Luận văn Công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên từ 1939 đến 1945

Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 trên địa bàn Phổ Yên là thắng lợi của nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, được sự chỉ đạo trực tiếp của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ và Ban cán sự ATKII, mọi hoạt động cách mạng trên địa bàn huyện Phổ Yên đều được kịp thời, nhanh chóng chuyển hướng sát hợp với thực tiễn lịch sử. Xuất phát từ những chủ trương đúng đắn và sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, tuy quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng ở Phổ Yên muộn hơn so với các địa phương trong khu vực, nhưng đã sớm bắt kịp với hoạt động cách mạng trong cả nước. Phạm vi xây dựng và hoạt động của các tổ chức và lực lượng cách mạng lúc đầu còn hẹp, không đều, chỉ tập trung ở một số ít địa phương phía đông nam và phía bắc, sau đó đã lan rộng khắp địa bàn huyện. Sự ra đời và phát triển của các tổ chức cách mạng đã góp phần tập hợp, giác ngộ đông đảo quần chúng nhân dân theo cách mạng. Từ trong các tổ chức cách mạng, quần chúng được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh, qua đó những hội viên tích cực được lựa chọn vào các đội tự vệ hoạt động tại địa phương. Sự ra đời và hoạt động của các đội tự vệ -Lực lượng vũ trang bán ly khai đã góp phần bảo vệ cách mạng, hạn chế các hoạt động chống phá của Pháp, Nhật và tay sai. Với vị trí thuận lợi, có phong trào cách mạng và cơ sở quần chúng vững chắc, Phổ Yên cùng với Hiệp Hoà, Phú Bình đã được TW Đảng chọn để xây dựng thành ATK. Nhờ sự đùm bọc, che chở của nhân dân Phổ Yên, cán bộ và các cơ quan của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã được bảo đảm an toàn trong vòng vây của kẻ thù. Từ đây, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng được truyền tới các địa phương trong cả nước.

pdf91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1859 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên từ 1939 đến 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc Giang. Hội nghị nhận định: Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích gây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ [21]. Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở lớp đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị, tích cực phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Uỷ Ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ được thành lập có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu miền Bắc và giúp đỡ cả nước về mặt quân sự. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 Với những chủ trương kịp thời, đúng đắn, phù hợp với những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử đã góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng cả nước phát triển nhanh chóng, đúng hướng. 3.3. Đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3 đến 8/1945) 3.3.1. Bước phát triển mới của công cuộc xây dựng lực lượng Bước phát triển của công cuộc xây dựng lực lượng và đấu tranh chính trị. Tại Phổ Yên, lãnh đạo phong trào cách mạng từ nhiều nguồn đến: từ Vĩnh Phúc sang, từ nam Đồng Hỷ về, từ Phú Bình và Hiệp Hoà đến nhưng đều thống nhất về nội dung. Được tin ở Phú Bình đã có một số địa phương tiến hành “khởi nghĩa từng phần”, giành chính quyền cấp xã, thực hiện chủ trương của Xứ uỷ các cán bộ ở Phổ Yên đã thường xuyên nắm sát tình hình, tiếp tục kiên trì phát động nhân dân toàn huyện đấu tranh chống chính quyền Nhật và bọn tay sai. Từ đó, trên toàn huyện bùng lên phong trào đấu tranh rầm rộ. Khu vực phía đông của huyện, phong trào cách mạng từ Tiên Phong đã lan sang các xã Tân Tiến, Tân Phú, Tân Hương, khắp các xóm làng, từ già trẻ, trai gái đều nô nức tham gia các hội cứu quốc của mặt trận Việt minh. Ở phía nam của Phổ Yên, phong trào cách mạng phát triển nhanh chóng, lan rộng ở các xã Thuận Thành, Trung Thành. Phong trào cách mạng ở các xã phía bắc phát triển mạnh, từ Bá Xuyên đã lan rộng ra các vùng lân cận: Cải Đan, Lợi Xá, Phố Cò, Cầu Đông, Đắc Sơn, Đồng Tiến. Phong trào cách mạng phát triển sôi nổi đã lôi kéo, tập hợp, đoàn kết dân đồn điền và dân xứ lại chĩa mũi nhọn đấu tranh vào phát xít Nhật và tay sai của chúng. Phong trào Việt minh phát triển đã làm cho bộ máy cai trị ở thôn xã của địch không còn tác dụng hoặc ngả theo Việt minh, có nơi mọi công việc chung của địa phương đều do Việt minh đảm nhận. Nhiều nơi đã xuất hiện tình trạng tồn tại song song hai chính quyền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 Được sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc kỳ, Đảng bộ Bắc Giang đã tăng cường cho khu vực phía nam ATKII các đồng chí Quang Huy, đồng chí Vân (Thanh), đồng chí Long. Các địa phương phía bắc và tây bắc là hai đồng chí Minh Tâm, Ngọc Lan tăng cường về phát triển phong trào cách mạng nam Đồng Hỷ và bắc Phổ Yên. Đồng chí Chấn được cử về xây dựng cơ sở cách mạng ở Hồng Tiến, Văn Dương. Đây là những thuận lợi cho phong trào Việt Minh ở Phổ Yên phát triển. Tháng 5/1945, nhân dân Bá Xuyên, Tân Quang, được cán bộ cách mạng tổ chức họp nghe phân tích tình hình chung và kêu gọi mọi người dân lấy cớ đói khổ, không nộp thuế cho giặc. Cùng trong tháng 5/1945, tại Phù Lôi Việt minh đã cho họp nhân dân, lấy chữ ký của mọi người vào đơn và cử 80 người hăng hái tích cực lên huyện đường khất thuế. Huyện trưởng Phổ Yên sợ hãi, lúc đầu lánh mặt, sau trước áp lực của quần chúng nhân dân, hắn phải ra tiếp dân, nhận đơn và hẹn sẽ giải quyết. Sau đó đoàn kéo về, đi diễu hành trên quốc lộ 3 mỗi lúc lại được nhân dân nhập vào làm cho đoàn người thêm đông, họ vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu: “đả đảo phát xít”, “khất thuế đến vụ đông”. Được Việt minh tổ chức, từ một cuộc đưa đơn khất thuế, nhanh chóng biến thành một cuộc diễu hành, biểu dương lực lượng của nhân dân, làm cho kẻ địch hoang mang, không dám đàn áp. Cuối tháng 5 đầu tháng 6/1945, ta thành lập Uỷ Ban dân tộc giải phóng Cầu Đông (Hồng Tiến) và Vân Giai (Tân Phú). Hình thức chính quyền của ta tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật, nhưng chính quyền của địch chỉ tồn tại trên danh nghĩa, chúng đã bị vô hiệu hoá, mọi hoạt động ở địa phương đều do Uỷ Ban dân tộc giải phóng đảm nhận. Trong thời gian này, một mặt ta làm tê liệt bộ máy chính quyền địch, mặt khác ta cho người giám sát, giác ngộ lính bảo an ở các đồn bốt. Hoạt động của cán bộ Việt minh ở các thôn xã gần như công khai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 Nhờ được tăng cường cán bộ lãnh đạo, ở khu vực phía bắc của huyện, các tổ chức cách mạng vùng Bá Xuyên, Bình Sơn, Tân Quang được củng cố và hoạt động mạnh. Các tổ chức hội cứu quốc được phát triển nhanh chóng trong các tầng lớp, các giới. Tuy cơ sở và phong trào cách mạng ngày càng phát triển rộng lớn, nhưng đội ngũ cán bộ cơ sở còn quá mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã tăng cường thêm cán bộ cho các cơ sở. Các lớp học được mở tại Bá Xuyên, Bình Định và Tân Quang, tham gia là hầu hết cán bộ cơ sở và một số thanh niên tích cực của các xã lân cận. Những học viên của các lớp huấn luyện này đều trở thành giáo viên chính trị và quân sự cho các địa phương. Một số cán bộ ở địa phương sau khi tham dự các khoá huấn luyện, đã được phân công phát triển lực lượng ở Lợi Xá, Cải Đan, Lương Châu, Khu Yên, Niệm Quang, Cầu Đông. Nhìn chung, sau ngày Nhật đảo chính Pháp phong trào Việt minh trong toàn huyện phát triển cao hơn giai đoạn trước , Phong trào chuyển dần từ đấu tranh bí mật sang công khai trực diện với kẻ thù. Nó biểu hiện không chỉ ở các hình thức tập hợp quần chúng khất thuế, chống thu thầu dầu,…mà còn cử cán bộ Việt minh đến tận nhà các hào lý để thuyết phục, ép lý hào phải ủng hộ nhân dân khất thuế đến vụ sau. Nhiều trường hợp bọn tay sai cấp thôn, xã ngoan cố gây căng thẳng, Việt minh đã có thư cảnh cáo hoặc trừng trị như tên Loát, cai Ẩn ở Phố Cò làm cho bọn tay sai của phát xít không giám ngang nhiên chống phá cách mạng. Những cuộc đấu tranh chính trị nói trên, đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân, tạo ra những tiền đề cần thiết cho cuộc đấu tranh vũ trang và tiếp tục bảo vệ, duy trì những hoạt động của TW Đảng và Xứ uỷ Bắc Kỳ trên địa bàn huyện. Bước phát triển của công cuộc xây dựng lực lượng và đấu tranh vũ trang. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), bộ máy thống trị tay sai của Pháp bị tê liệt, trong khi phát xít Nhật chưa kịp củng cố bộ máy thống trị mới, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 đã tạo thời cơ cho nhân dân các địa phương nổi dậy giành chính quyền, trước hết là vùng nông thôn và miền núi. Dưới ánh sáng của chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, không khí chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trở lên sôi nổi. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ nhấn mạnh công tác phát triển chiến tranh du kích và xây dựng các căn cứ địa kháng Nhật. Tại Phổ Yên, thực hiện khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” của Đảng, các cán bộ Việt minh đã phát động quần chúng đấu tranh phá đồn điền lấy thóc chia cho dân nghèo và tập hợp nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa, gây thanh thế cho Việt minh. Mở đầu là cuộc tấn công vào đồn điền Chã, vì đây là một đồn điền lớn với hơn 1000 ha đất canh tác, án ngữ khu vực giáp gianh giữa Hiệp Hoà và Phổ Yên. Ngoài ra, đồn điền còn trữ một số lượng lương thực rất lớn, nếu lấy được thì không chỉ chia cho dân giải quyết nạn đói mà còn có thể nuôi ăn lực lượng vũ trang của hai huyện Hiệp Hoà và Phổ Yên trong nhiều tháng. Rất tiếc, do thiếu thống nhất cho nên cuộc tấn công có nguy cơ bị lộ, không giành thắng lợi, cho nên Việt minh đã ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công. Tuy không phá được kho thóc đồn điền Chã, nhưng tại các đồn điền nhỏ hơn như Thác Nhái, Sơn Cốt…cán bộ lãnh đạo nhân dân lấy được thóc, súc vật nuôi ở đồn điền chia cho dân, xung vào công quỹ cách mạng. Uy tín của Việt minh được nâng cao, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Để ngăn chặn phong trào phá kho thóc và uy hiếp phong trào cách mạng đang lên của nhân dân Phổ Yên, Cung Đình Vận - tỉnh trưởng Thái Nguyên đã đưa lính bảo an từ tỉnh về đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng ở khu vực ấp Đại Tân (Tiên Phong), nơi chúng nghi có lãnh đạo và là lực lượng chủ yếu tham gia vào cuộc tấn công đồn điền Chã. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 Trước những hành động đàn áp, khủng bố của kẻ thù, tự vệ và nhân dân Tiên Thù đã tự động tập hợp nhau lại, đấu tranh với địch, ngăn cản sự cướp bóc của chúng. Vì thiếu sự lãnh đạo kịp thời của cấp trên, cho nên phong trào đấu tranh tự phát của nhân dân chỉ làm cho lính bảo an hoảng loạn lúc đầu. Sau đó, tên Cung Đình Vận đã cho bắt người cầm đầu đấu tranh tích cực nhất là đồng chí Nguyễn Ích Giáp (thợ rèn) và đưa về bắn ngay tại đồn Chã. Căm phẫn với hành động của Nhật và tay sai, nhân dân đã xin với đoàn thể Việt minh cho phép đánh lại khi chúng kéo đến các làng xã. Tình thế cách mạng ngày càng sôi sục, quân địch đang điên cuồng đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, những điều kiện để tiến tới vũ trang bạo động (khởi nghĩa từng phần) giành chính quyền ở địa phương chưa chín muồi. Phân tích tình hình, các phái viên của Xứ uỷ đã chủ trương lãnh đạo nhân dân đấu tranh hợp pháp, tránh cho các xã phía đông nam bộc lộ sớm lực lượng, tránh được những tổn thất không đáng có cho quần chúng nhân dân và cơ sở cách mạng tại đây, động viên nhân dân tiếp tục kiên trì chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ để khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Cùng với phong trào phá kho thóc của Nhật, thực hiện chủ trương của Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, cả nước nói chung và Thái Nguyên nói riêng đã đẩy mạnh quá trình chuẩn bị lực lượng. Nhiều địa phương phía bắc của tỉnh đã chớp thời cơ làm “khởi nghĩa từng phần” thắng lợi như Định Hoá, Võ Nhai, Đại Từ. Ở phía nam của Thái Nguyên ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp nhân dân Kha Sơn (Phú Bình) đã khởi nghĩa giành chính quyền, nhưng đó mới chỉ là chặng đầu trên con đường cùng dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng. Ảnh hưởng phong trào cách mạng trong khu vực, trực tiếp từ Phú Bình và Hiệp Hoà lực lượng tự vệ các địa phương Phổ Yên cũng hoạt động khá sôi nổi. Do nguồn lãnh đạo chưa thống nhất, tránh bộc lộ lực lượng quá sớm và phải tiếp tục đảm bảo việc nuôi dấu đưa đón cán bộ từ xuôi lên chiến khu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 Việt Bắc và ngược lại, cho nên nhiệm vụ xây dựng lực lượng tự vệ tiếp tục được chú trọng. Chủ trương chung là tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng tự vệ, và để che mắt địch, lực lượng tự vệ của ta đã lồng vào hoạt động hợp pháp trong các đội bảo an của địch (bảo an giả), có nơi chánh, phó đội bảo an là người của ta cài vào. Thông qua các đồng chí này chúng ta đã biết được nhiều tin tức bí mật quan trọng của địch, đồng thời việc hoạt động vũ trang của ta cũng được thuận lợi hơn, vũ khí của lực lượng tự vệ được “kẻ thù trang bị” tương đối đầy đủ. Để phát triển lực lượng tự vệ, Xứ uỷ Bắc Kỳ còn cử một số đồng chí giáo viên quân sự về các xã Bá Xuyên, Cải Đan để huấn luyện cho các đội tự vệ. Phong trào Việt minh phát triển mạnh, tới mức cả ngày đêm “Bảo an giả” tiến hành tuần phòng nghiêm ngặt, làm cho trật tự an ninh trong các thôn xóm được đảm bảo, nhiều đám cướp trộm dần dần giải tán. Đầu tháng 6/1945, theo sự chỉ đạo của cấp trên, một đơn vị vũ trang được điều từ chiến khu về Phổ Yên để kết hợp với tự vệ địa phương đánh đồn Chã cướp lương thực, chia cho dân và lấy lương thực cho lực lượng của ta ở chiến khu. Kế hoạch đánh đồn Chã được Ban Chỉ huy trận đánh xây dựng tỷ mỷ, lực lượng chính là tự vệ Phổ Yên, Phú Bình, Hiệp Hoà và nòng cốt là các đồng chí từ trên cử về. Trước khi tấn công đồn Chã, ngoài việc xây dựng kế hoạch, ta còn tạo cơ sở quần chúng là binh lính trong đồn làm nội ứng. Ba giờ sáng ngày 4/6//1945, quân ta tấn công đồn Chã. Bị tấn công bất ngờ cho nên binh lính trong đồn đã nhanh chóng hạ súng đầu hàng. Lực lượng tự vệ của ta đã bắt được tên đồn trưởng (đội Bẹ) và xử bắn ngay tại đồn, còn binh lính thả cho về hoàn lương cùng gia đình. Toàn bộ vũ khí và của cải của đồn điền Chã đã về tay nhân dân. Sau khi chuyển toàn bộ vũ khí lên chiến khu, số thóc còn lại được nhân dân gánh đi phân tán đến nhiều gia đình ở các xã lân cận. Sau khi giải quyết nhanh chóng đồn Chã, lực lượng của ta đã rút lui an toàn. Cuộc tấn công đánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 chiếm nhanh chóng đồn Chã đã thể hiện sự lớn mạnh của lực lượng tự vệ địa phương và tăng cường ảnh hưởng của Việt minh trong nhân dân. Nhận được tin đồn Chã bị đánh chiếm, tỉnh trưởng Thái Nguyên – Cung Đình Vận đã tức tốc tăng cường lính bảo an về càn quét các địa phương lân cận, tập trung chủ yếu vào Tiên Thù. Để trả thù cuộc tấn công đồn điền Chã, chúng bắn ngay những người chủ gia đình nào chống lại việc chúng càn quét và thu hồi thóc. Chúng bắt cả những người trong nhà có nhiều thóc. Sau khi điên cuồng càn quét các xóm làng, Cung Đình Vận rút đi, bắt theo 50 người về giam tại nhà lao tỉnh và cướp của nhân dân 40 con trâu, bò. Về phía ta, bị bất ngờ trước sự phản ứng, đàn áp điên cuồng của địch cho nên đã không kịp chống trả. Những hành động khủng bố của bọn tay sai đã không dập tắt được ý chí cách mạng của nhân dân địa phương, còn làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chúng ngày càng sâu sắc, nhân dân ngày càng tin theo và tham gia vào phong trào cách mạng do Việt minh phát động. Trong thời gian này, lợi dụng việc Cung Đình Vận đã đưa lính đi khủng bố nhân dân các xã đông nam của huyện, thì ở các xã phía tây một số phần tử xấu, có cả bọn tay chân của Nhật, Pháp đã lợi dụng tình hình nổi lên chống phá cách mạng, chúng cướp của giết người và gây rối tình hình địa phương. Chúng tự xưng là Đồng minh - Thực chất là “Đồng minh giả” và tuyên truyền chúng là lực lượng đại diện cho phe Đồng minh chống phát xít, chuẩn bị tước khí giới của quân Nhật khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Thực chất “Đồng minh giả” là lũ quân ô hợp, cầm đầu là Đội Đối và Lý Mười. Hoạt động của bọn này đã gây không ít khó khăn cho cách mạng phía tây Phổ Yên. Chúng chiêu mộ quân, bắt dân phục dịch, cướp của cải của dân để ăn uống, tiếp đó chúng kéo quân vào đồn điền Phúc Thuận để cướp thóc lúa, tiền bạc,…nguy hiểm hơn chúng tuyên truyền Việt minh là giặc cỏ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 Được báo cáo của cơ sở, Ban cán sự Bắc Giang đã kịp thời quyết định cử đồng chí Thái Bảo về Phổ Yên để chỉ đạo tự vệ địa phương nhanh chóng diệt “Đồng minh giả”. Ngay sau khi đến Phổ Yên, đồng chí Thái Bảo đã bàn với cơ sở và vạch ra kế hoạch diệt trừ bọn “Đồng minh giả”. Trước hết, ta thuyết phục những kẻ cầm đầu phải chấm dứt những hoạt động cướp phá, nói xấu Việt minh, nói xấu cách mạng, phải tự giải tán, ai đi theo cách mạng thì được tiếp nhận, ai về quê hoàn lương thì sẽ được nhân dân địa phương giúp đỡ, nếu chống đối thì dùng lực lượng vũ trang trấn áp, tiêu diệt. Với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và quần chúng, đại diện cho Mặt trận Việt minh đã gặp những tên cầm đầu, nói cho họ hiểu đường lối cứu nước của Mặt trận Việt minh và buộc chúng phải chấp nhận những yêu cầu của ta. Ban đầu chúng hứa sẽ thực hiện theo yêu cầu của ta, nhưng ngay sau khi lực lượng tự vệ của ta rút, chúng lại tiến hành cướp bóc tài sản của nhân dân trong vùng. Cho nên ta đã dùng lực lượng vũ trang do cấp trên điều về phối hợp với tự vệ địa phương tập kích vào tận sào huyệt “Đồng minh giả”, bắt gọn cả bọn. Với chính sách nhân đạo khoan hồng của Mặt trận Việt minh, ta chỉ trừng trị những tên cầm đầu, những kẻ bị lừa gạt làm tay chân, ta cho họ về nhà làm ăn. Cùng với việc tiêu diệt “Đồng minh giả”, lực lượng vũ trang của quân giải phóng, kết hợp với tự vệ địa phương truy đuổi lực lượng của Cung Đình Vận, khi chúng cho quân vào càn ở Phúc Thuận, Minh Đức. Trong cuộc truy đuổi này, ta đã thu lại được toàn bộ số trâu, bò mà địch cướp, đem trả lại cho dân. Phía bắc của huyện, nhờ được tăng cường cán bộ lãnh đạo, chỉ sau một thời gian ngắn, các tổ chức cách mạng ở vùng Bá Xuyên, Bình Sơn, Tân Quang được củng cố và hoạt động mạnh mẽ. Riêng xã Tân Quang, chỉ trong thời gian không lâu, đã có 5 tiểu đội tự vệ chiến đấu ở 5 xóm: Cầu Gáo, Khu Yên, Mỏ Chè, Xóm Mới và Thuần Lạng, bao gồm 40 chiến sĩ. Sự hoạt động tích cực của lực lượng tự vệ không chỉ bảo vệ an toàn cho cán bộ cấp trên qua Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 lại địa phương công tác, bảo vệ tốt lớp huấn luyện mở tại địa phương, mà còn có tác dụng ngăn chặn các phần tử lưu manh, trộm cắp, góp phần ổn định trật tự trên địa bàn [69]. Khí thế cách mạng ngày sôi động, thời cơ tổng khởi nghĩa ngày càng đến gần, tháng 7/1945 tự vệ Phổ Yên đã chặn đánh một đoàn xe chở Nhật tại Thanh Xuyên, bọn chúng bị bất ngờ phải bỏ chạy. Với các hoạt động quân sự của ta ở các xã phía tây của huyện, và tình thế cách mạng nhìn chung trong toàn tỉnh và ở Phổ Yên nói riêng đã và đang chiếm ưu thế. Vì thế từ đầu tháng 7 đến đầu tháng 8/1945 Nhật và tay sai cũng không mở rộng hoạt động lùng sục, càn quét nữa, đây là thời cơ toàn huyện dấy lên phong trào cách mạng cứu nước, tổng khởi nghĩa [42]. Được sự chỉ đạo kịp thời, trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ, cùng với phong trào phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói, lực lượng tự vệ Phổ Yên được hình thành và ngày càng lớn mạnh. Cho đến trước ngày tổng khởi nghĩa, lực lượng tự vệ bán thoát ly được hình thành ở hầu khắp các xóm, xã. Lực lượng tự vệ thường xuyên được tập luyện, bồi dưỡng những kiến thức sơ giản về quân sự, chính trị đã góp phần nâng cao sức chiến đấu của các đội tự vệ và đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, thiết thực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở địa phương. 3.3.2. Tiếp tục xây dựng Phổ Yên trở thành An toàn khu vững mạnh Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, được sự chỉ đạo trực tiếp của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ, Ban cán sự Bắc Giang và Ban cán sự ATKII, phong trào Việt minh trên địa bàn Phổ Yên ngày càng phát triển. Các tổ chức hội, đoàn thể của Việt minh được mở rộng trên toàn địa bàn huyện. Các lực lượng vũ trang bán thoát ly được hình thành, sự phát triển, trưởng thành của lực lượng chính trị và vũ trang tạo tiền đề thuận lợi để Phổ Yên tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của TW và Xứ uỷ giao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 Khu vực đông nam Phổ Yên, phong trào cách mạng phát triển mạnh, từ Tiên Phong nhanh chóng lan rộng sang các xã Thuận Thành, Trung Thành... Đông đảo các tầng nhân dân xin gia nhập vào các tổ hội chức cứu quốc của Việt minh. Các cơ sở cách mạng, đường dây liên lạc tiếp tục được giữ vững. Sự ra đời các đội tự vệ bán ly khai, cùng với nhiều hình thức hoạt động từ bí mật, bất hợp pháp đến công khai, hợp pháp đã góp phần trấn áp các hoạt động chống phá cách mạng, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân với cách mạng. Ở các xã phía tây, được sự ủng hộ của nhân dân, lực lượng tự vệ đã tiêu diệt đội quân ô hợp “Đồng minh giả”, tránh cho đồng bào xã Phúc Thuận một hiểm hoạ, nhân dân địa phương yên tâm làm ăn, phấn khởi tin theo Việt minh. Từ cuối tháng 5 đầu tháng 6/1945, Ban chấp hành Việt minh ở Bá Xuyên, Bình Sơn, Tân Quang phát động quần chúng nhân dân nổi dậy xoá bỏ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng dưới hình thức Uỷ Ban dân tộc giải phóng lâm thời. Các xã Lợi Xá, Bá Xuyên, Tân Quang cũng lập được Uỷ Ban nhân dân lâm thời từ tháng 7/1945. Đồng bào các dân tộc trong vùng càng thêm tin tưởng và hăng hái tham gia quyên góp ủng hộ lương thực, thực phẩm cho cách mạng. Xã Bá Xuyên lúc đó là một trong những xã nghèo, đa số các gia đình đều thiếu ăn, nhưng đã ủng hộ Giải phóng quân 204 kg gạo, 60 đồng và một con bò, không kể số gạo ủng hộ tự vệ địa phương trong thời gian huấn luyện. Bá Xuyên trở thành một trong những cơ sở cách mạng an toàn vững chắc ở phía nam Đồng Hỷ, bắc Phổ Yên. Nhiều lớp huấn luyện quân sự, chính trị của huyện, nhiều hội nghị quan trọng của Phổ Yên đều được tổ chức tại Bá Xuyên. Chùa Bá Xuyên lúc này vẫn là địa điểm liên lạc và cũng là nơi tiếp nhận tài liệu, sách báo của Xứ uỷ để từ đây chuyển đi nơi khác. Tại Cải Đan, cơ sở bí mật được thiết lập tại gia đình đồng chí Trịnh Quang Đông (Xuân Miếu). Từ năm 1943 đến tổng khởi nghĩa, đây là cầu nối quan trọng để duy trì đường dây liên lạc từ Bá Xuyên qua Cải Đan về Cầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Đông (Hồng Tiến) và sang Tiên Phong. Nhiều cán bộ quan trọng của Xứ uỷ Bắc Kỳ như đồng chí Lê Trung Đình, đồng chí Nguyễn Thị Minh Tâm, đồng chí Ngọc Lan, …đã được gia đình ông che chở, nuôi dưỡng và đảm bảo an toàn tuyệt đối. Suốt từ năm 1943 đến khi khởi nghĩa cướp chính quyền tháng 8/1945, gia đình đã dành hẳn một ngôi nhà 3 gian để các cán bộ làm nơi ở, hội họp, viết tài liệu. Sự phát triển của cao trào kháng Nhật tại Phổ Yên đã “tạo điều kiện an toàn cho con đường giao thông của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ qua Phổ Yên, lên Đồng Hỷ qua Đại Từ đến Sơn Dương (Tuyên Quang). Đây là đường dây để đưa đón cán bộ lên chiến khu và ngược lại, nó đã đưa đón nhiều đồng chí lãnh đạo cấp trên, các đại biểu đi họp Hội nghị Tân Trào vào tháng 8/1945”[42,tr.58]. Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, để có thể chỉ đạo cách mạng kịp thời, ngày 4/5/1945 lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng đoàn cán bộ rời Khuổi Nặm (Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng). Sau 18 ngày đêm trèo đèo, lội suối băng rừng, ngày 21/5/1945 Người đã đến Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Theo chủ trương của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 4/6/1945 khu giải phóng Việt Bắc được thành lập gồm 6 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên). Tân Trào được chọn làm “thủ đô” của khu giải phóng. Phổ Yên nằm trong ATKII, cho nên không thuộc sự chỉ đạo của khu giải phóng, song Phổ Yên đã góp phần là cầu nối giao thông liên lạc giữa phong trào cách mạng các tỉnh miền xuôi với căn cứ Việt Bắc. Từ tháng 6/1945, ngoài con đường liên lạc từ Tiên Phong (Phổ Yên) qua Kha Sơn (Phú Bình) lên xã Cây Thị (Đồng Hỷ) nối liền với Bắc Sơn – Võ Nhai và Cao Bằng, con đường từ Tiên Phong qua Cầu Đông (Hồng Tiến); xóm Bẫy, Xuân Miếu (Cải Đan); lên Bá Xuyên (Đồng Hỷ); qua Đại Từ lên Định Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang) được hình thành và đảm bảo việc đưa đón cán bộ trong thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho tổng khởi nghĩa [16], [43], [69]. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tình thế cách mạng có nhiều thay đổi, phong trào cách mạng tại Phổ Yên tiếp tục phát triển, các cơ sở cách mạng, đường dây liên lạc được bảo đảm an toàn tuyệt đối, Phổ Yên tiếp tục là cầu nối quan trọng giữa chiến khu Việt Bắc với cách mạng các tỉnh miền xuôi. Đây là điểm khác biệt so với các địa phương khác trong khu vực 3.4. Quá trình khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn huyện 3.4.1. Thời cơ cách mạng và chủ trương của Đảng Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức (5/1945), Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công Nhật. Ngày 8/8/1945, Liên xô tuyên chiến với Nhật và tấn công đạo quân Quan Đông ở đông bắc Trung Quốc. Ngày 14/8/1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và nội các Nhật họp thông qua các quyết định đầu hàng Liên xô và Đồng minh không điều kiện. Trưa ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh của Nhật. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim cùng bọn tay sai của Nhật hoang mang cực độ, không còn khả năng thống trị. Điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến. Từ ngày 9/3/1945, với những chính sách tàn ngược, vô nhân đạo của Nhật đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với phát xít Nhật ngày càng sâu sắc, một phần quan lại và các tầng lớp trung gian đã ngả về phía cách mạng. Cao trào kháng Nhật cứu nước do Đảng lãnh đạo ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trong cả nước, các căn cứ du kích được mở rộng. Lực lượng vũ trang cách mạng được hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. Cuối tháng 7 đầu tháng 8/1945, tình thế cách mạng trực tiếp ở nước ta đã xuất hiện, Đảng đã sẵn sàng lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền, toàn thể dân tộc ta đang sôi sục chờ ngày tổng khởi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 nghĩa. “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi” [21,tr.424]. Thời cơ ngàn năm có một đã đến với dân tộc ta. Được tin phát xít Nhật sắp tuyên bố đầu hàng Đồng minh, TW Đảng và Tổng bộ Việt minh đã thành lập Uỷ Ban khởi nghĩa toàn quốc. Hai mươi ba giờ ngày 13/8/1945, Uỷ Ban khởi nghĩa toàn quốc ra “Quân lệnh số 1” chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang). Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương và đề ra những chính sách đối nội, đối ngoại quan trọng cho nhà nước ta sau khi giành được chính quyền. Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân được triệu tập tại Tân Trào, Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của TW Đảng, thông qua chính sách của Việt minh, cử ra Uỷ Ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. 3.4.2. Khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn huyện Tại Thái Nguyên, ngọn lửa cách mạng ngày càng lan rộng, làm cho bộ máy chính quyền địch tan rã ở nhiều nơi. Tinh thần chiến đấu của binh lính Nhật giảm sút nghiêm trọng, lính bảo an đảo ngũ ngày càng nhiều, một số công chức làm việc trong bộ máy chính quyền địch sợ hãi đã bỏ việc. Chính quyền địch ở các huyện, xã không dám chống đối cách mạng như trước và chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Một số địa chủ, tư sản và tiểu tư sản trước đây có thái độ do dự, nay ngả hẳn theo cách mạng. Thời cơ giành chính quyền đã chín muồi trên phạm vi toàn tỉnh. Tại Phổ Yên lúc này, chính quyền tay sai đang ở trong tình trạng dao động. Một số nhân viên nguỵ quyền đã giác ngộ và đi theo cách mạng. Một số nhân viên bỏ chạy đi nơi khác. Trong huyện lỵ chỉ còn tên huyện trưởng, một đội lính cơ và hai đội lính khố xanh do giám binh tỉnh tăng cường” [41], [69]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 Trước những thay đổi nhanh chóng của hoàn cảnh lịch sử, thực hiện chỉ thị của TW Đảng và lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, Phổ Yên đã thành lập Ban chỉ đạo khởi nghĩa. Ban chỉ đạo nhận định: Phổ Yên trước đây nằm trong An toàn khu, phải đảm bảo an toàn, bí mật cho các cơ quan của Xứ uỷ, Trung ương vừa phải đảm bảo giao thông của Xứ uỷ từ xuôi lên qua Phổ Yên đến chiến khu, cho nên chưa được phép giành chính quyền bộ phận như nhiều nơi khác, trong khi cao trào kháng Nhật cứu nước đang phát triển rộng trên toàn quốc. Nay tình hình đã biến chuyển, Nhật ở chính quốc đã đầu hàng Đồng minh, bọn Nhật và tay sai ở trong tỉnh cũng đã hoang mang cao độ , tinh thần rệu rã, được lệnh của trên, ta cần nhanh chóng phát động quần chúng giành chính quyền toàn huyện [42]. Trên cơ sở phân tích tình hình, Ban chỉ đạo khởi nghĩa quyết định huy động đông đảo quần chúng tổ chức tuần hành thị uy, kết hợp với lực lượng tự vệ, bao vây huyện lỵ buộc địch phải đầu hàng. Lực lượng chính là tự vệ các xã Tiên Phong, Thuận Thành và nhân dân toàn huyện đồng loạt nổi dậy cướp chính quyền, dự định sẽ diễn ra vào ngày 19/8/1945. Trước đó, ngày 18/8/1945 lực lượng tự vệ cùng nhân dân Bá Xuyên, Lợi Xá, Phố Cò cùng đánh chiếm đồn điền Sơn Cốt. Sáng 19/8/1945, các lực lượng dự kiến tập trung để cướp chính quyền không tập hợp được do nước lũ quá lớn. Song không vì thế mà Phổ Yên giành chính quyền muộn so với các nơi khác. Được tin Hà Nội giành được chính quyền, một lực lượng tự vệ và nhân dân các xã phía bắc của huyện như: Phố Cò, Cải Đan, Tân Quang, Bá Xuyên đã tập trung lực lượng tiến vào đánh chiếm huyện đường (nay thuộc xã Đắc Sơn). Ban đầu, một số lính bảo vệ huyện đường nghe theo Đội Sát, nổ súng chỉ thiên uy hiếp nhân dân. Cùng lúc, hai giáo viên quân sự Lê Văn Ngọ và Minh Đức đang trên đường đi công tác qua địa phận huyện lỵ Phổ Yên, thấy phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 trào đấu tranh giành chính quyền đang diễn ra sôi nổi, liền huy động thêm nhân dân Sơn Cốt và các vùng phụ cận huyện đường quyết tâm giành thắng lợi. Trước sức mạnh của quần chúng nhân dân, tri huyện Đồng Mạnh Tư, Cai Dương, Đội Sát run sợ ra lệnh cho toàn bộ quân lính đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí, ấn tín và toàn bộ giấy tờ. Sau khi giành thắng lợi ở huyện lỵ, những người lãnh đạo giành chính quyền không nhận được chủ trương của trên, đã lúng túng không biết giải quyết các công việc tiếp theo. Đồng chí Ngọ và đồng chí Đức đã giải tán nhân dân sau khi đã đốt phá tất cả giấy tờ và những gì còn lại của huyện đường [69]. Đêm ngày 19/8/1945, lực lượng tự vệ của Tân quang, Bá Xuyên hành quân gấp rút, phối hợp cùng các đơn vị vũ trang ở Phú Bình, Cam Giá,…bao vây, đánh chiếm đồn điền Gia Sàng, bắt giữ một số tên việt gian thân Nhật, sau đó tiếp tục tiến lên tham gia giải phóng thị xã Thái Nguyên vào ngày 20/8/ 1945. Sáng ngày 20/8/1945, lực lượng của Ban lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền huyện lỵ Phổ Yên mới đến nơi, thì huyện đường đã được giải phóng. Ban lãnh đạo khởi nghĩa đã làm tiếp những công việc của một huyện lỵ mới được giải phóng như: Ra tuyên bố giải tán chính quyền địch, kêu gọi nhân dân, các đoàn thể Việt minh ổn định trật tự, trị an, giúp đỡ lực lượng khởi nghĩa truy bắt bọn việt gian có tội với nhân dân, và ra tuyên bố kiên quyết trừng trị những tên tay sai việt gian ngoan cố chống lại cách mạng. Đêm 20/8/1945, một tốp sĩ quan và binh lính Nhật từ thị xã Thái Nguyên theo xuôi quốc lộ 3 chạy về Hà Nội. Đến địa phận Phố Cò, chúng đã bị lực lượng tự vệ địa phương chặn đánh. Quân Nhật bỏ chạy, ta đã thu được một số lựu đạn, ngựa và mũ sắt. Sáng ngày 21/8/1945, tại khu rừng Niệm Cuông xuất hiện một số tàn quân Nhật. Ta đã huy động lực lượng tự vệ ở Niệm Cuông, Phố Cò, Cải Đan, Lợi Xá bao vây địch buộc chúng phải quay lại thị xã Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 Được sự chỉ đạo của Ban cán sự tỉnh Thái Nguyên, ngày 21/8/1945 ban lãnh đạo khởi nghĩa huyện Phổ Yên họp tại đền Giá (Đông Cao) để chỉ định: Uỷ ban dân tộc giải phóng lâm thời gồm 9 người, do đồng chí Trần Mạnh Hùng làm chủ tịch. Ngày 23/8/1945, nhân dân các địa phương trong huyện nô nức kéo về huyện lỵ dự lễ ra mắt chính quyền mới, chính quyền cách mạng, đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động. Từ đây, người dân Phổ Yên nghèo đói, cơ cực, lam lũ xưa kia đã thực sự trở thành người chủ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và có quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài, chu đáo, đặc biệt trong cao trào kháng Nhật trên địa bàn Phổ Yên đã hình thành lực lượng chính trị, vũ trang hùng hậu sẵn sàng chờ thời cơ cướp chính quyền. Cho nên, dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, nhưng cùng với nhân dân cả nước, quân và dân Phổ Yên đã chớp thời cơ nhanh chóng giành chính quyền, góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc. Tiểu kết Được sự chỉ đạo trực tiếp của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ và Ban cán sự ATKII, từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp đến trước ngày tổng khởi nghĩa, quá trình chuẩn bị lực lượng trên địa bàn Phổ Yên tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển nhanh. Đông đảo các giai tầng trong xã hội nô nức tham gia vào các tổ chức hội của Mặt trận Việt minh. Cuộc đấu tranh đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, hình thức đấu tranh quyết liệt hơn, chuyển dần từ bí mật sang công khai trực diện với kẻ thù. Các cuộc đấu tranh chính trị đã góp phần cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân, tập dượt quần chúng làm cách mạng, bảo vệ, duy trì hoạt động của TW Đảng và Xứ uỷ trên địa bàn. Cùng với sự phát triển của lực lượng chính trị, các đội tự vệ – lực lượng vũ trang bán ly khai được hình thành ở hầu khắp các thôn xã, trở thành “công cụ” trấn áp hiệu quả các hành động chống phá cách mạng của kẻ thù, sẵn sàng xông lên cướp chính quyền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 Sự phát triển của lực lượng chính trị, vũ trang trong cao trào kháng Nhật trên địa bàn huyện Phổ Yên, đã góp phần tiếp tục phát triển các cơ sở cách mạng và đảm bảo an toàn cho các đường dây liên lạc của TW và Xứ uỷ, Phổ Yên tiếp tục là cầu nối quan trọng giữa chiến khu Việt Bắc với phong trào cách mạng các tỉnh miền xuôi. Với sự chuẩn bị tích cực, chu đáo về lực lượng trong cao trào kháng Nhật, cho nên khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, nhân dân các dân tộc Phổ Yên đã đồng loạt xông lên cướp chính quyền làm chủ quê hương. Việc Phổ Yên sớm giành được chính quyền đã tạo điều kiên thuận lợi cho các cán bộ từ chiến khu Việt Bắc nhanh chóng về Hà Nội chuẩn bị cho sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. KẾT LUẬN Với vị trí là cầu nối giữa vùng đồng bằng với các tỉnh trung du, miền núi và là lá chắn bảo vệ cửa ngõ phía bắc kinh thành Thăng Long - Hà Nội, cùng với truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động và dũng cảm, đoàn kết trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm cho nên trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước nhân dân các dân tộc Phổ Yên luôn sát cánh cùng nhân dân Thái Nguyên và cả nước lập nên nhiều chiến công. Tất cả những truyền thống tốt đẹp đó là chất men tạo nên khối đại đoàn kết, sức mạnh phi thường để con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 người nơi đây chinh phục cải tạo thiên nhiên, chống lại mọi áp bức bất công và đạp bằng mọi thế lực thù địch. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 trên địa bàn Phổ Yên là thắng lợi của nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, được sự chỉ đạo trực tiếp của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ và Ban cán sự ATKII, mọi hoạt động cách mạng trên địa bàn huyện Phổ Yên đều được kịp thời, nhanh chóng chuyển hướng sát hợp với thực tiễn lịch sử. Xuất phát từ những chủ trương đúng đắn và sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, tuy quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng ở Phổ Yên muộn hơn so với các địa phương trong khu vực, nhưng đã sớm bắt kịp với hoạt động cách mạng trong cả nước. Phạm vi xây dựng và hoạt động của các tổ chức và lực lượng cách mạng lúc đầu còn hẹp, không đều, chỉ tập trung ở một số ít địa phương phía đông nam và phía bắc, sau đó đã lan rộng khắp địa bàn huyện. Sự ra đời và phát triển của các tổ chức cách mạng đã góp phần tập hợp, giác ngộ đông đảo quần chúng nhân dân theo cách mạng. Từ trong các tổ chức cách mạng, quần chúng được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh, qua đó những hội viên tích cực được lựa chọn vào các đội tự vệ hoạt động tại địa phương. Sự ra đời và hoạt động của các đội tự vệ - Lực lượng vũ trang bán ly khai đã góp phần bảo vệ cách mạng, hạn chế các hoạt động chống phá của Pháp, Nhật và tay sai. Với vị trí thuận lợi, có phong trào cách mạng và cơ sở quần chúng vững chắc, Phổ Yên cùng với Hiệp Hoà, Phú Bình đã được TW Đảng chọn để xây dựng thành ATK. Nhờ sự đùm bọc, che chở của nhân dân Phổ Yên, cán bộ và các cơ quan của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã được bảo đảm an toàn trong vòng vây của kẻ thù. Từ đây, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng được truyền tới các địa phương trong cả nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, do phải tiếp tục đảm bảo an toàn, bí mật cho các cơ quan của TW Đảng, Xứ uỷ và giao thông liên lạc giữa các tỉnh miền xuôi với chiến khu, nên Phổ Yên chưa tiến hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận như các địa phương khác. Hoạt động chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang bán ly khai tiếp tục phát triển, các cơ sở cách mạng và đường dây liên lạc qua huyện Phổ Yên tiếp tục được bảo mật. Vào giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho cách mạng tháng Tám, Phổ Yên đã góp phần đưa đón cán bộ từ các tỉnh miền xuôi lên chiến khu Việt Bắc dự Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội. Đây là đóng góp quan trọng của Phổ Yên với cách mạng tháng Tám và là điểm khác biệt so với các địa phương khác. Với chiến thắng của quân Đồng minh, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng không điều kiện, Đảng ta đã kịp thời phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tại Phổ Yên ngọn lửa cách mạng ngày càng lan rộng, làm cho bộ máy chính quyền địch tan rã ở nhiều nơi, các lực lượng trung gian ngả hẳn về phía cách mạng, thời cơ giành chính quyền đã “chín muồi”. Từ ngày 18 đến ngày 23/8/1945, nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên đã đồng loạt xông lên cướp chính quyền, làm chủ quê hương. Quá trình giành chính quyền tại Phổ Yên diễn ra nhanh chóng, hoà bình và ít đổ máu. Có được kết quả đó là do đã có quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài, chu đáo và sự lãnh đạo kịp thời của TW Đảng và Xứ uỷ Bắc Kỳ cho nên nhân dân các dân tộc Phổ Yên luôn trong tư thế sẵn sàng chờ thời cơ cướp chính quyền. Những kết quả của nhân dân Phổ Yên đạt được trong những năm 1939 – 1945, đã góp phần bảo vệ, duy trì các cơ sở cách mạng, đường dây liên lạc và những hoạt động của TW Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ và ATKII trong những năm 1943 - 1945. Phổ Yên đã trở thành “cầu nối an toàn” giữa phong trào cách mạng các tỉnh miền xuôi với chiến khu Việt Bắc, “con đường cách mạng quần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 chúng” được hình thành, đó là yếu tố quan trọng đưa đến thắng lợi nhanh chóng của cách mạng tháng Tám trên phạm vi toàn quốc. Từ trong phong trào đấu tranh cách mạng đã khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, chống giặc ngoại xâm và hình thành một đội ngũ cán bộ trung kiên. Đó là cơ sở để nhân dân các dân tộc Phổ Yên tiếp tục tiến hành chống giặc ngoại xâm, diệt trừ nôị phản, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Từ thực tế quá trình hoạt động và đấu tranh cách mạng đã để lại cho nhân dân và Đảng bộ Phổ Yên những bài học kinh nghiệm quý như: Luôn vận dụng sáng tạo, kịp thời những chủ trương chính sách của Đảng vào thực tế lịch sử địa phương; Luôn có ý thức tập hợp và phát huy tối đa sức mạnh của quần chúng nhân dân; Luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân lao động, trước hết là giai cấp nông dân; Luôn đặt quyền lợi dân tộc lên hàng đầu…Hơn 60 năm đã đi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm đó vẫn giữ nguyên giá trị, là cơ sở quan trọng để các nhà lãnh đạo họach định các chính sách phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cho địa phương. Với những đóng góp và công lao to lớn của nhân dân các dân tộc Phổ Yên trong những năm trước cách mạng tháng Tám đã được Đảng, Nhà nước ta ghi nhận và trao tặng những phần thưởng cao quý: Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, công nhận ATKII là di tích lịch sử văn hoá, nhiều cá nhân và gia đình được nhận Bằng khen có công với nước trong giai đoạn 1942 - 1945,...Có được những thành công đó là do sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, trực tiếp là Ban cán sự ATKII đã khơi dậy phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhân dân, đó là nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi của cách mạng Phổ Yên trong những năm 1939 - 1945. Công cuộc chuẩn bị lực lượng cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám tại Phổ Yên góp thêm bằng chứng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 lịch sử phủ nhận những quan điểm sai trái cho rằng thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là “ăn may”, là “ngẫu nhiên”. Từ thực trạng xuống cấp của các di tích lịch sử, có nguy cơ bị biến thành phế tích và biến mất của các tư liệu lịch sử quý giá, tôi kiến nghị với các cấp chính quyền tại địa phương cần có kế hoạch điều tra, bảo vệ, khôi phục các di tích, các tư liệu lịch sử, quan tâm chăm lo hơn đến đời sống vật chất, tinh thần của những gia đình và cá nhân có công với cách mạng. Từ đó góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 2. Ăngghen – Lênin – Xtalin (1960), Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 3. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1969), Từ đốm lửa đầu tiên, Bắc Thái 4. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1970), Lịch sử thời kì vận động cách mạng tháng Tám tỉnh Bắc Thái 1939 – 1945, Bắc Thái. 5. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW (1978), Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ (văn kiện Đảng 1930 – 1945), Hà Nội. 6. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1978), Lịch sử cách mạng tháng Tám Bắc Thái, Bắc Thái. 7. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1978), Bác Hồ với Bắc Thái, Tập I, Bắc Thái. 8. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1980), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Tập I, Bắc Thái. 9. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng (1987), Bắc Thái trong căn cứ địa Việt Bắc, Bắc Thái. 10. Ban chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái (1990), Bắc Thái lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Bắc Thái. 11. Ban chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999), Thái Nguyên lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng chiến chống Pháp 1941 – 1954, Thái Nguyên. 12. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Tập I (1936 – 1965), Thái Nguyên. 13. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2005), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Tập II (1965 – 2000), Thái Nguyên. 14. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW (1967), Tìm hiểu cách mạng tháng Tám, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 15. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc (1975), Lịch sử khu giải phóng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 16. Ban Tuyên giáo Phổ Yên (2008), Báo cáo về ATK II của TW Đảng tại huyện Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám năm 1945.Tài liệu lưu tại văn phòng Ban Tuyên giáo huyện Phổ Yên. 17. Các Mác - Ăngghen (1973), Quan điểm cơ bản về khởi nghĩa, chiến tranh và quân đội, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 18. Cụm di tích lịch sử Phú Bình, Phổ Yên. Tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên. 19. Cụm di tích lịch sử Hiệp Hoà. Tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang. 20. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập 1936 – 1939, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập 1940 – 1945, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Trường Chinh (1947), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 23. Trường Chinh (1970), Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 24. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Tập I, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 25. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cở vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì Chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 26. Nguyễn Anh Dũng (1989), Nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh vũ trang trong cách mạng tháng Tám, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 27. Hoàng Dũng (1995), Lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong cách mạng tháng Tám, Nxb Sự Thật. 28. Nguyễn Quốc Dũng (2002), Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 29. Trần Bá Đệ (Chủ biên) (1995), Lịch sử Việt Nam từ 1930 – 1945, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 30. Võ Nguyên Giáp (1964), Từ nhân dân mà ra (Hồi kí), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 31. Võ Nguyên Giáp (1972), Vị trí chiến lược của chiến tranh nhân dân ở địa phương và các lực lượng vũ trang địa phương , Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 32. Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử (Hồi kí), Nxb Văn học, Hà Nội. 33. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ tổ quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, Tập IV, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Tập III, Nxb Chính trị Quốc gia. 36. Hội Liên hiệp phụ nữ Bắc Thái (1986), Phụ nữ Bắc Thái trên chặng đường đấu tranh và xây dựng, Bắc Thái. 37. Nguyễn Cảnh Minh (Chủ biên) - Đỗ Hồng Thái (1999), Lịch sử địa phương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 38. Huyện uỷ Hiệp Hoà (1992), Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ nhân dân Hiệp Hoà, Tập I (1938 – 1954), Bắc Giang. 39. Huyện uỷ Phú Bình (1999), Lịch sử Đảng bộ xã Kha Sơn (1938- 1945), Thái Nguyên. 40. Huyện uỷ Phú Bình (2005), Lịch sử Đảng bộ Phú Bình 1930 – 2005, Thái Nguyên. 41. Huyện uỷ Phổ Yên (1990), Lịch sử Đảng bộ Phổ Yên 1930 - 1954, Thái Nguyên. 42. Huyện uỷ Phổ Yên (1995), Lịch sử Đảng bộ Phổ Yên 1930 - 1954, Thái Nguyên. 43. Hoàng Ngọc La (1995), Căn cứ địa Việt Bắc 1940 -1945, Nxb Chính trị Quốc gia. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 44. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục. 45. Dương Đình Lập (4/1993), “Khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai”, Tạp chí Lịch sử Quân sự. 46. Dương Đình Lập (3/1995), “Căn cứ địa Cao Bằng trong cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Lịch sử Quân sự. 47. Lê Hồng Lân (1975), Những ngày khởi nghĩa ở Hà Nội, Nxb Thanh Niên. 48. Phan Huy Lê (1983), Lịch sử Việt Nam, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. 49. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) - Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Thị Côi, Nguyễn Đình Lễ, Trương Hữu Quýnh, Trịnh Đình Tùng, Nghiêm Đình Vì (2003), Phương pháp luận sử học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 50. Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Bắc Thái (1991), Nxb Lao Động. 51. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2003), tập I (1926 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 52. Trần Huy Liệu (1957), Cao trào tiền Khởi nghĩa, Nxb Sử - Địa. 53. Trần Huy Liệu (1961), Lịch sử 80 năm chống Pháp, Tập II, Nxb Sử - Địa. 54. Nguyễn Xuân Minh (1996), An toàn khu Trung ương ở Việt Bắc (trong kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954), Luận án Tiến sĩ. 55. Năm mươi năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam (1979), Nxb Sự thật, Hà Nội. 56. Trịnh Nhu (4/1995), Báo cáo hội thảo về ATKII trong cách mạng tháng tám. Tài liệu lưu tại văn phòng Ban Tuyên giáo huyện Hiệp Hoà. 57. Trương Hữu Quýnh (1988), Lịch sử địa Phương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 58. Sở Công an nhân dân Bắc Thái (1993), Lịch sử Công an nhân dân Bắc Thái, Bắc Thái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 59. Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Nguyên (1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên 60. Sở Văn hoá Thông tin (1985), Bắc Thái 40 năm đấu tranh và xây dựng (1945 – 1985), Bắc Thái. 61. Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên (1997), Khởi nghĩa Thái Nguyên 80 năm nhìn lại, Hà Nội. 62. Sở Văn hoá Thông tin (2003), Đất và Người Thái Nguyên, Công ty in Thái Nguyên. 63. Văn Tạo (1995), Cách mạng tháng Tám, Một số vấn đề lịch sử, Nxb KHXH, Hà Nội. 64. Trịnh Thị Minh Tâm (1971), Hồi ký. Tài liệu lưu tại nhà riêng: xã Vạn Phúc, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). 65. Nguyễn Duy Tiến (2002), Quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân Thái Nguyên 1945 -1957, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 66. Nguyễn Thành (1986), “Tìm hiểu chủ trương khởi nghĩa từng phần trong nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 8”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử Quân sự số 6. 67. Nguyễn Văn Thăng (Chủ biên) (1985), Hiệp Hoà một vùng quê cách mạng, Hà Bắc. 68. Nghiêm Xuân Thạo (1982), Hoạt động của các chiến sĩ cộng sản ở trại tập trung Bá Vân thời kỳ 1941 -1944, Tài liệu lưu tại Phòng tư liệu Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. 69. Thị Uỷ Sông Công (1998), Lịch sử Đảng bộ thị xã Sông công 1985 – 1995, Thái Nguyên. 70. Đồng Khắc Thọ (Chủ biên) (2002), Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh Thái Nguyên, Thái Nguyên. 71. Tổng bộ Việt - Minh (1953), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của bà Nguyễn Thị Hoan (mẹ của đồng chí Ngô Hải Long). Tài liệu lưu tại nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 cháu nội Ngô Hải Cao, thôn Yên Trung, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. 72. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Bắc Thái (1976), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của gia đình ông Ngô Hải Long. Tài liệu lưu tại nhà con trai út Ngô Hải Cao, thôn Yên Trung, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. 73. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1976), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của gia đình ông Trịnh Văn Phương. Tài liệu lưu tại nhà con trai Trịnh Văn Đồng: xóm Xuân Miếu, phường Cải Đan, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. 74. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1999), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của gia đình ông Trịnh Quang Đông. Tài liệu lưu tại nhà riêng: xóm Xuân Miếu, phường Cải Đan, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. 75. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1999), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của gia đình ông Lưu Bá Mục. Tài liệu lưu tại nhà riêng: xóm Cầu Đông, xã Hồng Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. 76. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1999), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của gia đình ông Dương Văn Trần. Tài liệu lưu tại nhà con gái cả: bà Dương Thị Tình, xã Tân Quang, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. 77. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (1999), Hồ sơ khen thưởng Bằng có công với nước của gia đình ông Nguyễn Văn Tâm. Tài liệu lưu tại nhà riêng: xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. 78. Uỷ Ban nhân dân xã Tiên Phong (2007), Thông tin phục vụ năm du lịch Thái Nguyên năm 2007. Tài liệu lưu t¹i phßng V¨n ho¸ x· Tiªn Phong. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên từ 1939 đến 1945.pdf
Tài liệu liên quan