồng tương ứng với 5.000 cổ phiếu. Số cổ phiếu đó được bán hết cho các tổ chức, cá nhân. Trong CP D Co lle ge 61 trường hợp này, Nhà nước không là cổ đông của Công ty, những tổ chức, cá nhân mua cổ phiếu là những cổ đông của Công ty. Thứ tư, thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Mục tiêu của việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; tạo điều kiện cho người lao động có thể làm chủ doanh nghiệp thực sự khi họ mua cổ phần và như vậy họ sẽ quan tâm hơn đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; huy động vốn của toàn xã hội vào phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế của đất nước; Nhà nước có thể thu hồi được vốn đã đầu tư để tập trung vào các công trình trọng điểm. Trình tự và thủ tục cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ quy định. Hiện nay, việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện theo Nghị định của Chính phủ số 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002. * Bán toàn bộ công ty Nhà nước Công ty Nhà nước là tài sản của Nhà nước hay nói cách khác Nhà nước là chủ sở hữu của Công ty Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu Nhà nước có quyền bán Công ty Nhà nước. Bán Công ty Nhà nước là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ tài sản (tài sản vô hình và tài sản hữu hình) của Công ty Nhà nước sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác. Cũng như việc mua bán hàng hóa, việc bán Công ty Nhà nước được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng bán Công ty Nhà nước được ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (bên bán) với một tổ chức hoặc cá nhân (bên mua) trên cơ sở thuận mua vừa bán. Bên bán có quyền đưa ra những điều kiện nhất định. Bên mua có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận các điều kiện đó. Các bên có quyền thỏa thuận với nhau để đi đến thống nhất các Điều khoản của hợp đồng. Để tránh tình trạng một số người có thể lợi dụng sự quen biết, thông đồng với nhau mua Công ty Nhà nước với giá rẻ mạt, việc bán Công ty Nhà nước phải được thông báo cho toàn thể người lao động trong Công ty và trên phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức đăng ký danh sách người mua Công ty. Nếu có từ hai người đăng ký mua trở lên thì phải bán Công ty theo phương thức đấu giá. Nếu chỉ có một người đăng ký mua Công ty thì mới được bán Công ty theo phương thức trực tiếp. Dù bán theo phương thức nào thì bên bán và bên mua cũng phải ký hợp đồng mua bán Công ty. Hợp đồng mua bán Công ty nói chung và mua bán Công ty Nhà nước nói riêng là một chế định pháp lý rất mới. Các quy định về loại hợp đồng này còn rất sơ sài. Khoản 2 Điều 23 Nghị định số 103/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 về giao, bán khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước quy định: Hợp đồng mua bán doanh nghiệp gồm các nội dung chính sau: CP D Co lle ge 62 - Tên, địa chỉ doanh nghiệp bán, số tài khoản; - Tên, địa chỉ người mua doanh nghiệp, số tài khoản; - Giá bán doanh nghiệp; - Các cam kết của người mua và người bán doanh nghiệp; - Phương thức chuyển giao tài sản, thanh toán tiền mua doanh nghiệp, thời hạn bàn giao doanh nghiệp; - Xử lý các vấn đề phát sinh, tranh chấp hợp đồng; Kèm theo hợp đồng là bản kê khai tài sản, đánh giá về tình trạng tài sản mà người mua và người bán đã thỏa thuận. Sau khi Công ty Nhà nước được bán, nó sẽ không còn là Công ty Nhà nước nữa mà có thể là doanh nghiệp tư nhân nếu người mua là một cá nhân, cũng có thể là Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ... tùy thuộc vào đối tượng người mua là ai, vì người mua phải đăng ký lại hình thức doanh nghiệp phù hợp tại phòng đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính. * Giao Công ty Nhà nước cho tập thể người lao động trong Công ty Giao Công ty Nhà nước cho tập thể người lao động trong Công ty là việc chuyển Công ty Nhà nước và tài sản tại Công ty thành sở hữu của tập tể người lao động có điều kiện ràng buộc. Khác với việc bán Công ty, khi bán Công ty, Nhà nước có thu tiền, đối tượng mua Công ty có thể là cá nhân, tổ chức kinh tế khác không phải là của Nhà nước, còn khi giao Công ty, Nhà nước không thu bất kỳ một khoản tiền nào. Do đó mà đối tượng được giao Công ty chỉ có thể là tập thể người lao động trong Công ty. Đây là việc Nhà nước "cho không" tài sản của mình cho nên Nhà nước có quyền đặt ra các điều kiện ràng buộc chặt chẽ đối với người nhận Công ty là tập thể người lao động trong Công ty. Các điều kiện đó là: - Tập thể người lao động trong Công ty do ban chấp hành công đoàn đại diện hoặc người được đại hội toàn thể công nhân viên chức trong Công ty bầu làm đại diện tự nguyện đăng ký nhận giao Công ty; - Cam kết đầu tư thêm để phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm tối thiểu từ 3 năm trở lên, đóng đầy đủ bảo hiểm cho người lao động trong Công ty; - Kế thừa phần công nợ luân chuyển (trừ nợ khó đòi) của Công ty theo thỏa thuận giữa bên giao và bên nhận Công ty. - Cam kết không cho thuê, chuyển nhượng, tự giải thể Công ty trong thời hạn tối thiểu là 3 năm sau khi giao; - Khi đủ điều kiện chuyển nhượng phải thanh toán lại cho Nhà nước 30% giá trị cổ phần tại thời điểm được giao Công ty. CP D Co lle ge 63 Bên giao và bên nhận cũng phải ký hợp đồng giao nhận Công ty. Hợp đồng giao nhận gồm các nội dung chính sau đây: - Tên, địa chỉ Công ty được giao cho tập thể người lao động. - Họ và tên, địa chỉ người đạ diện cho tập thể người lao động; - Giá trị Công ty được giao, phương thức giao nhận; - Các cam kết của tập thể người lao động tại Công ty; - Quyền và nghĩa vụ của tập thể người lao động nhận giao Công ty. Kèm theo hợp đồng là bảng kê tài sản giao quy thành giá trị, danh sách tập thể lao động được giao Công ty. Bên giao tổ chức bàn giao Công ty theo phương án đã được phê duyệt cho tập thể người lao động do Chủ tịch công đoàn Công ty làm đại diện để tiếp nhận và quản lý có sự chứng kiến của đại diện cấp quyết định giao Công ty và cơ quan tài chính. Bên giao Công ty phải thông báo công khai việc giao Công ty và chấm dứt hoạt động của Công ty Nhà nước trên phương diện thông tin đại chúng. Đại diện tập thể người lao động tổ chức việc đăng ký kinh doanh theo loại hình hợp tác xã hoặc Công ty cổ phần. Như vậy khi Công ty Nhà nước được giao cho tập thể người lao động, Công ty Nhà nước sẽ biến thành hợp tác xã hoặc Công ty cổ phần. Trình tự, thủ tục giao Công ty nhà nước do Chính phủ quy định (hiện đang thực hiện theo Nghị định số 103/NĐ-CP ngày 19 tháng 9 năm 1999). III. TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC: 1. Khái niệm, đặc điểm và các loại tổng công ty Nhà nước: Trước đây, từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX ở Việt Nam đã tồn tại những cơ sở kinh tế lớn của Nhà nước, được thành lập dưới dạng liên hiệp các xí nghiệp quốc doanh. Liên hiệp các xí nghiệp là một tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm các xí nghiệp có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tái sản xuất liên kết lại với nhau (một cách bắt buộc hoặc tự nguyện) nhằm mở rộng công tác, phân công sản xuất kinh doanh, tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao trong từng xí nghiệp thành viên và toàn liên hiệp. Từ năm 1994, trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, liên hiệp các xí nghiệp được tổ chức thành các tổng Công ty Nhà nước theo quyết định số 90/TTg và 91/TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994. Luật doanh nghiệp Nhà nước được ban hành 2003 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004 cũng có một chương quy định về tổng Công ty Nhà nước. Tổng Công ty Nhà nước hiện nay được hiểu là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các Công ty Nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác hoặt động trong một hoặc một số chuyên ngành CP D Co lle ge 64 kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn tổng Công ty. Là một loại hình doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, có các đơn vị thành viên là các Công ty Nhà nước hoặc các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước; Vốn của tổng Công ty thuộc sở hữu Nhà nước hoặc cơ bản thuộc về Nhà nước; Có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm bằng tài sản của pháp nhân. Là doanh nghiệp Nhà nước luôn có Hội đồng Quản trị. 2. Các loại tổng Công ty Nhà nước: a. Tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: Đây là hình thức liên kết và tập hợp các Công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn và chuyên môn hóa kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn tổng Công ty. Tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là những tổng Công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. b. Tổn Công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập: Là hình thức liên kết thông qua đầu tư, góp vốn của Công ty Nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác trong đó Công ty Nhà nước (Công ty mẹ) giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác (Công ty con). c. Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước là tổng Công ty được thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các Công ty Nhà nước độc lập và các Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên do mình thành lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối vớ cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ các Công ty Nhà nước độc lập. Đây là một tổ chức kinh tế đặc thù đúng như tên gọi của nó là đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối với vốn Nhà nước đầu tư ở các doanh nghiệp. 3. Điều kiện tổ chức tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: Theo Điều 48 Luật doanh nghiệp Nhà nước, tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập phải đảm bảo đủ các điều kiện sau đây: - Hoạt động trong các ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước. - Các Công ty thành viên hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính, liên kết chặt chẽ với nhau về công nghệ, thị trường và vốn. CP D Co lle ge 65 - Có ít nhất hai tổng Công ty trong một ngành hoặc lĩnh vực, trừ ngành, lĩnh vực mà công nghệ sản xuất không cho phép thành lập hai hay nhiều tổng Công ty. - Bảo đảm các điều kiện thành lập mới Công ty Nhà nước. - Thực hiện được các mục tiêu thành lập tổng Công ty (tổ chức được các dịch vụ tìm kiếm thụi trường, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị và các hoạt động dịch vụ khác hỗ trợ trực tiếp cho các Công ty thành viên. Tạo điều kiện phát triển công nghệ, tăng cường tích tụ tập trung vốn, phân công chuyên môn hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh của các Công ty thành viên và toàn tổng Công ty, có cơ chế đảm bảo lợi ích và gắn bó lợi ích giữa các Công ty thành viên, được các công ty thành viên chấp nhận. Việc Nhà nước thành lập tổng Công ty Nhà nước là rất cần thiết. Những tổng Công ty lớn do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập hay còn gọi là tổng Công ty Nhà nước làm ăn có hiệu quả sẽ tạo cho Nhà nước có tiềm lực kinh tế để điều tiết nền kinh tế thị trường ở nước ta. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các tổng Công ty đó kinh doanh có hiệu quả, tránh gò bó, hình thức. 4. Các đơn vị thành viên: Tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập có thể có các đơn vị thành viên sau đây: Thứ nhất, các đơn vị do tổng Công ty đầu tư toàn bộ vốn điều lệ. a. Công ty thành viên hạch toán độc lập Công ty thành viên hạch toán độc lập là đơn vị thành viên được tổng Công ty phân cấp hạch toán kinh doanh riêng, không hạch toán cùng với tổng Công ty. Công ty thành viên này phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình, lời ăn lỗ chịu, có quyền tự chủ trong kinh doanh, tự chủ về tài chính, chịu trách nhiệm về các khoản nợ của mình, về các cam kết của mình trong phạm vi số vốn mà doanh nghiệp quản lý. Tổng Công ty không trả nợ thay cho đơn vị này. b. Thành viên hạch toán phụ thuộc: Thành viên hạch toán phụ thuộc là thành viên không được hạch toán riêng mà hạch toán cùng với Công ty. Tổng Công ty là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các khoản nợ của các thành viên này. Nhưng trước hết, chủ nợ phải đồi thành viên đó nếu thành viên không trả nợ được thì tổng Công ty sẽ trả nợ thay. c. Đơn vị sự nghiệp: Đơn vị sự nghiệp của tổng Công ty là đơn vị không kinh doanh. Nó được thành lập ra để phục vụ trực tiếp cho tổng Công ty nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cho nên về nguyên tắc công ty phải cấp kinh phí cho hoạt động của các đơn vị này. Các đơn vị sự nghiệp của tổng Công ty cũng như các cơ quan hành chính sự nghiệp Nhà nước không kinh doanh, ví dụ như viện nghiên cứu, trung tâm tư liệu, đào tạo ... của tổng Công ty. CP D Co lle ge 66 d. Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên hoạt động theo Luật doanh nghiệp được chuyển đổi từ Công ty thành viên hạch toán độc lập hoặc được thành lập mới. Loại Công ty này cũng là thành viên hạch toán độc lập, vì theo Luật doanh nghiệp, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân, nó chỉ khác Công ty hạch toán độc lập nói tại điểm a mục này là nó hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Ngoài các đơn vị kể trên, tổng Công ty còn có thể có Công ty tài chính để đảm bảo nhu cầu tài chính cho các đơn vị thành viên trong tổng Công ty. Thứ hai, các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn góp chi phối của tổng Công ty. 5. Tổ chức quản lý của tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập: Tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập. Là Công ty Nhà nước có quy mô lớn nên cơ cấu tổ chức quản lý của nó cũng giống như cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty Nhà nước có Hội đồng Quản trị. Đó là Hội đồng Quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức hoạt động của các thiết chế này vì vậy cũng tuân theo quy định tại Mục 2 Chương IV của Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003. 6. Quan hệ giữa tổng Công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập với các đơn vị thành viên: a. Với công ty thành viên hạch toán độc lập: Công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, tự chủ kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước, các quy định khác của pháp luật. Quan hệ giữa tổng Công ty với Công ty thành viên này có sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ như sau: - Điều lệ của Công ty thành viên này do Hội đồng Quản trị tổng Công ty phê duyệt; - Công ty thành viên chịu trách nhiệm trước tổng Công ty về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực do tổng Công ty đầu tư; - Thực hiện kế hoạch kinh doanh chung của tổng Công ty; thực hiện các nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của tổng Công ty giao; chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh phối hợp với tổng Công ty; - Được tự chủ ký kết các hợp đồng kinh tế và thực hiện các hợp đồng kinh tế do Tổng Công ty giao; - Quyết định các dự án đầu tư theo nhân cấp của tổng Công ty; tham gia các hình thức đầu tư cùng tổng Công ty; - Có quyền đề nghị tổng Công ty quyết định hoặc được tổng Công ty ủy quyền quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể, sát nhập các đơn vị phụ thuộc; CP D C lle ge 67 - Chia lợi nhuận cho tổng Công ty theo vốn tổng Công ty đầu tư để hình thành quỹ tập trung của tổng Công ty; - Chịu sự giám sát, kiểm tra của Tổng Công ty; định kỳ báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về Công ty và báo cáo tài chính của Công ty với Tổng Công ty. b. Với đơn vị sự nghiệp: Đơn vị sự nghiệp hoạt động theo quy chế do Hội đồng Quản trị tổng Công ty phê duyệt, thực hiện chế độ phân cấp hạch toán do tổng Công ty quy định, được tạo nguồn thu từ việc thực hiện các hợp đồng cung cấp dịch vụ, nghiên cứu khoa học và đào tạo, chuyển giao công nghệ với các đơn vị trong và ngoài tổng Công ty. c. Với các Công ty do Tổng Công ty đầu tư và nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ: Tổng Công ty thực hiện quyền nghĩa vụ của chủ sở hữu theo quy định của Luật doanh nghiệp. d. Với các Công ty có vốn góp chi phối của tổng Công ty: Tổng Công ty thực hiện quyền, nghĩa vụ của cổ đông hoặc thành viên góp vốn chi phối thông qua đại diện của mình tại Công ty đó theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2003. CP D Co lle ge

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgt_luat_kinh_te_1_phan_1_4_chuong_dau_818.pdf
Tài liệu liên quan