Kinh tế fulbright - Áp chế tài chính ở Việt Nam

Cũng như các nước đang phát triển có nền tài chính mới nổi mà đặc biệt là các quốc gia ở Châu Á, sự can thiệp của Chính phủ có tác động tích cực khi là công cụ đắc lực hỗ trợ Nhà nước thực hiện chính sách công nghiệp thông qua việc tập trung nguồn lực phát triển các ngành kinh tế chủ lực. Thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của mình, các năm qua Việt Nam đã hỗ trợ nguồn vốn ngân sách và các hình thức ưu đãi cho các ngành như dệt may2, dầu khí, đóng tàu, xi măng, công nghệ thông tin, mía đường, chương trình đánh bắt cá xa bờ, và các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển lớn mạnh của các ngành như khu công nghệ cao, các trung tâm phần mềm. Can thiệp của Chính phủ hướng đến việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. DNNN chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 1995, DNNN đóng góp 30.4% giá trị sản phẩm quốc gia. Cơ cấu này thay đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và thành phần kinh tế tư nhân. Đến cuối năm 2002 số lượng DNNN là 5,364/62,908 tổng số doanh nghiệp, doanh thu chiếm 46.3% tổng tổng cơ cấu doanh thu của doanh nghiệp, số này năm 2000 là 54.9%. Tổng mức lỗ năm 2002 trên 3,100 tỷ đồng. Số DNNN trong thời gian qua giảm khoản 3.5% trong giai đoạn 2000-2002. Về số lượng, doanh nghiệp tăng chủ yếu ở khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp nhà nước giảm do sắp xếp và cổ phần hoá chuyển sang khu vực ngoài quốc doanh. Thêm vào đó, mặc dù phần lớn các DNNN hoạt động kém hiệu quả nhưng thành phần kinh tế này vẫn tiếp tục được giao trọng trách đầu tàu cho nền kinh tế và vì vậy, tiếp tục cần được sự hỗ trợ của nhà nước giúp nền kinh tế phát triển đúng hướng

pdf19 trang | Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế fulbright - Áp chế tài chính ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o ra tác động này. Còn trần lãi suất tiền gửi thì được cho là tạo ra tác động trên một cách gián tiếp, đối với các ngân hàng có nguồn vốn rẻ thì cũng sẽ cho vay rẻ. Trần lãi suất cho cả tiền gửi lẫn đi vay có thể loại bỏ bất kỳ khả năng sai lầm nào từ phân tích trên. Tuy vậy, dòng lập luận này giả định rằng sẽ vẫn có đủ vốn từ những người tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, cho dù có trần lãi suất (trực tiếp hay gián tiếp) tiền gửi. Tuy nhiên, nếu cung tiết kiệm và cầu vốn đầu tư đều phụ thuộc vào lãi suất thực, tác động có thể tăng cầu vốn cao hơn mức cân bằng, và đẩy cung vốn xuống dưới mức cân bằng. Những quy định về tiền gửi ngân hàng Ngân hàng trung ương thường đặt ra những yêu cầu dự trữ đối với các ngân hàng thương mại. Xét về mặt lịch sử, những yêu cầu dự trữ là nhằm mang lại sự ổn định cho hệ thống ngân hàng. Phổ biến ở các nước công nghiệp hóa, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể đạt 10–15% tiền gửi ngân hàng. Tuy nhiên, ở nhiều nước đang phát triển con số này có thể lên đến 50%. Những khoản dự trữ này được đặt ở ngân hàng trung ương ở mức lãi suất thấp (hay bằng 0), hoặc được đầu tư vào trái phiếu chính phủ có lãi theo mệnh giá thấp. Do đó chính phủ sử dụng hệ thống ngân hàng như là một nguồn tài trợ, và trở thành người vay mượn chính, ưu tiên trước những đối tượng vay mượn khác. Quy định dự trữ bắt buộc gây ra hai tác động đối với hệ thống ngân hàng. Thứ nhất, một lượng vốn sẵn có đáng kể được chuyển khỏi những người đi vay tiềm năng. Thứ hai, cơ cấu lãi suất của ngân hàng sẽ bị bóp méo. Nếu các ngân hàng vì lợi nhuận thì họ phải duy trì một khoản chênh lệch lớn giữa lãi suất đi vay và cho vay nhằm bù đắp phần thu nhập thấp mà họ nhận được từ lượng dự trữ. Họ làm điều này bằng cách ép lãi suất tiền gửi xuống, hoặc nâng lãi suất cho vay (hoặc cả hai), so với trường hợp lãi suất cân bằng nếu không có dự trữ. Hướng đầu tư Nhiều chính phủ chỉ đạo các tổ chức tài chính dành một tỉ lệ nhất định các khoản vay cho một ngành cụ thể, thường là nông nghiệp, với lãi suất thấp. Một cách làm thay thế là chính phủ sẽ hình thành những cơ quan chuyên cho vay, với nguồn vốn là từ thuế hay các khoản vay rẻ của chính phủ, để cho một ngành cụ thể nào đó vay. Một lần nữa, nông nghiệp thường là đối tượng hưởng lợi. Các chính sách như vậy có thể cản trở các dòng vốn sẵn có cho khu vực công nghiệp, và đồng thời nâng chi phí của số vốn hiện có. 4. Các tác động của áp chế tài chính. Theo McKinnon và Shaw (1973) áp chế tài chính đã gây ra các tác động tai hại như sau: - Các kiểm soát lãi suất ngặt nghèo, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cao tương tác với lạm phát và thường làm cho lãi suất tiền gửi ở vào mức âm, từ đó cản trở phát triển hệ thống tài chính theo chiều sâu. - Lãi suất thấp không làm tăng được vốn đầu tư như dự kiến vì khả năng huy động tiết kiệm bị hạn chế. - Đầu tư của cả hộ gia đình và doanh nghiệp được tập trung nhiều vào các tài sản có giá trị không bị tác động bởi lạm phát (ví dụ: vàng hay bất động sản). - Do vốn vay trong hệ thống tài chính chính thức bị giảm, các nhà đầu tư phải dựa nhiều hơn vào vốn tự có. - Việc dựa vào vốn tự có làm cho tài sản nợ của các doanh nghiệp có tính thanh khoản rất thấp. - Hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm bị hạn chế khi tiền tệ bất ổn định và tài sản tài chính không có tính thanh khoản. - Hoạt động phân bổ tín dụng theo chỉ định đi kèm với những ưu đãi khác nhau về lãi suất tạo ra những khác biệt lớn về lãi suất giữa đối tượng được ưu tiên và không được ưu tiên. Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 5 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 Cũng trong công trình nghiên cứu của mình, McKinnon và Shaw đã phát triển các mô hình về phát triển kinh tế trong đó giải thích tự do hóa tài chính thúc đẩy tăng trưởng. Lập luận ủng hộ tự do hóa tài chính cho rằng khi trần lãi suất được xóa bỏ, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc được giảm xuống và vấn đề chia cắt thị trường tài chính được giảm nhẹ thì tiết kiệm gia tăng, hiệu quả phân bổ vốn đầu tư của các tổ chức và thị trường tài chính cũng được cải thiện. PHẦN II: TÌNH TRẠNG ÁP CHẾ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM I. Quá trình phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam: Trước năm 1945 Việt Nam có hệ thống Ngân hàng Đông Dương do Pháp Quản lý. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương và vừa là ngân hàng thương mại. 1. Giai đoạn năm 1945 – 1951: Sau cách mạng tháng tám năm 1945 trên cơ sở hiện có của hệ thống ngân hàng Đông Dương; chính phủ Việt Nam tiếp cận và từng bước xây dựng thị trường tiền tệ qua phát triển hệ thống ngân hàng. Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam.Hệ thống Ngân hàng thể hiện sự tự chủ của một nhà nước mới ra đời. Nhiệm vụ Chính của hệ thống Ngân hàng giai đoạn này là: Thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ. 2. Thời kỳ 1951 - 1954: Giai đoạn này Ngân hàng quốc gia Việt Nam hoạt động độc lập trong hệ thống tài chính: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc cũ; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách; Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá. 3. Thời kỳ 1955 - 1975: Ngày 21/1/1960, Nhà nước đổi tên Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thành tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Kể từ ngày thành lập đến năm 1975, Hệ thống ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ yếu phục vụ cho cuộc chiến tranh phần và phục vụ cho ngành kinh tế tập trung của nhà nước. Năm 1975 ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân của miền nam lúc bấy giờ mở đầu cho quá trình thống nhất hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi nhánh ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước. 4. Thời kỳ 1975 - 1985: Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 6 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 Xây dựng hệ thống ngân hàng mới, tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước, Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền Nam quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay. 5. Thời kỳ 1986 đến nay: Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Tháng 5/1990 chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi: Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2. Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính...Thời kỳ này các ngân hàng thương mại nhà nước được cấp phép hoạt động: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Các mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam: − Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) − Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. − Năm 1997: Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. . − Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). − Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP. − Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 7 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 − Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật NHNNVN. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ - CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 và Nghị định 52/NĐ-CP ngày 19/5/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây: 1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. 2. Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn năm năm và hàng năm về tiền tệ và hoạt động ngân hàng 3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước 4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của ngành; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về hoạt động ngân hàng 5. Về tiền tệ và hoạt động ngân hàng: a. Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; Trình Chính phủ đề án phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng; b. Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia, tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; c. Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền d. Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ đ. Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế e. Quản lý ngoại hối, hoạt động ngoại hối. f. Ký kết tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. g. Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ uỷ quyền; h. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng, 6. Thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương: a. Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền; b. Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế; Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 8 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 c. Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở; d. Kiểm soát dự trữ quốc tế, quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước; đ. Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán; e. Làm đại lý và các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc nhà nước f. Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin ngân hàng. 7. Thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng theo quy định của Pháp luật 8. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật 9. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật, quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Ngân hàng Nhà nước 10.Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của Pháp luật 11.Quản lý nhà nước đối với các hoạt động của Hội và tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp luật 12. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Ngân hàng Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 13. Quản lý về tổ chức, bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước 14. Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của Pháp luật 15. Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. II. Chính sách lãi suất: 1. Chính sách tín dụng tư do năm 1988 - 1990: Chính phủ tách bạch hoạt động quản lý và kinh doanh; Ngân hàng có chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, các Ngân hàng chuyên doanh gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Bốn ngân hàng này hoạt động dưới hình thứ ngân hàng chuyên doanh trong lĩnh vực của mình cho đến năm 1990; Nhiệm vụ chính của các ngân hàng này là cho vay trong các lĩnh vực mình quản lý như: Nông nghiệp, cho vay XDCB và mục tiêu chính vẫn là phục vụ cho các doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ này; lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng TMQD đều do Ngân hàng Nhà nước quy định. Cũng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại duy Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 9 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 trì các mức lãi suất cho vay khác nhau đối với các ngành nghề khác nhau, thay vì mức lãi suất cho vay phải phản ánh mức độ phản ánh mức độ rủi ro tương xứng. Năm 1988 đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng quyết định cho phép tất cả các tổ chức kinh tế, bao gồm cả các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh được vay tiền và huy động vốn từ công chúng. 2. Chính sách trần lãi suất trong giai đoạn 1994-1999: Hệ thống Ngân hàng thương mại nhà nước kinh doanh có hiệu quả nhờ chính sách lãi suất cho vay đã được nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động thông thường của các ngân hàng. Năm 1993, xoá bỏ việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế, phân biệt mức lãi suất theo hình thức sử dụng vốn: cho vay đầu tư cố định; cho vay vốn lưu động. Tuy vậy, lãi suất cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn lãi suất cho vay vốn lưu động, tạo ra một cơ cấu lãi suất ngược không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không hề có động cơ khuyến khích cho vay dài hạn. Từ năm 1994, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng trần tín dụng áp dụng cho từng ngân hàng để duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng tổng cung tiền và tín dụng. Các mức trần ban đầu được áp dụng cho các ngân hàng TMQD, nhưng sau đó được mở rộng ra cho những ngân hàng khác. Các tiêu chí để xác định trần tín dụng cho mỗi ngân hàng không được công bố. Vào năm 1996, Chính phủ ban hành quyết định cho phép các ngân hàng được mua bán trần tín dụng của mình; tuy nhiên, cho đến năm 1998 không có giao dịch nào được thực hiện. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được tự do định mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng cường cạnh tranh trong huy động vốn. Tuy nhiên, mức chệnh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35%/tháng. Như vậy, về một khía cạnh nào đó, các ngân hàng vẫn phải chịu cả trần lãi suất 3. Chính sách lãi suất giai đoạn 2000 - 2002: Tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Năm 2002; Chính phủ có chính sách tự do hoá lãi suất tiền gởi và tiền cho vay đối với các tổ chức tín dụng: Khách hàng và các tổ chức tín dụng tự thoả thuận lãi suất theo cơ chế thị trường. Lãi suất được xem là giá cả hàng hoá tiền tệ trên thị trường. III. Tín dụng chỉ định: 1) Sự cần thiết phải có sự can thiệp của Chính phủ: Sự can thiệp của Chính phủ trong phân bổ nguồn vốn là công cụ áp chế tài chính được Chính Phủ Việt Nam sử dụng nhiều nhất và có tác động điều tiết lớn nhất hệ thống tài chính Việt Nam giai đoạn từ 1990 đến nay. Can thiệp của Chính phủ Việt Nam trong phân bổ Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 10 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 nguồn vốn hướng đến phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, ngành có lợi thế so sánh tương đối và bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ. Cũng như các nước đang phát triển có nền tài chính mới nổi mà đặc biệt là các quốc gia ở Châu Á, sự can thiệp của Chính phủ có tác động tích cực khi là công cụ đắc lực hỗ trợ Nhà nước thực hiện chính sách công nghiệp thông qua việc tập trung nguồn lực phát triển các ngành kinh tế chủ lực. Thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của mình, các năm qua Việt Nam đã hỗ trợ nguồn vốn ngân sách và các hình thức ưu đãi cho các ngành như dệt may2, dầu khí, đóng tàu, xi măng, công nghệ thông tin, mía đường, chương trình đánh bắt cá xa bờ, và các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển lớn mạnh của các ngành như khu công nghệ cao, các trung tâm phần mềm. Can thiệp của Chính phủ hướng đến việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. DNNN chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 1995, DNNN đóng góp 30.4% giá trị sản phẩm quốc gia. Cơ cấu này thay đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và thành phần kinh tế tư nhân. Đến cuối năm 2002 số lượng DNNN là 5,364/62,908 tổng số doanh nghiệp, doanh thu chiếm 46.3% tổng tổng cơ cấu doanh thu của doanh nghiệp, số này năm 2000 là 54.9%. Tổng mức lỗ năm 2002 trên 3,100 tỷ đồng. Số DNNN trong thời gian qua giảm khoản 3.5% trong giai đoạn 2000-2002. Về số lượng, doanh nghiệp tăng chủ yếu ở khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp nhà nước giảm do sắp xếp và cổ phần hoá chuyển sang khu vực ngoài quốc doanh. Thêm vào đó, mặc dù phần lớn các DNNN hoạt động kém hiệu quả nhưng thành phần kinh tế này vẫn tiếp tục được giao trọng trách đầu tàu cho nền kinh tế và vì vậy, tiếp tục cần được sự hỗ trợ của nhà nước giúp nền kinh tế phát triển đúng hướng. Nhìn chung, hai mục tiêu này đôi khi đan xen nhau về vai trò khi mà DNNN vừa là đơn vị trực tiếp thực hiện chính sách công nghiệp vừa là đối tượng cần được bảo hộ, phát triển để nền kinh tế phát triển đúng như định hướng. Hầu hết các nước Châu Á đều sử dụng công cụ áp chế tài chính này. Hàn Quốc, Đài Loan là hai nước tiêu biểu thành công khi tài trợ lớn cho các tập đoàn, đại công ty phát triển định hướng xuất khẩu. Trường hợp của Hàn Quốc, từ năm 1972 đến 1980, trung bình 47,7% vốn tín dụng trong nước đã được chính phủ chỉ định cho vay với lãi suất thấp hơn khoảng 5% so với lãi suất thị trường. Do nhận được quá nhiều ưu đãi, các chaebol đã phát triển cực nhanh. Nếu vào năm 1976, mười (10) chaebol lớn nhất chỉ chiếm 19,8% GNP thì đến năm 1984, tỷ trọng này đã lên tới 67,4%. Từ đó, sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc đã có lúc phụ thuộc rất nhiều vào các tập đoàn này3. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng rõ ràng chính sách này đã giúp hai quốc gia này đạt được kỳ tích phát triển thần kỳ trong thập niên 1990s. 2) Các hình thức can thiệp: Các hình thức can thiệp chính của Chính phủ trong giai đoạn này bao gồm (1) Tín dụng chỉ định, (2) Ưu đãi lãi suất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và (3) Bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn trong và ngoài nước4. Bên cạnh, tính đến 2004 dư nợ của DNNN chiếm trên 75% tổng dư nợ của 4 NHTM quốc doanh5 cùng với chính sách cho vay ưu đãi của các NHTM quốc 2 Nghị định 55/QĐ-CP ban hành ngày 23/04/2001 Phê duyệt Chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 3 Theo bài viết “Tập đoàn kinh tế Việt Nam trở ngại thực tiễn và gợi ý chính sách” của Tiến sỹ Nguyễn Trọng Hoài và Thạc sỹ Nguyễn Tất Thắng. 4 Nội dung các hình thức can thiệp được trích từ Nghị định 43/1999/NÐ-CP của Thủ tướng Chính Phủ ban hành ngày 29/06/1999 về Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 5 Theo Niên giám thống kê Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 11 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 doanh đối với các DNNN có thể xem các khoản cho vay này gần như là hình thức tín dụng chỉ định. 2.1. Tín dụng chỉ định hay cho vay theo kế hoạch6. Hình thức này phổ biến những năm trước 1990. Trong giai đoạn này, DNNN chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp này phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn ngân sách cấp hàng năm. Sau 1990, việc cấp vốn hạn chế hơn thay vào đó Chính phủ tập trung vốn vào một số ngành, lĩnh vực cụ thể và chủ yếu cho các DNNN. Các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất thì lập dự án đầu tư và xin vốn ngân sách. Sau khi được Chính phủ, cơ quan quản lý phê duyệt (tùy theo cấp quản lý), Ngân hàng thương mại chỉ định trước đây là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sau đó chuyển sang Quỹ Hỗ trợ và Phát triển (sẽ được trình bày chi tiết ở mục 3 phần này) sẽ tiến hành thẩm định và giải ngân. Do là nguồn vốn vay và trả nợ là nguồn vốn ngân sách nên Ngân hàng cho vay thường không thẩm định và tái thẩm định cẩn thận các dự án vay cũng như doanh nghiệp vay vốn. Công việc chính của Ngân hàng cho vay chỉ dừng ở bước quản lý số dư nợ vay và tiến trình thực hiện của dự án. Do đặc điểm này mà các Ngân hàng cho vay cũng không có động lực giám sát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như thúc ép doanh nghiệp trả nợ. Từ 1991 đến 2000 Nhà nước đã đầu tư thêm cho các doanh nghiệp Nhà nước 41.500 tỷ đồng và cho các doanh nghiệp Nhà nước vay tín dụng ưu đãi 70.000 tỷ đồng. Đồng thời, Chính phủ cũng thực hiện nhiều biện pháp cụ thể để xử lý nợ tồn đọng như khoanh nợ, xoá nợ, chuyển vốn vay thành vốn cấp v.v... 7. Theo báo cáo thường niên của 4 NHTMNN tổng dư nợ cho vay các DNNN cuối năm 2002 khoảng 109.000 tỷ đồng cộng với một phần đáng kể trong khoảng 80.000 tỷ đồng dư nợ của Quỹ hỗ trợ phát triển (khoảng 40.000 tỷ là nguồn vốn trong nước, 40.000 là nguồn vốn ODA8. Như vậy hoạt động nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là các khoản tín dụng mềm (Tổng khoản phải trả cuối năm 2003 của các DNNN là 207.788 tỷ đồng 9). Các khoản tín dụng mềm chưa kể phần vay nợ nước ngoài được nhà nước bảo lãnh của các doanh nghiệp. 2.2. Ưu đãi lãi suất: Cùng với tín dụng chỉ định, Chính Phủ còn can thiệp vào thị trường tài chính dưới hình thức ưu đãi lãi suất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Ưu đãi lãi suất được đi kèm với tín dụng chỉ định. Trước năm 1999, các khoản vay kế hoạch được vay với lãi suất cố định 5,4%/năm so với lãi suất cho vay thương mại trung bình cùng thời điểm trên thị trường khoảng 0,7%/tháng, chênh lệch tương đương khoảng 3%/năm. Năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999, lãi suất ưu đãi tăng lên 9%/năm và được giữ cố định đến khi có quyết định điều chỉnh lãi suất của Thủ tướng Chính Phủ. Theo quy định hiện hành, lãi suất của các khoản vay theo KHNN hiện nay chỉ bằng 70% lãi suất cho vay thương mại thông thường (trước đây có thời gian còn thấp hơn). Với mức lãi suất cho vay thương mại dao động từ 10%-12%/năm. Như vậy, với số dư nợ cuối năm 2004 của Quỹ hỗ trợ phát triển vào khoảng 80.000 tỷ đồng10 và khoảng 20.000 tỷ đồng tại các NHTMNN, hàng năm khoản trợ cấp này vào khoảng 2.000-3000 tỷ đồng, tương đương với 2% tổng thu ngân sách hàng năm (thu ngân sách năm 2003 khoảng 149.000 tỷ đồng, năm 2004 khoảng 167.000 tỷ đồng)11. Ước tính trong vòng 10 năm qua, phần phần ưu đãi từ cho vay lãi suất thấp có thể dao động từ 10.000 - 15.000 tỷ đồng. 6 Theo Nghị định 43/1999/NĐ-CP vay kế hoạch được định nghĩa là “tín dụng đầu tư phát triển” 7 8 Tuy không có số liệu chính thức, nhưng theo ước đoán của người viết thì phần lớn khoản tín dụng này tập trung vào các DNNN. 9 Báo cáo của thứ trưởng Bộ tài chính Lê Thị Băng Tâm tại Hội nghị sắp xếp đổi mới DNNN toàn quốc ngày 15-16/03/2004 10 Quỹ Hỗ trợ Phát triển cần huy động 35.000 tỷ đồng -Vietnamnet - 21/10/2004 11 Nguồn: Bộ Tài chính Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 12 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 2.3. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Một số dự án không đủ điều kiện ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển12 nhưng thuộc các ngành hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước thì được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Mức lãi suất cấp bù bằng 50% lãi suất các khoản vay đã trả cho các Ngân hàng thương mại. Phần hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trong giai đoạn 2000-2004 là 750 tỷ đồng13. Ước tính trong vòng một thập kỷ qua phần hỗ trợ lãi suất sau đầu tư có thể đến 1.000 tỷ đồng. 2.4. Bảo lãnh vay vốn: Đây là hình thức Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn các nguồn vốn ODA hoặc thông qua Quỹ HT&PT vay vốn tại các NHTM quốc doanh. Dưới vai trò là người bảo lãnh, Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm hoàn trả đầy đủ nợ gốc và lãi vay trong trường hợp doanh nghiệp vay không có hoặc mất khả năng trả nợ. Do đó, khi thực hiện cho vay các khoản vay này các NHTM cũng thực hiện khá sơ sài quy định xét duyệt cho vay của mình. Ưu đãi ngầm trong cho vay các DNNN như là một hình thức tín dụng chỉ định. Tín dụng chỉ định được hạn chế rất nhiều từ sau năm 1990 và được chuyển sang Định chế tài chính chuyên doanh là Quỹ HT&PT quản lý. Tuy nhiên, trong quá trình xét duyệt cho vay các NHTM vẫn dành một số ưu đãi cho DNNN. Ưu đãi lớn nhất theo nhận định của chúng tôi là “uy tín” của DNNN cao hơn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tiếp theo đó, và có thể xem là hệ quả của “thương hiệu nhà nước” của các doanh nghiệp quốc doanh các điều kiện về tài sản bảo đảm, thời gian vay vốn và ân hạn thời gian trả nợ gốc được các NHTM xem xét dễ dàng hơn khi quyết định tài trợ so với một doanh ghiệp ngoài quốc doanh có cùng một khoản vay có tính chất và quy mô tương tự. Tuy vậy, phải nhận định rõ ràng rằng những ưu đãi ngầm này có nguồn gốc từ thái độ lo ngại rủi ro của các NHTM khi cho các DNNN vay thì nguồn trả nợ vẫn bảo đảm hơn. Có thể nói thương hiệu nhà nước có được không hẳn do DNNN làm ăn hiệu quả m2 thực sự các khỏan vay được chính phủ bảo lãnh ngầm rủi ro. 3) Mối quan hệ tam giác giữa Chính phủ - Ngân hàng Thương mại và DNNN: Công cụ áp chế tài chính này được hỗ trợ bằng sự hình thành của mối quan hệ tam giác giữa (1) Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định ngành kinh tế trọng điểm cần phát triển (2) DNNN giữ vai trò là người thực hiện các chiến lược cụ thể của Nhà nước và (3) Tổ chức tài chính chuyên doanh để tài trợ dưới dạng các chương trình cho vay bắt buộc, tín dụng chỉ định. 4) Kết quả sự can thiệp của Chính phủ đối với nền kinh tế: Sự can thiệp của Chính phủ góp phần mang lại những thành quả nhất định giúp mở rộng và phát triển các ngành kinh tế chủ lực. Uy tín và đóng góp của ngành dệt may, da giày Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu là những thành tựu tiêu biểu. Tuy nhiên, nhìn chung, các biện pháp can thiệp của Chính phủ không mang lại kết quả như mong đợi. Các ngành, lĩnh vực, chương trình sử dụng nguồn vốn ưu đãi không phát triển tương xứng với quy mô đầu tư. Do sử dụng nguốn vốn ưu đãi với chi phí thấp đã tạo nên tâm lý ỷ lại cho hầu hết các doanh nghiệp. Tình trạng đầu tư tràn lan trở nên phổ biến, phần lớn các dự án 12 Đối tượng vay ưu đãi là (1) Dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, (2) dự án nuôi trồng thuỷ hải sản, chăn nuôi bò sữa, (3) dự án thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao, (4) dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay lại, (5) Một số chương trình, dự án đầu tư khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 13 Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 13 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 hoạt động không hiệu quả; nợ xấu, nợ tồn đọng lớn tạo gánh nặng cho các Ngân hàng thương mại. Hộp 1 dưới đây tổng hợp tình hình đầu tư của một số dự án, chương trình vay vốn từ nguồn vốn kế hoạch. Hộp 1 Mặc dù Chính phủ đã khoanh nợ, giãn nợ cho nhiều dự án, nhưng thực chất là kéo dài thời hạn ân hạn của dự án thành 10 -15 năm. Điều này có nghĩa là trong thời gian ân hạn, chủ đầu tư được vay vốn với lãi suất bằng 0%. Theo tính toán của Quỹ HTPT thì việc thu nợ đối với dự án sau khi hết thời hạn khoanh nợ vẫn tiếp tục khó khăn, bởi khả năng thu hồi vốn rất thấp14. 1. Chương trình mía đường Theo phân tích của Bộ Tài chính, các doanh nghiệp thuộc nhóm 115 tuy có điều kiện phát triển nhưng trước mắt vẫn lỗ, Nhà nước phải hỗ trợ thông qua xử lý xóa khoản thuế giá trị gia tăng (VAT) phải nộp phát sinh từ 2001-2003, ước khoảng 260 tỷ đồng. Với nhóm 2, để thực hiện các giải pháp hỗ trợ, trong giai đoạn 2003-2005 nhà nước phải chi ra khoảng 1.100 tỷ đồng (chưa bao gồm số khoanh nợ và xoá nợ ngân sách nhà nước từ thuế VAT). Các giải pháp hỗ trợ phải áp dụng là: xoá khoản thuế VAT phát sinh từ năm 2001-2003, điều chỉnh lãi suất cho vay nội tệ là 3%/năm (gồm cả khoản nhận nợ bắt buộc phát sinh sau ngày 1/1/2003), chuyển vốn vay ngoại tệ thành nội tệ, khoanh nợ lãi suất tiền vay, phí bảo lãnh, cấp bù lệch lãi suất và tỷ giá phát sinh đến 31/12/2002 nhưng chưa được xử lý cấp bổ sung vốn lưu động. Với nhóm 3 Bộ Tài chính cho biết nếu muốn cứu, ngay lúc này Nhà nước phải chi ngay khoảng 5.000 tỷ, trong đó 3.277 tỷ để trả nợ và 1.689 tỷ để bù lỗ kinh doanh. Các năm tiếp theo đến năm 2005 phải tiếp tục bổ sung nguồn chi phí hỗ trợ thêm thì các doanh nghiệp này mới có thể phát triển ngang với các doanh nghiệp nhóm 2. Theo số liệu của Bộ NN & PTNT, tính đến hết năm 2002 tình hình tài chính của các nhà máy đường như sau: Lỗ 2.753 tỷ đồng, trong đó nhà máy đường vốn trong nước lỗ 2.048 tỷ, nhà máy đường có vốn nước ngoài lỗ 704 tỷ. Tình hình nợ như sau: đến hết năm 2005 dư nợ của chương trình là 5.008 tỷ, trong đó nợ gốc là 4.139 tỷ, lãi và tính phí bảo lãnh là 869 tỷ. Trong tổng dư nợ thì nợ vay trong nước là 4.008 tỷ, vay nước ngoài là 1000 tỷ. Nợ quá hạn là 700 tỷ. Trong hai năm 2002, 2003 các nhà máy không trả được nợ vay nước ngoài do Ngân hàng NN & PTNT bảo lãnh nên Ngân hàng này đã phải trả nợ 485 tỷ đồng. Tương tự cũng chưa có doanh nghiệp nào trả được nợ vay nước ngoài của ADB16. 2. Chương trình xi măng Theo số liệu của Viện Vật liệu xây dựng, hiện (17/08/2005) cả nước đã có gần 100 nhà máy xi măng và trạm nghiền xi măng, nhưng chỉ có 13 nhà máy xi măng lò quay, còn lại là các nhà máy xi măng lò đứng và các trạm nghiền. Do đầu tư "nóng vội" nên trong thời 14 Thông tin từ bài viết “Nhiều dự án xi măng, sắt thép: Đầu tư lớn nhưng không trả được nợ “ được lấy về từ 15 Theo phân loại trong Quyết định 28/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ, các nhà máy đường được chia làm 3 nhóm chính. Nhóm 1: Các Nhà máy đang hoạt động có hiệu quả cần tiếp tục duy trì hiện trạng và có chính sách hỗ trợ để phát triển tốt hơn; Nhóm 2: Các Nhà máy phải tiến hành sắp xếp lại, thực hiện cổ phần hoá (nhà nước không nhất thiết phải giữ cổ phần) hoặc thí điểm : bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp; Nhóm 3: Các Nhà máy phải di chuyển đến địa điểm mới hoặc dừng sản xuất. 16 Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 14 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 gian qua, quy mô đầu tư tương đối đa dạng, dây chuyền thiết bị có cả công suất thiết kế từ dưới 1.000 đến 3.000 tấn Clinke/ngày trở lên17. Đại diện Tổng công ty Xi măng cho biết, hiện các dự án xi măng như Hoàng Mai, Hải Vân (Đà Nẵng), xi măng Tam Điệp, xi măng Kiềm Định (Thanh Hoá) được chuyển về Tổng công ty Xi măng nhưng đang rơi vào tình trạng nợ và lỗ lớn. Do đầu tư không tính tới yếu tố thị trường các nhà máy này đang rơi vào tình trạng nợ và lỗ chồng chất.Điển hình là dự án xi măng Hoàng Mai. Mặc dù, mới chính thức đi vào hoạt động từ 1/7/2002 nhưng dự án nhà máy xi măng Hoàng Mai đã lỗ 423 tỷ đồng. Chỉ tính riêng việc trượt giá đồng USD và EUR khiến dự án này đã cõng trên lưng một khoản nợ khổng lồ: 399 tỷ đồng (trong khâu mua thiết bị của dự án). Hiện tại, dự án xi măng Hoàng Mai nợ 2.667 tỷ đồng, nợ đến hạn phải trả 397 tỷ và lãi phải trả cho các khoản vay đầu tư 158 tỷ. Riêng khoản vay các ngân hàng nước ngoài đã trả được 5 kỳ, nhưng trên thực chất dự án mới chỉ trả được 800 tỷ/khoản vay 1.500 tỷ đồng18. 3. Chương trình cà phê Từ cuối năm 1999 đến hết năm 2002, giá cà phê trong và ngoài nước liên tục giảm làm các đơn vị sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê của Tổng Công ty thua lỗ lớn. Không có khả năng thanh toán nhanh hầu hết các đơn vị đều phải dùng tiền vay ngân hàng để bù đắp các khoản chi phí cho sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối nghiêm trọng về tài chính ở đa số các đơn vị thành viên. Theo tính toán của tổng công ty, có đơn vị thành viên lỗ trên 10 tỷ đồng. Qua từng năm kinh doanh thua lỗ đến nay số lỗ luỹ kế của toàn tổng công ty đến 31/12/2003 lên tới gần 600 tỷ đồng. Theo dự báo của tổng công ty Cà phê VN tình hình đặc biệt khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp cà phê sẽ còn kéo dài thêm nhiều năm tới. Điều này đồng nghĩa với việc không thể trả nợ vay Ngân hàng đối với các khoản nợ theo Quyết định 1127/ QĐ-TTg ngày 27/8/2001. Tổng Công ty Cà phê VN đã trình chính phủ xin “tiếp tục được khoanh nợ thêm 3 năm nữa đối với các khoản nợ đã được khoanh theo Quyết định 1127/QĐ-TTg, số tiền là 760 tỷ đồng”19. Thực tế, Ngân hàng Nhà nước vừa thống nhất kéo dài thời gian khoanh nợ cho các DN thuộc Tổng công ty cà phê VN với số dư nợ trên 748 tỷ đồng, thời gian khoanh nợ kéo dài không quá 2 năm kể từ ngày 31/7/2004. Ngoài Tổng công ty cà phê Việt Nam, một số doanh nghiệp khác như Công ty Cà phê Phước An... cũng rơi vào tình trạng tương tự. 4. Chương trình thép Theo ông Ngô Trọng Khôi - Phó Tổng Giám đốc tổng công ty Thép VN cho biết, các dự án về thép được vay từ nguồn vốn tín dụng nhà nước, hầu hết đến nay đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên có nhiều dự án đến nay vẫn chưa trả được nợ, nguyên nhân chính là do trong quá trình thi công đã phát sinh rất lớn so với thiết kế ban đầu. Dự án cải tạo khu gang thép Thái Nguyên là một ví dụ. Dự án này gồm 3 tiểu dự án với tổng số vốn được đầu tư 400 tỷ đồng và trong quá trình thi công đã phát sinh thêm 42 tỷ, so với thiết kế ban đầu đã được duyệt. Mặc dù dự án đã đi vào hoạt động, song cho đến nay vẫn chưa có khả 17 18 19 20 21 22 & 23 Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 15 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 năng trả được nợ vay20. 5. Đầu tư xấy dựng cơ bản tràn lan dẫn đến nợ đọng xây dựng cơ bản Cùng với việc sử dụng nguồn tín dụng đầu tư phát triển đang "nặng nợ" với 1.500 dự án, 1.185 tỷ đồng quá hạn, 950 tỷ lãi treo, thì mới đây, theo báo cáo (chưa qua rà soát) của các tỉnh, thành phố trong cả nước, tổng số nợ xây dựng cơ bản của các nơi này đã lên tới trên 13.000 tỷ đồng21. Vì những vấn đề trong xây dựng cơ bản (đấu thầu, nợ đọng, cơ chế quản lý) mà nhiều đơn vị xây dựng đã rơi vào tình trạng khó khăn. Cách đây hai năm, chính phủ đã chỉ đạo các ngân hàng thực hiện việc xử lý nợ cho Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 5 với những khoản thua lỗ tới 400 tỷ đồng, khoản nợ đọng trên 2.000 tỷ đồng22. Hiện nay đang tới Tổng công ty Xây dựng Thăng Long và các doanh nghiệp khác. Đến cuối năm 2004, cơ quan chức năng xác định chỉ có TCT Tư vấn thiết kế GTVT là kinh doanh ổn định, còn lại 11 TCT XDCTGT thuộc Bộ GTVT lỗ lớn, nhiều DN đã mất hết vốn nhà nước, trong đó một TCT có số nợ gần 2.000 tỉ đồng23 Ngoài ra còn một số chương trình khác chưa có số liệu chính thức hoặc chưa tổng kết như: Chương trình phát triển nhà tại đồng bằng sông Cửu Long; Chương trình phát triển các khu công nghiệp.... Các DNNN tiếp tục hoạt động không hiệu quả: Tính đến cuối năm 2003, cả nước còn khoảng 4.800 doanh nghiệp nhà nước với mức tăng trưởng trong 3 năm qua chỉ đạt bình quân 10%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn là 10.8%.Số doanh nghiệp hoạt động có lãi chiếm 77% nhưng chỉ có 40% trong số doanh nghiệp này có mức lãi suất đạt được cao hơn lãi suất huy động vốn của Ngân hàng. Nếu loại trừ các công ty bưu chính viễn thông, điện, khai khoáng, tài chính Ngân hàng thì số doanh nghiệp có NPV< 0 là chiếm đa số. Trường hợp của Vinashin: Tháng 11/2005 Bộ Tài chính đã chuyển giao số tiền phát hành cổ phiếu quốc tế của Chính phủ Việt Nam cho Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) số tiền 750 triệu đôla. Về hiệu quả sử dụng đối với số vốn này theo nhiều ý kiến nhận định là sẽ không hiệu quả: Theo tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh và Huỳnh Thế Du: Việt Nam không có lợi thế so sánh trong ngành công nghiệp đóng tàu đang ngày càng đòi hỏi kỹ thuật cao và trở nên thâm dụng vốn và ước lượng lợi nhuận thu được từ đóng tàu chỉ khoảng dưới 2-3%; ngành này không phải là ngành Việt Nam có lợi thế so sánh, thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ; không thể tiếp tục trợ cấp “lộ liễu” cho các DNNN khi gia nhập WTO; mục tiêu phát triển ngành đóng tàu chiếm 7-8% thị phần đóng tàu thế giới là rất khó thực hiện và lo ngại về hiệu quả đầu tư của Chính phủ cho VinaShin. Cùng với nhận định trên, giám đốc Mekong Capital Chris Fund góp ý: "Điều quan trọng là Việt Nam không vay từ nước ngoài quá nhiều. Tỷ lệ phần trăm nợ nước ngoài trên GDP của Việt Nam thường ở mức khá thấp trong quá khứ, và như vậy là rất tốt". Theo chuyên gia này, nếu Việt Nam bắt đầu vay quá nhiều, điều đó có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP ngắn hạn nhưng về lâu dài điều này sẽ đưa đến tính mất ổn định. Tỷ lệ vay nước ngoài thấp đã giúp cho Việt Nam không bị ảnh hưởng xấu bởi khủng hoảng tài chính châu Á trong năm 1997 - 1999 trong khi các nước như Thái Lan và Indonesia bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ông cho rằng vốn được tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước là cách phân phối không hiệu quả, không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới. Các scandal gần đây liên quan đến PetroVietnam và Tổng công ty Điện lực VN đã chứng tỏ rằng các doanh nghiệp nhà nước có nhiều vấn đề kém hiệu quả. Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 16 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 Ông nói: "Nhà nước nên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thật tốt cho doanh nghiệp, và một hệ thống giáo dục thật tốt. Cơ sở hạ tầng và hệ thống giáo dục được cải thiện sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế, chủ yếu được thúc đẩy bởi khu vực tư nhân và một phần bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài".” 24 5) Nhận xét & đánh giá: Bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ, sự can thiệp của Chính phủ trong phân bổ nguồn vốn tạo cho các DNNN tâm lý ỷ lại lớn vào Nhà nước dẫn đến tình trạng trì trệ và kém hiệu quả của phần lớn các doanh nghiệp. Các ngành kinh tế chủ lực không phát triển như mong đợi, thậm chí còn cản trở sự phát triển do việc quá ưu đãi vào các DNNN vô tình hạn chế sự lớn mạnh của các thành phần kinh tế khác. Bên cạnh, tổn thất phải kể đến là sự không tận dụng những lợi thế về nguồn tài nguyên, sự chuyển giao trọn gói về công nghệ, kỹ năng quản lý của các khoản đầu tư từ nguồn vốn FDI. Những nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả. Quản lý kém hiệu quả: Quy chế cấp phát vốn tạo cơ hội cho tham nhũng, quan liêu trong nội bộ NHTM, DNNN trong thực hiện chính sách phát triển của Chính phủ. Vấn đề đẩy giá thiết bị, các hạng mục đầu tư, đầu tư tràn lan để rút vốn ngân sách là những trường hợp phổ biến trong nhiều năm qua. Đối với các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế các hộ gia đình như các chương trình đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thủy hải sản, các đối tượng cần được vay vốn thì khó tiếp cận với nguồn vốn vay trong khi những đối tượng không thật sự cần thiết thông qua cán bộ Ngân hàng có thể vay dễ dàng và sử dụng cho các mục đích khác. Sự quản lý yếu kém của chương trình dẫn đến sự mất lòng tin của người dân và không hiệu quả các chính sách của Chính phủ. Thiếu cương quyết trong xử lý nợ xấu của Chính phủ tạo tâm lý ỷ lại của các DNNN. ĐỀ NGHỊ NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ, NGÂN HÀNG KHOANH NỢ, XOÁ NỢ Ông Thân Đức Nam - Tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5:"Tôi cho rằng giải pháp hiện nay là Nhà nước cần khoanh nợ hoặc xóa nợ cho các TCT để làm lại từ đầu, vì nếu thực hiện giãn nợ, các DN vẫn tiếp tục thua lỗ do trong thực tế khi đấu thầu giá thấp thì chỉ có các chủ đầu tư được hưởng lợi25" Ông Đỗ Văn Nhân - Kế toán trưởng công ty ximăng Hải Vân: "công ty đã kiến nghị đến các cơ quan có trách nhiệm xin xử lý khó khăn tài chính với các khoản nợ này; trong đó xin được xử lý nợ gốc, cho khoanh nợ không tính lãi với khoản trả hộ Hoà Khương, và xoá nợ lãi treo (hơn 41 tỉ) của 2 NH"26 Ông Phạm Công Hường - Kế toán trưởng công ty Ximăng Hoàng Mai: "Kiến nghị của công ty tôi là xin kéo dài thời gian trả nợ." 27 Nợ khoanh cà phê - Không thể trả nợ - đề nghị cho khoanh tiếp28 24 25 26 LĐ số 81 Ngày 21.03.2004 27 LĐ số 81 Ngày 21.03.2004 28 Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 17 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 Ông Trần Minh Thuỵ - Giám đốc Công ty Cà phê Phước An:"Khoản nợ đến hạn đó công ty chưa thể có khả năng thanh toán". Tổng Công ty Cà phê VN đã trình chính phủ xin “tiếp tục được khoanh nợ thêm 3 năm nữa đối với các khoản nợ đã được khoanh theo Quyết định 1127/QĐ-TTg, số tiền là 760 tỷ đồng”. PHẦN III: GỢI Ý CHÍNH SÁCH 1. Qua quá trình phân tích ở trên chúng ta nhận thấy rằng dường như có một “vòng luẩn quẩn” trong hoạt động của thị trường tài chính nói chung và thị trường tài chính của các nước đang phát triển nói riêng khi mà chính phủ can thiệp quá sâu vào hệ thống tài chính với kỳ vọng khắc phục thất bại thị trường. Do thất bại thị trường, hệ thống tài chính xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng, chính phủ phải đứng ra can thiệp bằng chính sách cứng rắn. Các chính sách này đến lượt nó lại bóp méo các quan hệ thị trường, không phân bổ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội và dẫn đến thất bại Chính phủ. Để giải quyết, chính phủ trở lại nới lỏng & tự do hoá thị trường tài chính. Vì vậy một trình tự phù hợp được đề nghị nhằm đảm bảo tự do hóa tài chính nhưng vẫn đảm bảo ổn định vĩ mô, không đi vào “vòng luẩn quẩn” là: Hệ thống tài chính cần phải được từng bước tự do hóa với điều kiện ổn định tốt vĩ mô và thực hiện các cải cách quan trọng liên quan. Do vậy thay vì tự do hóa tài chính hoàn toàn, bước đầu nới lỏng sau đó thực hiện áp chế tài chính ở mức độ vừa phải và kế đến thực hiện tự do hóa theo các cam kết của các tổ chức đa phương trên thế giới (ví dụ WTO): + Áp chế tài chính ở mức độ vừa phải để tạo nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách trong điều kiện chính phủ không đảm bảo được khả năng thu thuế đầy đủ. + Kiềm chế tài chính để kiểm soát thông tin bất cân xứng và hiệu chỉnh thất bại thị trường trong các giao dịch tín dụng 2. Một số gợi ý chính sách trong thời gian tới: Để hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng Việt nam nói riêng phát triển; trong thời gian tới Chính phủ không nên can thiệp vào tổ chức bộ máy, chính sách quản lý tiền tệ của Ngân hàng nhà nước - Ngân hàng nhà nước không còn lệ thuộc chính phủ. Bản thân ngân hàng nhà nước cần tạo các chính sách phù hợp để định hướng cho các định chế tài chính thực hiện: tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức trong hệ thống tài chính, cần có chính sách mở để các tổ chức nước ngoài; cá nhân trong nước dễ dàng tham gia vào các tổ chức tài chính ngân hàng như thành lập ngân hàng; thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư, làm được như vậy các tổ chức tài chính trong nước có cơ hội cạnh tranh và phát triển. Chính phủ cũng không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hạn chế các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ chỉ nên nắm giữ các ngành trọng điểm và các ngành có lợi thế cạnh tranh mà tư nhân không đủ các điều kiện tham gia. + Hạn chế các doanh nghiệp nhà nước: Cổ phần hoá mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước, nhà nước không cần phải nắm giữ vốn và quyền điều hành tại các doanh nghiệp. Mạnh dạn giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn không có hiệu quả. Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 18 of 19 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Áp chế tài chính Việt Nam Niên khoá : 2005 – 2006 Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước.+ Hạn chế vốn tín dụng theo kế hoạch nhà nước: Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề có lợi thế so sánh. Hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Chính sách hỗ trợ vốn ưu đãi này không phân biệt loại hình doanh nghiệp là nhà nước hay doanh nghiệp dân doanh. Chính phủ chỉ hỗ trợ một phần vốn vay ưu đãi sau khi các ngân hàng thương mại thẩm tra dự án là có hiệu quả; phần còn lại ngân hàng và doanh nghiệp tham gia. Đối với quỹ hổ trợ phát triển: Với điều kiện kinh tế của VN hiện nay thì các biện pháp hỗ trợ của Quỹ là hết sức cần thiết và không thể loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên cần phải điều chỉnh vì với tâm lý ỷ lại, đầu tư dàn trải nếu vẫn tiếp tục duy trì thì sẽ là gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Để giải quyết cơ bản tình trạng vốn đầu tư là phải phát triển thị trường vốn; tạo cơ chế nhằm minh bạch hoá mục tiêu và hiệu quả đầu tư để các chương trình, dự án có đủ vốn đầu tư qua việc huy động vốn từ nhiều nguồn. Các dự án đầu tư cần đánh giá đầy đủ chi phí - hiệu quả, hỗ trợ có mục tiêu chọn lọc; củng cố vai trò cán bộ trong thẩm định các dự án nhằm công bằng hoá, đảm bảo vốn đến được nơi cần và phát huy tác dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Tài chính các nước đang phát triển. Richard L.Kitchen Áp chế tài chính và quản lý vĩ mô. Xuân Thành/Trọng Hoài. www.fetp.edu.vn Các công cụ áp chế tài chính.Richard L.Kitchen Tự do hoá tài chính. Xuân Thành. www.fetp.edu.vn Tự do hóa tài chính và tình trạng mỏng manh về tài chính. Asli Demirguc-Kunt và Enrica Detragiache. Tháng 3/1998. Mối quan hệ giữa Nhà nước - Doanh nghiệp Nhà nước - Ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt nam. Huỳnh Thế Du, 10/2005.www.fetp.edu.vn Nghiên cứu tình huống: Việt Nam: Con đường đi đến tự do hóa lãi suất. Xuân Thành Nhom 7. BaocaoTonghop_Ban nop.doc Page 19 of 19

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1513153029_135_ap_che_tai_chinh_tai_viet_nam_562.pdf