Luận văn Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975

- Phát huy cao độ sức mạnh chiến tranh nhân dân trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải, chi viện chiến trường. Trong suốt 8 năm, cho dù kẻ địch dùng trăm phương ngàn kế, huy động mọi khả năng vật chất hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam nhưng thế trận giao thông vận tải ở miền Bắc vẫn không ngừng phát triển. Thắng lợi đó là biểu hiện sống động về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài lực lượng công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước , mỗi người dân là một chiến sĩ bắn máy bay địch, một chiến sĩ công binh mở đường, rà phá bom mìn, giải toả giao thông. - Xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng, xây dựng thế trận cầu đường đi trước một bước là vấn đề sống còn của tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh, đồng thời là khâu đột phá đầu tiên bảo đảm cho vận tải cơ giới lớn và chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn ác liệt của địch. Trong chiến tranh, việc xây dựng cầu đường đi trước một bước không những là yêu cầu của nhiệm vụ thực hiện chi viện chiến lược mà còn là một trong những biện pháp quan trọng bậc nhất để cản phá sự ngăn chặn, chia cắt của không quân kể cả bộ binh địch. Xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là xây dựng mạng đường giao thông với phương châm cầu đường đi trước một bước là một bài học vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính chiến thuật, đảm bảo thắng lợi cho nhiệm vụ thực hiện chi viện chiến lược và phục vụ chiến dịch trong kháng chiến chống Mĩ. - Phát huy nhân tố con người. Trên mặt trận giao thông vận tải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, nhân tố con người nổi lên hàng đầu với vai trò lãnh đạo, tổ chức chỉ huy của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cấp, các ngành từ Trung ương tới các Đảng bộ, chính quyền địa phương.

pdf118 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết mạch của cả miền Bắc. Theo con đường này, hàng hoá được chuyển từ Lạng Sơn qua Thái Nguyên về Hà Nội, từ đó chuyển vào chiến trường Khu V và Tây Nguyên. Đế quốc Mĩ đã liên tục đánh phá Lạng Sơn bằng các loại máy bay F4, F105 rồi đến B52 ... Chúng đã phá huỷ nhiều đoạn đường bộ ở Lạng Sơn. Các cầu Mẹt, cầu sông Hoá, cầu Kỳ Lừa, cầu Bản Trại bị đánh sập. Các khu dân cư dọc theo các Quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, thị trấn Đồng Mỏ, Na Dương, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn đều bị đánh phá rất ác liệt. Để đối phó với địch, đảm bảo giao thông và vận tải thông suốt, ngành Giao thông vận tải Lạng Sơn đã bố trí sắp xếp lại lực lượng và chuyển toàn bộ hoạt động sang thời chiến. Cán bộ công nhân viên và thanh niên xung phong Lạng Sơn không quản ngại gian khổ hi sinh, ngày đêm trực chiến, đảm bảo giao thông trên nhiều tuyến đường tránh, đường ngầm, đường phụ đồng thời xây dựng các kho trung chuyển hàng hoá, từ đó giải toả hàng hoá tiếp nhận chuyển về Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc. Khi cảng Hải Phòng bị máy bay Mĩ thả thuỷ lôi phong toả và các kho trung chuyển hàng hoá trên tuyến giao thông từ Lạng Sơn về Hà Nội bị máy bay địch đánh phá hết sức ác liệt nhằm ngăn cản ta tiếp nhận và vận chuyển 78 hàng viện trợ tiếp tế cho mặt trận, thành phố Thái Nguyên trở thành nơi trung chuyển hàng hoá hết sức quan trọng. Trong đó, hai địa điểm ga Quan Triều và ga Lưu Xá là hai "cảng nổi" tiếp nhận, vận chuyển hàng quân sự phục vụ tiền tuyến. Nhiệm vụ tiếp nhận và trung chuyển hàng hoá cần có đủ các kho chứa. Uỷ ban hành chính tỉnh quyết định dùng trụ sở của các cơ quan, trường học và tầng 1 của các nhà cao tầng ở khu vực thành phố Thái Nguyên làm kho chứa 14.000 tấn lương thực (gấp 5 lần sức chứa của các kho lương thực của tỉnh). Ngoài ra, tỉnh còn cấp tiền và trên 20.000 cây tre, vầu, nứa, 100 cây gỗ để làm kho chứa tạm 20.000 tấn lương thực ở các xã La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng (huyện Võ Nhai) và ở nhiều nơi khác. Ga Quan Triều và ga Lưu Xá trở thành kho bãi lớn nhất. Uỷ ban hành chính tỉnh giao cho Ban đảm bảo giao thông vận tải chịu trách nhiệm điều hành. Đội 91 Thanh niên xung phong chống Mĩ cứu nước (tập trung) đã được giao đảm nhận việc xây dựng kho tàng, bốc vác lương thực, sửa chữa các con đường vào kho để xe cộ đi lại thuận lợi. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị tiếp nhận và trung chuyển lương thực, nên đến cuối tháng 7 năm 1972, Bắc Thái đã kịp thời nhận 9.055 tấn gạo, 1.563 tấn ngô, chuyển tiếp về Trung ương được 6.263 tấn gạo, 1.563 tấn ngô. Trong tháng 8 năm 1972, các trạm tiếp nhận và trung chuyển lương thực Bắc Thái đã đưa năng suất tiếp nhận trung bình lên 1.000 tấn lương thực một ngày, đáp ứng kịp thời yêu cầu của Trung ương giao [35, tr.134]. Từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 12 năm 1972, đế quốc Mĩ đã huy động hàng chục chiếc máy bay chiến lược B52 và hàng trăm máy bay chiến thuật ném hàng nghìn quả bom có tính chất huỷ diệt vào thành phố Thái Nguyên. Trong khi đó, hai chân hàng ở ga Lưu Xá và ga Quan Triều đang chờ được bốc dỡ. Bất chấp nguy hiểm, các lực lượng thanh niên xung phong, dân quân, tự vệ và lực lượng đảm bảo giao thông vận tải vẫn bình tĩnh, dũng cảm giải 79 toả lương thực, hàng hoá, bảo vệ tài sản của Nhà nước, phục vụ chiến đấu và sản xuất. Đêm 20 rạng sáng ngày 21 tháng 12, máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm xuống khu vực phía bắc thành phố Thái Nguyên, do đó việc giải toả lương thực, hàng hóa ở hai chân hàng ga Lưu Xá và ga Quan Triều trở nên cấp bách và gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình trên, lãnh đạo tỉnh quyết định: Tập trung lực lượng thanh niên xung phong, dân quân, tự vệ khu vực thành phố Thái Nguyên và toàn bộ phương tiện vận tải của Ty Giao thông vào việc giải toả 19.923 tấn lương thực, hàng hoá tồn đọng ở hai chân hàng ga Lưu Xá và ga Quan Triều. Mặc dù địch đánh phá rất ác liệt, nhưng các lực lượng thanh niên xung phong và lực lượng đảm bảo giao thông, trong đó Đội 91 thanh niên xung phong đóng vai trò chủ lực, vẫn kiên trì bám trụ, không quản ngại hi sinh, gian khổ, kịp thời giải toả, vận chuyển hết số lương thực, hàng hóa tồn đọng ra khỏi các vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch đến nơi an toàn. Trong số 19.923 tấn lương thực, hàng hoá được giải toả trong những ngày cuối tháng 12 năm 1972, chỉ có 40 tấn bị phá huỷ, gần 25 tấn bị kém phẩm chất, tỉ lệ hư hao chỉ xấp xỉ 0,34%. Thành tích giải toả, vận chuyển 19.923 tấn lương thực, hàng hoá ra khỏi các vùng trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay địch trong những ngày cuối tháng 12 năm 1972 đã nâng tổng số lương thực, hàng hóa mà quân và dân Bắc Thái tiếp nhận và vận chuyển an toàn từ tháng 6 năm 1972 đến hết tháng 12 năm 1972 lên tới 70.000 tấn [35, tr.141]. Thành tích này của quân và dân Bắc Thái đã góp phần đánh bại âm mưu phong toả miền Bắc của đế quốc Mĩ trên mặt trận giao thông vận tải. Tận dụng và phát huy tính ưu việt của vận tải ô tô là cơ động, linh hoạt, trong điều kiện địch đánh phá ác liệt đường biển, đường sông, đường sắt bị khống chế, vận tải ô tô đã đóng vai trò mũi nhọn xung kích, hỗ trợ đắc lực và 80 thay thế cho các phương thức vận tải khác khi cần thiết, nhằm đảm đương nhiệm vụ rút hàng nhập chủ yếu từ Hải Phòng, Lạng Sơn và tiếp tục vận chuyển vượt qua các trọng điểm, các cung đường để đưa hàng ra tiền tuyến. Cục Vận tải đường bộ đã bố trí 3 xí nghiệp 6, 10 và 18 với tổng số gần 1000 xe rút hàng từ "cảng cạn" phía Bắc. Xí nghiệp 10 chạy trên Đường 1B từ Điềm He, Tu Đồn (Lạng Sơn) về Thái Nguyên. Xí nghiệp 6 và 18 chạy trên Đường 1A từ Đồng Mỏ (Lạng Sơn) về Bắc Giang, Hà Nội. Về sau, "cảng cạn" Lộc Bình và An Châu do đoàn xe của mỏ Quảng Ninh phụ trách rút hàng, sử dụng 200 xe mới của Bộ Giao thông vận tải chuyển sang các xe trọng tải lớn chuyên dùng của các mỏ than được niêm cất. Thời gian này, trong chiến dịch thả các bao gạo từ tàu Hồng Kỳ (gần đảo Hòn Ngư và Hòn La), các đơn vị vận tải ô tô địa phương Quảng Bình và Nghệ An được giao nhiệm vụ gom hàng để vận chuyển tiếp vào chiến trường, mặc dù bị thiệt hại nhiều về xe và người nhưng cả hai xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch. Liên tục 285 ngày đêm trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai cũng là những chiến dịch vận tải, những kế hoạch vận tải lớn liên tiếp nhau. Chiến dịch "25/3" được bắt đầu từ ngày 25/3/1972 qua ngày 6/4/1972 vẫn được tiếp tục với khối lượng không giảm. Đến giữa tháng 5/1972, tất cả khối lượng hàng hoá theo yêu cầu ban đầu của chiến dịch đã vào đầy đủ các kho ở Bắc Quảng Trị và Trường Sơn. Trong 12 ngày đêm diễn ra trận "Điện Biên Phủ trên không" cuối tháng 12 năm 1972, ở thủ đô Hà Nội, tất cả xe ca, xe tải, xe con của Tung ương và địa phương Hải Phòng, Hà Nội và nhiều tỉnh kế cận đã được huy động phục vụ sơ tán đồng bào nội thành và chở vật tư trong kho Nhà nước ra khỏi thành phố. 81 Cùng thời gian trên, Cục Vận tải đường bộ mở chiến dịch "Quyết thắng II" với việc tập trung lực lượng người và xe ở mức độ cao nhất. Tất cả các phương tiện vận tải có khả năng chạy đường đèo dốc đều vào chiến dịch, 10 xí nghiệp vận tải hàng hoá với tổng số hơn 1.600 xe tốt và hơn 5.000 cán bộ công nhân viên đều đồng loạt tham gia chiến dịch ở khu vực chính từ Vinh - Hà Tĩnh trở vào đến khu vực giới tuyến tạm thời và đi sâu hơn nữa. Chiến dịch chia làm 2 đợt: đợt đầu từ ngày 27/1/1973 đến hết ngày 1/2/1973, vận chuyển hàng từ phía ngoài vào tập kết tại 3 khu vực: bờ nam sông Long Đại, bờ nam sông Gianh và bờ nam sông Lam. Tất cả các xe ôtô từ các "cảng cạn" phía Bắc đưa hàng chạy thẳng vào các khu tập kết này. Đợt 2 bắt đầu từ ngày 2/2/1973, vận chuyển hàng từ các điểm tập kết vào bến Quan (Quảng Trị), qua các cửa khẩu vượt Trường Sơn tại đèo Mụ Giạ (Đường 12) và theo Đường 20 qua Ta Lê, Lùm Bùm. Các binh trạm quân đội phụ trách chỉ huy chung. Xe vào (có hàng) theo Quốc lộ 1A từ nam sông Lam đến bắc sông Gianh, xe ra (không hàng) chạy theo Đường 22 rồi sang Đường 21. Chiến dịch vận tải "Quyết thắng II" do Cục Vận tải đường bộ chỉ đạo, sử dụng chủ yếu bằng lực lượng vận tải ô tô nhằm đưa hàng hoá vào Khu IV và Quảng Trị đã hoàn thành thắng lợi và kết thúc ngày 15/2/1973. Nhờ những biện pháp kiên quyết, tích cực, sáng tạo trên mặt trận Giao thông vận tải, khối lượng hàng vận chuyển cho các chiến trường trong năm 1972 vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971, khối lượng này lên tới 274.495 tấn, trong đó hàng vận tải vào chiến trường miền Nam nhiều gấp 6,1 lần, vận chuyển phục vụ cách mạng Lào vượt 10% so với kế hoạch [72, tr.64]. Cuối tháng 8/1972, trong báo cáo gửi Níchxơn, cơ quan tình báo Mĩ đã phải thú nhận: "Mặc dù ném bom rất ác liệt vẫn không giảm bớt đi một cách có ý nghĩa việc đưa người và trang bị vào miền Nam Việt Nam" [42, tr.212]. 82 Trong thời gian chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ ở miền Bắc đã xuất hiện rất nhiều tấm gương dũng cảm, thông minh, sáng tạo trên mặt trận giao thông vận tải. Những gương dũng cảm không sợ hi sinh, xông vào hiểm nguy cứu hàng, cứu xe tiếp tục đưa hàng lên phía trước xuất hiện càng nhiều. Đội xe Trần Văn Huệ của Công ty vận tải ô tô số 1 Nghệ - Tĩnh nhận nhiệm vụ chuyên chở gạo do tàu biển đưa vào rồi chở về Bến Thuỷ tạo chân hàng đi B, C. Biết được kế hoạch tổ chức liên vận của ta, địch tập trung máy bay, tàu chiến đánh phá rất ác liệt. Trong bom đạn của địch, đội xe của Huệ đã hoàn thành thực hiện kế hoạch vận chuyển 180 ngày liền (từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1972) dù bị địch đánh 39 lần, bị hỏng và bị phá huỷ 9 xe, nhiều người bị thương và hi sinh nhưng những chiến sĩ trong đội xe không hề lay chuyển quyết tâm, họ đã hoàn thành nhiệm vụ rút hơn 7.000 tấn gạo đưa về vị trí tập kết an toàn. Đoàn xe 8 chốt ở Quảng Bình luôn vững vàng bám trụ ở vùng dày đặc bom đạn của giặc Mĩ là chặng cuối tuyến vận tải chi viện cho miền Nam, trực tiếp giao những tấn hàng đầy tình nghĩa của hậu phương lớn tới tiền tuyến lớn. Tiêu biểu cho Đoàn 8 là Đội xe 806 hoạt động trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, địch đánh phá hết sức ác liệt nhưng toàn đội vẫn đảm bảo đầu xe tốt, hoàn thành xuất sắc các kế hoạch vận chuyển cho mặt trận. Năm 1973, Đội đã được phong tặng danh hiệu tập thể Anh hùng Lao động. Qua các tuyến vận tải đường bộ, miền Bắc đã đảm bảo sự chi viện về người và vật chất cho chiến trường miền Nam. Bên cạnh lực lượng công binh, thanh niên xung phong, lực lượng bảo đảm giao thông, chúng ta đã phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trên mặt trận giao thông vận tải, từng bước tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn. Một nét tiêu biểu của những năm tháng toàn dân tham gia chống Mĩ trên mặt trận giao thông vận tải là phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" phát 83 triển ở khắp mọi nơi có tuyến đường đi qua. Nhiều nhạc sĩ bằng cảm xúc sâu sắc đã sáng tác nhiều ca khúc về những cuộc chiến đấu vì những cây cầu, những con đường, những chuyến hàng trong bom đạn ác liệt của kẻ thù. Các ca khúc: Cô gái mở đường (Xuân Giao), Tôi người lái xe (An Chung), Xe ta đi trong đêm Trường Sơn (Tân Huyền), Bài hát của người lái xe (Nguyễn Đức Toàn),Yêu biết mấy những con đường (Phạm Tuyên), Chào em cô gái Lam Hồng (Ánh Dương), Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây (Nhạc Hoàng Hiệp, thơ Phạm Tiến Duật), Đường Trường Sơn xe anh qua (Văn Dung), Bài ca giao thông vận tải (Hoàng Vân), Bài ca của đội nữ tiếp vận (Thuận Yến), Vui mở đường (Đỗ Nhuận)... và nhiều ca khúc khác đã được các nghệ sĩ, các đội văn nghệ nghiệp dư và nam nữ thanh niên xung phong, cán bộ công nhân giao thông vận tải hát lên ngay bên hố bom, nơi trọng điểm vừa tan khói đạn và trên những chuyến xe sắp băng vào tiền tuyến. Tiếng hát và những giai điệu đó đã tiếp thêm niềm tin và sức sống mãnh liệt cho các chiến sĩ chiến thắng kẻ thù trên mặt trận giao thông vận tải, mỗi ca khúc đã thực sự đi vào lịch sử, đã góp phần quan trọng động viên và ca ngợi chính những con người làm nên lịch sử. Đầu tháng 10 năm 1972, phái đoàn Mĩ đến Pari để nối lại cuộc đàm phán đã bị gián đoạn từ tháng 3/1972. Trong cuộc tiếp xúc riêng với đại diện Mĩ ngày 8/10/1972 tại Pari, ta đưa ra dự thảo "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam" và đề nghị thảo luận để đi đến kí kết. Ngày 17/10/1972, Văn kiện Hiệp định được hoàn tất và hai bên đã thỏa thuận đến ngày 31/10/1972 sẽ kí chính thức. Trung ương Đảng và Chính phủ đã xác định: Mĩ nhất định sẽ phải ngừng ném bom miền Bắc, phải rút quân về nước, nhưng chúng muốn rút quân trên thế mạnh. Miền Bắc phải sẵn sàng đối phó trước "cơn giãy giụa" điên cuồng của tên trùm hiếu chiến. 84 Quả vậy, đế quốc Mĩ đã tập trung một lực lượng không quân lớn, từ các căn cứ quân sự của chúng ở Thái Bình Dương và ở khu vực Đông Nam Á. Cuối năm 1972, chúng tiến hành cuộc tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B52 vào thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và nhiều khu vực ở miền Bắc nước ta hòng giành thế mạnh tại bàn đàm phán ở Hội nghị Pari. Nhưng đế quốc Mĩ và Tổng thống Níchxơn đã tính nhầm nước bài cuối cùng trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Bằng sức mạnh của lòng căm thù và trí tuệ của cả dân tộc, quân và dân thủ đô Hà Nội đã lập nên một trận "Điện Biên Phủ trên không" trong 12 ngày đêm (18 đến 29/12/1972), bắn rơi hàng loạt pháo đài bay B52, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của giặc Mĩ vào thủ đô Hà Nội. Chiến thắng oanh liệt này đã buộc đế quốc Mĩ phải chính thức kí Hiệp định Pari lập lại hoà bình ở Việt Nam. Tóm lại, trong hai lần chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, từ 1964 đến 1968 và từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 1 năm 1973, mạng lưới giao thông vận tải của miền Bắc nước ta phải đương đầu với khoảng 7 vạn trận đánh phá của 50 loại máy bay hiện đại nhất và tối tân nhất của địch, trung bình mỗi ngày, giặc Mĩ dùng 500 - 700 lần chiếc máy bay để oanh kích, ngày cao điểm có 1.200 lần chiếc máy bay đánh phá. Riêng số bom đạn ném xuống miền Bắc gấp 5 lần số bom đạn Mĩ ném xuống Châu Âu và khu vực Địa Trung Hải trong thế chiến thứ II (trong khi diện tích miền Bắc Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều so với diện tích Châu Âu). Nhưng chính bom đạn ác liệt của địch càng làm nổi bật sức mạnh đoàn kết, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tình đồng bào, đồng chí của cán bộ công nhân viên chức ngành Giao thông vận tải và toàn quân, toàn dân ta. 85 Chính từ trong bom đạn ác liệt của địch đã nảy sinh trí thông minh, lòng dũng cảm thể hiện ở muôn vàn hành động cách mạng, luôn luôn tiến công, sẵn sàng hi sinh xương máu, chịu đựng gian khổ, vượt lên khó khăn với khẩu hiệu: "Địch phá ta cứ đi". Trên những tuyến đường ra chiến trường, các đoàn vận tải, các đội viên thanh niên xung phong đã kiên cường bám trụ, bảo đảm an toàn cho các đoàn quân ra mặt trận và các xe chở hàng vượt qua các "trọng điểm" chi viện cho chiến trường. Cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải đường bộ của quân và dân ta trước vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, trước âm mưu thâm độc và tàn bạo của Mĩ là cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam cuối cùng đã giành thắng lợi to lớn. Thắng lợi này đã góp phần tạo nên cơ sở vững chắc cho quân và dân ta tiếp tục tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. 3.3. Khôi phục, mở rộng và xây dựng các tuyến đƣờng giao thông chiến lƣợc đáp ứng yêu cầu giải phóng hoàn toàn miền Nam 1973 - 1975. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết 27/1/1973, trong điều kiện hoà bình, nhân dân miền Bắc ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, trong đó có giao thông vận tải, nhằm tăng cường tiềm lực mọi mặt, dồn sức giải phóng miền Nam. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã xác định phải "Tích cực xây dựng, phát triển và hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải, bảo đảm vật chất cho các lực lượng vũ trang trên các chiến trường" [11, tr.418]. Trải qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, hệ thống giao thông đường bộ trên miền Bắc, nhất là những tuyến đường chiến lược đã bị tàn phá nặng nề. Sau khi hoà bình được lập lại, trên các tuyến đường 1A, 1B lực lượng đảm bảo giao thông cùng lực lượng công binh và nhân dân địa phương đã nhanh chóng khôi phục, sửa chữa làm mới những đoạn cần thiết. 86 Nhìn chung, đến 1975, cả hai tuyến đường đã được khôi phục, sửa chữa, nâng cấp, đảm bảo xe cộ qua lại thông suốt. Ngoài Đường số 1, các tuyến Đường số 2, 3, 5, 6, 15 cũng được nhanh chóng khôi phục, sửa chữa. Đặc biệt, Đường số 15 bắt đầu từ Bãi Sang (Hoà Bình) đến Cam Lộ (Quảng Trị) chạy qua phần giữa các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình là một đường giao thông chiến lược quan trọng, đảm bảo cho việc vận tải người và hàng hoá từ các tỉnh miền Bắc qua vùng "cán xoong" - Khu IV vào đến chiến trường, phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Ngoài những tuyến đường trên, tuyến giao thông đường bộ quan trọng nhất mà chúng ta đã khẩn trương khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới trong những năm 1973 - 1975 là tuyến vận tải chiến lược 559 - Đường Hồ Chí Minh. Việc kí kết Hiệp định Pari đầu năm 1973 là một thuận lợi mới, một thời cơ mới đối với tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã sớm nắm bắt được thời cơ, phát huy mọi kinh nghiệm và sáng tạo, chuyển hướng mọi mặt hoạt động trên tuyến sát với tình hình, nhiệm vụ mới, tạo ra cơ sở vật chất cụ thể, góp phần cho Bộ Chính trị sử dụng đúng thời cơ. Những sự chuyển hướng mới trên tuyến đường Hồ Chí Minh đã diễn ra sâu rộng, mau lẹ với quy mô lớn. Trong suốt 14 năm, "Con đường mòn Hồ Chí Minh" luôn mở rộng và dài thêm theo chiều dài cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đến đầu năm 1973, mạng đường chiến lược đã được xây dựng, mở rộng trên địa bàn Tây Trường Sơn về cơ bản vẫn là tuyến đường đất, chỉ đảm bảo vận chuyển được trong mùa khô, còn trên địa bàn Đông Trường Sơn, ta cũng sớm có ý định xây dựng tuyến đường chiến lược, nhưng chỉ mới thực hiện được đoạn ở phía bắc từ 87 Đường số 9 phát triển đến địa đầu Khu V, chưa có điều kiện thực hiện mở đường qua Tây Nguyên. Để đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng vận chuyển và mật độ phương tiện sử dụng trên đường nhằm tổ chức được vận chuyển lớn, chi viện nhiều vật chất cho chiến trường cần nhanh chóng xây dựng, phát triển mạnh mẽ mạng đường giao thông vận tải chiến lược ra phía trước. Một mặt, cần tiếp tục củng cố vững chắc tuyến đường dọc Tây Trường Sơn, mặt khác tiếp tục đẩy mạnh xây dựng tuyến đường Đông Trường Sơn một cách cơ bản từ Đường 9 vào đến miền Đông Nam Bộ, trước mắt xây dựng gấp rút đoạn từ Đường 9 vào đến Tây Nguyên, Khu V, kết hợp cải tạo và xây dựng đường tiêu chuẩn quốc gia cấp 4 miền núi, xuyên Bắc Nam, điểm đầu ở Tân Kỳ - Nghệ An, điểm cuối ở Chơn Thành - Tỉnh Bình Phước, dài trên 1.300 km. Kế hoạch xây dựng cơ bản 1.920 km đường Trường Sơn, gồm tuyến phía đông dài 1.200km từ Khe Gát (Quảng Bình) đến Bù Gia Mập (Lộc Ninh) và tuyến phía tây dài 720 km từ Phong Nha đi Plây Khốc được Hội đồng Chính phủ phê duyệt tháng 11 năm 1973. Trong kế hoạch 3 năm xây dựng hậu phương (1973 - 1975), Tổng cục Hậu cần xác định mức độ xây dựng cơ bản đường Trường Sơn: Đối với tuyến phía Đông, mở trục đường từ Chà Lỳ đi Hướng Hoá, La Đụt, Khâm Đức, Đắc Tô, Bù Gia Mập, Lộc Ninh thi công từ tháng 4/1973 đến 1975 xong mặt đường, rải nhựa từ Chà Lỳ đến Khâm Đức, từ Khâm Đức đến Đắc Tô rải đá, từ Đắc Tô đến Lộc Ninh là đường đất. Tuyến phía Tây: tiếp tục duy trì, củng cố, kiến thiết cơ bản có trọng điểm, củng cố lại hệ thống cầu bảo đảm sử dụng trong cả 2 mùa (khô và mưa). Một thuận lợi lớn là trong việc làm đường ta nhận được sự giúp đỡ chí tình của nước Cộng hoà CuBa anh em. Sau khi sang thăm Việt Nam, Thủ tướng Phiđen Castrô đã quyết định giúp đỡ một số xe máy làm đường trị giá 6 88 triệu đôla mua ở Nhật, cùng một số kĩ sư và công nhân làm đường lành nghề sang tham gia việc mở đường Đông Trường Sơn. Công trình xây dựng đường Đông Trường Sơn được khởi công từ cuối năm 1973. Nhà nước đã huy động lớn vốn đầu tư cùng các phương tiện cơ giới hiện đại và 3 vạn bộ đội, thanh niên xung phong cho công trình lao động xây dựng tuyến đường quan trọng này. Điểm thuận lợi của tuyến đường này là đi trên đất nước ta sát với các chiến trường nên rút ngắn được thời gian giao hàng, giao quân. Với tinh thần hết sức tích cực, khẩn trương, đến đầu 1975, tuyến đường phía Đông Trường Sơn đã được xây dựng thông suốt đến Bù Gia Mập, tuyến đường phía Tây Trường Sơn được củng cố, nâng cấp, bảo đảm được 2 làn xe chạy với đội hình lớn trong mùa khô. Trong 2 năm 1973 - 1974, công binh Trường Sơn cùng lực lượng thanh niên xung phong trên tuyến đường xây dựng thêm được 5.500 km đường bộ, bằng gần 50% khối lượng đường xây dựng được trong 8 năm trước đó (1965 - 1972), đưa chiều dài mạng đường giao thông chiến lược Trường Sơn lên 16.790 km, trong đó có 6.810 km đường trục dọc, 4.980 km đường trục ngang, 5.000 km đường vòng tránh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau khi trực tiếp kiểm tra đường Đông Trường Sơn đã đánh giá: "Đây là một năng lực mới để thực hiện rút ngắn thời gian vận chuyển và hành quân" [15, tr.489]. Đây cũng là cơ sở để cuối tháng 3/ 1975, Đại tướng phát lệnh: "Thần tốc, đại thần tốc cho chiến dịch Hồ Chí Minh". Đại tướng Văn Tiến Dũng đã đánh giá: "Đường Hồ Chí Minh, Đông, Tây Trường Sơn đã thỏa mãn kịp thời, đầy đủ mọi nhu cầu về vật chất và binh lực trong chiến dịch, góp phần quyết định thắng lợi chiến dịch Buôn Mê Thuột - một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược để Bộ Chính trị lượng định đúng thời gian giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" [15, tr.489]. 89 Từ khi hình thành 1959 đến 1975, hệ thống giao thông Đông, Tây Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) đã trở thành một mạng lưới giao thông liên hoàn vững chắc bao gồm các trục nối Đông - Tây, nối ngang dọc, các trục đường chiến dịch nối các trục đường chiến lược trên phạm vi cả 3 nước Đông Dương. Trên đất Việt Nam, tuyến đường xuyên qua 10 tỉnh từ Nghệ An đến Lộc Ninh - Bình Phước. Trên đất Lào tuyến đường xuyên qua 7 tỉnh từ Bô Li Khăm Xai đến Attôpơ. Trên đất Campuchia xuyên qua 4 tỉnh. Tổng cộng gồm 6 đường trục dọc theo sườn Đông và Tây Trường Sơn, 25 đường trục ngang vắt qua núi, một hệ thống đường nhánh tỏa ra các chiến trường. Với một mạng lưới rộng lớn, liên hoàn vững chắc như vậy, đường mòn Hồ Chí Minh "không phải là một con đường làm cho máy bay có thể hoạt động được mà còn là một trận đồ bát quái gồm những mạng lưới đường xuyên qua rừng rậm" [26, tr.50]. Đó chính là nhận xét của nhà nghiên cứu chiến lược Schelesinger khi viết về sự thất bại của Mĩ trong cuốn "Một di sản cay đắng". Hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh thực sự là một kì tích, một huyền thoại trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta trên mặt trận giao thông vận tải. Với việc khôi phục, nâng cấp và xây dựng các tuyến đường giao thông chiến lược, miền Bắc đã chuyển vào chiến trường một khối lượng lớn lực lượng chiến đấu và vật chất chiến tranh, góp phần quyết định vào thắng lợi vinh quang ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tóm lại, trong những năm Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận giao thông vận tải đã diễn ra vô cùng quyết liệt. Suốt những năm tháng bom đạn ác liệt, quân và dân ta đã phát huy cao độ trí thông minh và lòng dũng cảm, trụ bám kiên 90 cường những nơi địch đánh phá ác liệt, có mặt ở khắp các đầu mối giao thông, quyết giữ vững mạch máu giao thông, giữ vững nhịp độ vận chuyển chi viện chiến trường. Trong gian khổ ác liệt, từ các phong trào đảm bảo giao thông với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Nhường nhà để hàng, nhường làng để xe" đã xuất hiện những tập thể và cá nhân mà chiến công của họ đã đi vào lịch sử kháng chiến chống Mĩ như những tấm gương tiêu biểu cho ý chí giải phóng miền Nam của quân dân hậu phương miền Bắc. Có thể nói ý chí giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là động lực thôi thúc mọi lực lượng chiến đấu, công tác trên mặt trận giao thông vận tải. Vượt lên mưa bom bão đạn của kẻ thù, họ đã sáng tạo nhiều phương thức vận chuyển, nhiều cách đánh địch, nhiều cách đối phó rất độc đáo và hữu hiệu với những thủ đoạn ngăn chặn của máy bay, tàu chiến Mĩ. Đó là việc vận chuyển bằng xe đạp thồ, xe trâu, xe cút kít; việc mở đường vòng tránh và tận dụng đường liên xã, liên thôn, là việc gùi cõng từng bao gạo, can xăng vượt qua trọng điểm. Những thành tích trên mặt trận bảo đảm giao thông chứng tỏ chúng ta thắng địch không chỉ bằng ý chí, quyết tâm và lòng dũng cảm mà bằng cả trí tuệ Việt Nam. Mặc dù kẻ địch dùng trăm phương ngàn kế với đủ các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, nhưng chúng vẫn không ngăn cản nổi sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Trong hai lần chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mĩ đã hoàn toàn thất bại trước sức mạnh và ý chí quyết thắng của quân và dân ta. Từ sau khi Hiệp định Pari được kí kết, chúng ta đã khẩn trương xây dựng và mở rộng Đường Hồ Chí Minh, làm cho con đường này trở thành một mạng lưới đường liên hoàn, vững chắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta ở miền Nam năm 1975. Chiến tranh đã lùi xa vào dĩ vãng, nhưng thời gian trôi qua không thể làm phai mờ chiến công bất hủ của những thanh niên xung phong, bộ đội vận tải, công binh đã chiến đấu, hi sinh vì sự sống của con đường cũng là sự sống của 91 toàn dân tộc. Những chiến công đó của một thời máu lửa phải được ghi đậm nét trong pho sử vàng của dân tộc. 92 KẾT LUẬN 1. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, giao thông vận tải nói chung và giao thông vận tải đường bộ nói riêng có một vai trò cực kì quan trọng, là một trong những nhân tố góp phần quyết định đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn. Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam những năm tháng chống Mĩ cứu nước là một trong những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc, là bằng chứng hùng hồn khẳng định trí tuệ và ý chí Việt Nam đã chiến thắng sức mạnh bom đạn và sự tàn bạo của kẻ thù. Kitsingơ, cố vấn an ninh hàng đầu của Tổng thống Mĩ trong thời kì chiến tranh xâm lược Việt Nam, khi trở lại Việt Nam đã thừa nhận: "Nếu Việt Nam chỉ anh hùng không thôi thì chúng tôi sẽ bẻ gãy, nhưng Việt Nam vừa anh hùng, vừa thông minh, sáng tạo nên nước Mĩ đã thất bại " [10, tr.51]. 2. Thấu suốt được vai trò vô cùng quan trọng của giao thông đường bộ đối với cuộc kháng chiến, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao quan điểm: " Giao thông là mạch máu của một nước", có tác động chi phối trực tiếp đến cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Bởi vậy, suốt những năm tháng kháng chiến chống Mĩ, dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, nhiều tuyến đường giao thông vẫn được xây dựng, bảo đảm vai trò của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Có thể nói rằng, quyết định xây dựng tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh - "Con đường huyền thoại" và thực hiện thắng lợi quyết định này là một thành công kiệt xuất trong lãnh đạo chiến tranh của Đảng cộng sản Việt Nam, là biểu hiện ý chí sắt đá, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn dân, toàn quân ta, biểu hiện tình đoàn kết quốc tế đặc biệt Việt Nam, Lào, Campuchia. 93 Suốt 16 năm bền bỉ và anh dũng chiến đấu, Bộ đội Trường Sơn- Đường Hồ Chí Minh đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử mà Đảng, quân đội, nhân dân giao phó, thực hiện thắng lợi sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Từ những ngày đầu soi đường mở lối, tổ chức gùi thồ, giao liên, len lỏi qua rừng rậm, cheo leo bên sườn núi đá cao, địa hình phức tạp, khí hậu nghiệt ngã cho đến giai đoạn địch đánh phá huỷ diệt, ngăn chặn ác liệt, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong nam và nữ đã "xẻ dọc" Trường Sơn, xây dựng nên hệ thống đường vận tải và hành quân cơ giới với tổng chiều dài gần 17.000 km gồm nhiều trục dọc, trục ngang nối từ miền Bắc vào tới các chiến trường miền Nam, Trung - Hạ Lào, đông bắc Campuchia. Quá trình mở đường cũng là quá trình chiến đấu vô cùng quả cảm và mưu trí của tất cả các lực lượng trên tuyến, làm thất bại và vô hiệu hóa cuộc chiến tranh huỷ diệt bằng vũ khí công nghệ cao của đế quốc Mĩ, làm giảm bớt và khắc phục sự phá hoại của thiên nhiên để giữ vững các con đường, bảo đảm thông suốt liên tục, tạo thế trận liên hoàn vững chắc của hệ thống đường chi viện chiến lược từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Thực tiễn lịch sử cho thấy, hệ thống đường chi viện chiến lược trên dãy Trường Sơn thời kì kháng chiến chống Mĩ không chỉ là con đường nối liền giữa hai miền của đất nước, giữa hậu phương lớn với các chiến trường ba nước Đông Dương, mà còn mang tính chất chức năng như một chiến trường hoàn chỉnh, một căn cứ chiến lược của ba nước Đông Dương. Nhà báo phương Tây Van Geirt trong cuốn sách "Đường mòn Hồ Chí Minh" đã nhận xét: "Đường mòn Hồ chí Minh không chỉ là một con đường tiếp tế. Nó là biểu 94 tượng của cả cuộc chiến tranh Việt Nam. Nó không chỉ là một con đường cụ thể mà là một luồng tư tưởng" [52, tr.660]. 3. Từ khi Mĩ leo thang đánh phá miền Bắc và suốt những năm sau đó, giao thông vận tải trở thành một mặt trận nóng bỏng, là nơi diễn ra cuộc đọ ý chí và trí tuệ, đọ sức, đọ lực giữa quân và dân ta với sắt thép, vũ khí hiện đại và bộ máy điều hành chiến tranh khổng lồ của Mĩ. Để đánh thắng chiến tranh phá hoại của đối phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, toàn bộ lực lượng chiến đấu, công tác trên mặt trận giao thông vận tải đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân, sáng tạo nhiều cách đánh địch, mở đường cùng nhiều phương thức đảm bảo và vận chuyển có hiệu quả, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Trong 8 năm mở rộng chiến tranh dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc 1964 - 1972, đế quốc Mĩ thực hiện âm mưu hạn chế và cắt đứt sự chi viện của miền Bắc với miền Nam. Chúng đã không từ một thủ đoạn đánh phá nào và không từ một loại bom đạn nào ở miền Bắc. Mặc dù vậy, cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong ngành giao thông vận tải cùng quân và dân ta trên các tuyến đường vẫn anh dũng, sáng tạo, giữ vững mạch máu giao thông với ý chí "Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm"; "Địch phá, ta cứ đi". Nhân dân ta dọc các tuyến đường chiến lược, đặc biệt là vùng trọng điểm Quân khu IV đã chịu đựng hi sinh to lớn, góp bao công sức bảo đảm giao thông với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", tạo nên thế trận và sức mạnh giao thông vận tải nhân dân. Từ trong bom đạn ác liệt của địch đã xuất hiện ngày càng nhiều những đơn vị, cá nhân anh hùng mà những chiến công, thành tích của họ ngời sáng phẩm chất cao đẹp của danh hiệu "Chiến sĩ giao thông vận tải". Biết bao chiến sĩ đã hi sinh dọc các tuyến đường, họ thuộc các đoàn vận tải, các đội viên thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến ở các công trường, công trình, 95 trọng điểm. Họ là những chiến sĩ hữu danh và vô danh đã từng lao động, chiến đấu, hi sinh quên mình mà không hề đắn đo, lo sợ. Đó là những tấm gương sáng ngời mãi mãi góp vào truyền thống "Dũng cảm, thông minh, sáng tạo" của dân tộc Việt Nam. 4. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo đảm giao thông vận tải chi viện chiến trường của quân và dân miền Bắc đã kết thúc thắng lợi hơn 30 năm, nhưng, chính từ trong thực tiễn của cuộc chiến đấu ấy đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá có ý nghĩa thiết thực trong sự nghiệp xây dựng và phát triển giao thông vận tải Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những bài học đó là: - Quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của Đảng, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự - nghệ thuật chiến tranh nhân dân, tư tưởng tiến công cách mạng vào mặt trận chống chiến tranh phá hoại, bảo đảm giao thông vận tải. Để đối phó có hiệu quả và chiến thắng kẻ thù trên mặt trận giao thông vận tải, điểm đầu tiên đòi hỏi chúng ta phải đánh giá đúng địch - ta, để từ đó tránh chỗ mạnh tạm thời của địch, khoét sâu mặt yếu của chúng, đồng thời phát huy mặt mạnh cơ bản, khắc phục những hạn chế của ta. Trên cơ sở đó, xác định lấy tư tưởng tiến công làm chủ đạo. Chủ động tiến công của công binh, thanh niên xung phong bảo đảm giao thông là: phá thế độc tuyến, phải có đường cầu chính, đường vòng tránh, cầu dự bị, đường và cầu nghi binh, đồng thời, tư tưởng tiến công của lực lượng này còn là phòng tránh tích cực: chủ động xây dựng công sự vững chắc ngay trọng điểm địch đánh phá, ngay cạnh trục giao thông, trụ bám trọng điểm, mặt đường, để khi địch đánh xong, kịp thời khắc phục hậu quả, thông đường giải phóng xe nhanh. 96 - Phát huy cao độ sức mạnh chiến tranh nhân dân trên mặt trận bảo đảm giao thông vận tải, chi viện chiến trường. Trong suốt 8 năm, cho dù kẻ địch dùng trăm phương ngàn kế, huy động mọi khả năng vật chất hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam nhưng thế trận giao thông vận tải ở miền Bắc vẫn không ngừng phát triển. Thắng lợi đó là biểu hiện sống động về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài lực lượng công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước …, mỗi người dân là một chiến sĩ bắn máy bay địch, một chiến sĩ công binh mở đường, rà phá bom mìn, giải toả giao thông. - Xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng, xây dựng thế trận cầu đường đi trước một bước là vấn đề sống còn của tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh, đồng thời là khâu đột phá đầu tiên bảo đảm cho vận tải cơ giới lớn và chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn ác liệt của địch. Trong chiến tranh, việc xây dựng cầu đường đi trước một bước không những là yêu cầu của nhiệm vụ thực hiện chi viện chiến lược mà còn là một trong những biện pháp quan trọng bậc nhất để cản phá sự ngăn chặn, chia cắt của không quân kể cả bộ binh địch. Xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là xây dựng mạng đường giao thông với phương châm cầu đường đi trước một bước là một bài học vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính chiến thuật, đảm bảo thắng lợi cho nhiệm vụ thực hiện chi viện chiến lược và phục vụ chiến dịch trong kháng chiến chống Mĩ. - Phát huy nhân tố con người. Trên mặt trận giao thông vận tải chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, nhân tố con người nổi lên hàng đầu với vai trò lãnh đạo, tổ chức chỉ huy của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cấp, các ngành từ Trung ương tới các Đảng bộ, chính quyền địa phương. Tất cả cùng chung quan điểm: Bảo đảm giao thông vận tải, chi viện chiến trường là nhiệm vụ hàng đầu, từ đó tập trung trí tuệ lãnh đạo, chỉ huy, phát huy tối đa năng lực của từng tổ chức, từng con 97 người tạo lên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại, bảo đảm giao thông vận tải. Mặt trận xây dựng và bảo đảm giao thông vận tải trong những năm chống Mĩ cứu nước là một thiên anh hùng ca về lòng quả cảm, đức hi sinh và trí tuệ của con người Việt Nam chiến thắng thế lực bạo tàn, chiến thắng đạn bom, phương tiện chiến tranh hiện đại của đế quốc Mĩ. Gương chiến đấu, hi sinh và những chiến công của quân và dân ta trên mặt trận này sẽ được các thế hệ người Việt Nam hôm nay, mai sau, cùng nhân loại yêu chuộng hoà bình khâm phục, tự hào. Những bài học quý báu gạn lọc được từ thực tiễn của cuộc chiến đấu hào hùng của quân và dân ta thuở ấy là hành trang không thể thiếu của các thế hệ cháu con trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội, Tập 1, Hà Nội. 2. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975): Thắng lợi và bài học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Thắng lợi và bài học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng (1979), 50 năm hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 5. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Tập 1, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 6. Ban Tổng kết lịch sử Bộ Tổng tham mưu (1997), Tổng kết Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 7. Võ Bẩm (2002), Những nẻo đường kháng chiến, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 8. Võ Bẩm - Đồng Sĩ Nguyên - Nguyễn Việt Phương (2005), Đường về thành phố mang tên Bác, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 9. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, Tập II, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 99 10. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh Quân khu IV - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu IV trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 11. Bộ Quốc phòng - Tổng cục Hậu cần (2001), Tổng kết hậu cần trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước 1954 - 1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 12. Bộ Quốc phòng - Tổng cục Hậu cần (2001), Công tác hậu cần trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ trên miền Bắc 2/1965 - 1/1973, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 13. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh công binh (2006), Lịch sử công binh Việt Nam 1945 - 2005, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 14. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, 2, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 15. Bộ Giao thông vận tải (2002), Lịch sử Giao thông vận tải Việt Nam, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 16. Bộ Giao thông vận tải, Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển Giao thông vận tải 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), Hồ sơ số 231, Kho lưu trữ Trung ương III. 17. Bộ Giao thông vận tải, Đề cương báo cáo tổng kết 10 năm của ngành Giao thông vận tải, Hồ sơ số 288, Kho lưu trữ Trung ương III. 18. Bộ Giao thông vận tải, Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải năm 1973, phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch giao thông vận tải năm 1974, Hồ sơ số 119, Kho lưu trữ Trung ương III. 100 19. Bộ Giao thông vận tải, Đặc điểm, tính chất và quy luật của chiến tranh nhân dân chống Mĩ cứu nước trên mặt trận giao thông vận tải, Hồ sơ số 94, Kho lưu trữ Trung ương III. 20. Bộ Tư lệnh công binh (1999), Lịch sử công binh 559 Đường Trường Sơn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân , Hà Nội. 21. Các Mác (1961), Tư bản, Quyển II, Tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 22. Các Mác - Ăngnhen (1963), Bàn về giao thông vận tải, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 23. Trường Chinh (1952), Bàn về cách mạng Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương xuất bản. 24. Nguyễn Chương (1994), Chiến tranh phá hoại và chống chiến tranh phá hoại qua tư liệu phương Tây, Tạp chí Lịch sử quân sự. 25. Gabrien Côncô (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Tập 2, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 26. Cục Chính chị - Tổng cục Xây dựng kinh tế (1979), Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm. 27. Văn Tiến Dũng (1989), Cuộc kháng chiến chống Mĩ - Bước ngoặt lớn, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 28. Văn Tiến Dũng (1991), Cuộc kháng chiến chống Mĩ - Toàn thắng, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 29. Lê Duẩn (1976), Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tập I, II, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 30. Lê Duẩn, Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tập III, IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 31. Lê Duẩn (1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 101 32. Lê Duẩn (1968), Nắm vững đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến lên xây dựng kinh tế địa phương vững mạnh, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 33. Đảng cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 34. Nguyễn Văn Đệ (1996), Thanh niên xung phong phục vụ giao thông vận tải thời chống Mĩ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 35. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh - Hội Cựu thanh niên xung phong tỉnh Thái Nguyên (2006), Lịch sử thanh niên xung phong tỉnh Thái Nguyên, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội. 36. Võ Nguyên Giáp (1975), Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 37. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 38. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 39. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng ta, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 40. Giônxơn (1972), Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã phát hành, Hà Nội. 41. Giônxơn (1972), Cuộc đời làm tổng thống của tôi, Nhà xuất bản Buysét Saxten, Pari. 42. Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III (1945 - 2000), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 102 43. Lê Mậu Hãn (1995), Đảng cộng sản Việt Nam - Các đại hội và hội nghị Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 44. Nguyễn Công Hoà, Tất cả để chiến thắng giặc Mĩ xâm lược trên mặt trận giao thông vận tải, Nhà xuất bản Lao động. 45. Giócgiơ C. Hiarinh (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mĩ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Khang (1998), Vài nét về mặt trận giao thông vận tải thời kì đầu chống chiến tranh phá hoại 1964 - 1967, Tạp chí Lịch sử quân sự. 47. Hoàng Linh - Đỗ Mậu (1991), Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. 48. Maicơn Maclia (1990), Việt Nam - cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 49. Lênin (1952), Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva. 50. Phan Văn Liên (1994), Giao thông vận tải Việt Nam 1955 - 1965, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 51. Phan Ngọc Liên (2000), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 52. Lê Mã Lương (1998), Rà phá thủy lôi trên vùng biển Hải Phòng, Quảng Ninh năm 1973, Tạp chí Lịch sử quân sự. 53. Mác Namara (1995), Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 54. Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 55. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 56. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 57. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 103 58. Hồ Chí Minh (1976), Toàn tập, Tập 8, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 59. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Tập 9, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 60. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 61. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 62. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 63. Hồ Chí Minh (1994), Về giao thông vận tải Việt Nam, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 64. Đồng Sĩ Nguyên (1999), Đường xuyên Trường Sơn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 65. Đồng Sĩ Nguyên, Bộ Tư lệnh Binh đoàn 12, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1999), Lịch sử Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 66. Quân khu IV (1994), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 67. Trương Hữu Quýnh (2005), Sổ tay kiến thức lịch sử, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 68. Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ Tư lệnh binh đoàn 12, Viện Lịch sử quân sự (1999), Đường Hồ Chí Minh - một sáng tạo chiến lược của Đảng, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 69. Tổng cục Hậu cần (1984), Công tác vận tải quân sự trong cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước trên đường Hồ Chí Minh 1959 - 1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 70. Tổng cục Hậu cần (1988), Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mĩ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 104 71. Tổng cục Hậu cần (1998), Hậu cần chiến dịch trong kháng chiến chống Mĩ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 72. Tổng cục Hậu cần (1979), Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 2 (1954-1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 73. Nguyễn Duy Trinh (1970), Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 74. Nguyễn Đình Thuận (1997), Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giao thông vận tải, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 75. Trường Đại học Giao thông vận tải (1995), Nghiên cứu - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giao thông vận tải, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 76. Văn Tùng - Nguyễn Hồng Thanh (2002), Lịch sử Thanh niên xung phong Việt Nam (1950 - 2001), Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội. 77. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng (1996) , Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 78. Viện Lịch sử quân sự (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 - 1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 79. Viện Lịch sử quân sự (1982), Chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, Tập 1, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 80. Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng (1988), Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1945-1975, Những sự kiện quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 81. Viện Lịch sử quân sự - Bộ quốc phòng (1988), Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội. 105 82. Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 -1975, Tập II, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 83. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, tập II (1945 - 1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 84. Viện Sử học (1995), Lịch sử Việt Nam 1945 - 1965, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 85. Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 86. Việt Nam- Con số và sự kiện 1945 - 1989, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. 87. Sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Thái (1992), Truyền thống giao thông vận tải Bắc Thái (1945-1992), Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Hồ Chủ tịch nói chuyện tại Đại hội thi đua đảm bảo giao thông vận tải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược từ ngày 21 đến 25/3/1966. Hồ Chủ tịch khen ngợi các đại biểu có nhiều thành tích xuất sắc tại Đại hội thi đua đảm bảo giao thông vận tải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược ngày 21 đến 25/3/ 1966. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nữ anh hùng thanh niên xung phong giao thông vận tải Nguyễn Thị Kim Huế tặng hoa Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội thanh niên xung phong chống Mĩ cứu nước 1967. Hồ Chủ tịch gặp mặt 10 cô gái xuất sắc nhất của C9 tập thể nữ anh hùng 7/7/1968 tại Phủ Chủ tịch. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lễ thông xe đường Chiêm Hoá - Na Hang ngày 19/5/1961. Với tinh thần " Xe chưa qua, nhà không tiếc" nhân dân xã Võ Ninh, Lệ Ninh - Quảng Bình tháo dỡ nhà để sửa cầu làm đường cho xe ta đưa hàng ra tiền tuyến 1965. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Phải chịu đựng hàng trăm trận đánh phá vô cùng ác liệt của máy bay giặc Mĩ, cầu Hàm Rồng trên trục đường 1A vẫn hiên ngang đứng vững trên dòng sông Mã. Mẹ Thiết ở Hương Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình tháo dầm nhà của mình để lót đường kịp thời thông xe đưa hàng ra tiền tuyến 1967. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tiểu đội A6 - C759 của Anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế đang san lấp hố bom sau khi giặc Mĩ bắn phá 1967. Cạp lại hố bom, mở một đoạn đường tránh để thông xe - sáng kiến của Anh hùng giao thông vận tải Nguyễn Thị Kim Huế 1966. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tổ phá bom thanh niên xung phong mang tên Cù Chính Lan trên đường ra tuyến đảm bảo giao thông. Đường 20/7 - cửa khẩu thứ 3 vượt qua Tây Trường Sơn, do Cục Công trình I thi công 1967. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nữ anh hùng La Thị Tám quan sát để cắm cọc báo hiệu bom nổ chậm trên đỉnh đèo ngã ba Đồng Lộc, Hà Tĩnh 1967. Đội văn nghệ "Tiếng hát át tiếng bom" của ngành Giao thông vận tải đang biểu diễn phục vụ tại chiến trường 1966. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngã ba Đồng Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh) địa danh nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từng đoàn xe vận tải đang vượt qua ngầm Ta Lê, một trong những trọng điểm bị giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất tại cửa khẩu tiền tiêu quan trọng nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh 1967. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nhân dân Thanh Hoá dùng xe đạp thồ đưa hàng ra tiền tuyến góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược 1965. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên §¹i héi thi ®ua ngµnh Giao th«ng vËn t¶i 21 ®Õn 25/3/1966. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên §•êng Tr•êng S¬n - §•êng mßn Hå ChÝ Minh, m¹ch m¸u nèi liÒn hËu ph•¬ng lín miÒn B¾c víi tiÒn tuyÕn lín miÒn Nam trong kh¸ng chiÕn chèng MÜ 1959 - 1975.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975.pdf