Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam - Phần 2

Nhiều thành ngữ dân gian, ca dao đã đi vào thơ Tú Xƣơng bằng sự sáng tạo riêng. Các thành ngữ nhƣ Học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắng mưới mưa, thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ. Vuốt râu nịnh vợ con bu nó Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Tú Xƣơng rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao còn thể hiện cái tình tứ, duyên dáng, hóm hỉnh của nhà thơ. Ai ơi còn nhớ ai không? Trời mưa một mảnh áo bông che đầu Nào ai có tiếc ai đâu Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô? Người đi tam đảo, ngũ hồ. Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình. Non non, nước nước, tình tình Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ ( Áo bông che đầu)

pdf57 trang | Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 2354 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam - Phần 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Pháp: 1.Nhân vật là ngƣời nông dân đánh Tây: 1.1.Vị trí của ngƣời dân trong văn chƣơng: Trƣớc đây vai trò của ngƣời dân chƣa đƣợc đề cao trong văn chƣơng. Trong giai đoạn trƣớc Nguyễn Ðình Chiểu, ngƣời dân cũng giữ vai trò quan trọng nhƣng chua quyết định nhƣ giai đoạn này. Nhân dân chỉ là lực lƣợng phục tùng. Số phận của họ đƣợc định đoạt dựa vào nhà nƣớc phong kiến. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 93 Trong thơ văn yêu nƣớc, vai trò ngƣời dân nổi bật hơn trƣớc. Họ trở thành ngƣời dân mộ nghĩa, thành trang dẹp loạn. Trong số ấy có người là Dân ấp, dân lân, những người nông dân Nam bộ cùng khổ lúc bấy giờ. Họ trở thành nhân vật chính mà sử sách gọi là ngƣời nghĩa sĩ nông dân và Nguyễn Ðình Chiểu đã viết về họ nhƣ những ngƣời anh hùng của thời đại. 1.2.Cái nhìn mới mẻ về ngƣời nông dân trong cuộc đấu tranh chống Pháp: Từ Chạy Tây đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngƣời dân Nam bộ đã đi những bƣớc thật dài và cái nhìn của Ðồ Chiểu cũng tiến những bƣớc thật dài. Ở Chạy Tây là nhân dân và ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là người nông dân. Nguyễn Ðình Chiểu đã khái quát về thời cuộc và đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật, kể về cuộc đời nhân vật là ngƣời nông dân nghèo khổ, chƣa quen với việc cung kiếm binh đao bỗng chốc trở thành ngƣời nông dân đánh Tây. Họ yêu nƣớc, tự ý thức đƣợc nghĩa vụ của mình nên chiến đấu rất dũng cảm kiên cƣờng và lập nên những chiến công hiển hách: Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ. Khá khen thay! Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh, chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Mười tám ban võ nghệ, nào nơi tập rèn, chín chục trận binh thư không chờ bày bố. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xonh nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô của xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu chiếc, tàu đồng, súng nổ. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Ngòi bút Nguyễn Ðình Chiểu đã ca ngợi họ và khắc sâu vào tâm trí hình ảnh bất tử của nghĩa quân, nhắc lại quá trình chiến đấu gian khổ mà ngƣời nông dân Cần Giuộc đã trải qua. Ðó là con đƣờng của dân tộc đã đi từ bấy đến giờ, rất thực và cũng rất thơ. 1.3.Tấm lòng của nhà thơ: Tình cảm của nhà thơ đối với ngƣời đã mất cũng nhƣ đối với ngƣời còn sống là rất nhân hậu và thành thực. Nhà thơ đau xót trƣớc sự hy sinh của nghĩa quân và trút trách nhiệm ấy lên bọn vua quan bán nƣớc. Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồn. Biết thuở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái Tác giả thƣơng ngƣời còn sống, thƣơng mẹ già, vợ góa, con côi tình cảm đó đƣợc diễn đạt bằng những câu thơ rất não nùng. Ðau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét ở trong lều. Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ Nhà thơ còn nghĩa đến quê hƣơng, đến đồng bào trong cơn lửa loạn và nhỏ lệ khóc thƣơng Binh tướng nó hãy đóng ở sông Bến Nghé làm cho bốn phía mây đen. Ông cha ta còn ở đất Ðồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ 2.Nhân vật là ngƣời sĩ phu kháng Pháp: Là những lãnh tụ nghĩa binh chống Pháp nhƣ Trƣơng Ðịnh, Phan Tòng Nhà thơ đã ca ngợi, nhắc nhở, ghi công trạng của họ. Ca ngợi Trƣơng Ðịnh, Phan Tòng Vì nƣớc, giúp đời, xem thƣờng cái chết Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây. Hình ảnh của họ rất hiên ngang, đẹp đẽ, đi vào lịch sử và mang đậm nét bi hùng: Làm người trung người đáng bia son Ðứng giữa càng khôn tiếng chẳng mòn Cơm áo đền bồi ơn đất nước Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 94 Râu mày giữ vẹn phận tôi con Tinh thần hai chữ phau sương tuyết Khí phách nghìn thu rỡ núi non (Ðiếu Phan Tòng) Có thể nói, qua nguyên mẫu một Trƣơng Ðịnh, Phan Tòng, Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng lên hình tƣợng ngƣời sĩ phu tiêu biểu cho cả một tầng lớp kẻ sĩ ƣu tú nhất của thời đại lúc bấy giờ. 3.Nhân vật là ngƣời trí thức bất hợp tác với kẻ thù: Hình ảnh Kỳ Nhân Sƣ trong tác phẩm Ngƣ Tiều y thuật vấn đáp là tiêu biểu cho ngƣời tri thức bất hợp tác với kẻ thù. Nhân Sƣ đã tự xông mắt cho mù để khỏi làm sĩ liêu, làm thái y cho giặc (Thà đui mà giữ đạo nhà). Ðây là hành động tự hủy để giữ thân, giữ đạo: Sự đời thà khuất đôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương. Nhƣng Nhân Sƣ không hề bỏ rơi trách nhiệm của mình, luôn làm điều thiện để thực hiện thiên chức cao cả: Làm thuốc, dạy thuốc chữa bệnh cho dân, tập hợp và giác ngộ những ngƣời dân yêu nƣớc, đợi thời cơ ra cứu nƣớc: Hỡi bạn y lâm ai có hỏi Ðò xưa bến cũ có ta đây Từ thái độ của Nhân Sƣ có thể thấy đƣợc thái độ của Nguyễn Ðình Chiểu: Yêu nuớc nhƣng bất lực đến dày vò tâm hồn: Ðã cam chút phận dở dang Trí quân hai chữ mơ màng năm canh Mặc dù bất lực nhƣng tác phẩm vẫn thể hiện đƣợc niềm tin tƣởng lạc quan vào tƣơng lai dân tộc: Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng Bốn bể câu ca hiệp một nhà Và điều cảm động là tấm lòng của nhà thơ trƣớc sau cũng đều thuộc về dân, về nƣớc, thủy chung, son sắt: Mắt nhìn trong tiết thanh minh, U Yên đất cũ cảnh tình trêu ngươi. Trăm hoa nửa khóc nửa cười, Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương. Cỏ cây đưa nhánh đón đường, Như tuồng nếu hỏi: Ðông hoàng ở đâu? Bên non đá cụm cuối đầu, Như tuồng oan khuất lạy cầu cứu sinh. Líu lo chim nói trên cành, Như tuồng kẻ mách tình hình dân đau. Ngày xuân mà cảnh chẳng xuân, Mưa sầu, gió tủi biết chừng nào thanh! Có thể thấy ba nhân vật chính đã trở thành văn chƣơng. Ba nhân vật nhƣng cùng mộ tấm lòng, một thái độ. Tấm lòng đối với dân và thái độ đối với kẻ thù. Ðó cũng là mẫu ngƣời và cách sống cao đẹp nhất mà khuôn khổ lúc bấy giờ quy định và cho phép. III. KẾT LUẬN: Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tiên của nhân dân Nam bộ có tiếng vang và được đón nhận mang tầm cả nƣớc và đến thơ văn yêu nƣớc, Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ đứng đầu và mở đầu của v ăn chƣơng yêu nƣớc mà còn đƣa ông lên hàng tác gia lớn của văn chƣơng cả nƣớc trong dòng chủ lƣu này. Nguyễn Ðình Chiểu xứng đáng là tấm gƣơng phản ánh hiện thực xã hội miền Nam nửa sau thế kỷ XIX và trong thực tế ông là lá cờ đầu trong của dòng văn học yêu nƣớc Nguyễn Ðình Chiểu là ngƣời trí sĩ yêu nƣớc, một nhà thơ lớn của nƣớc ta và sự nghiệp của Nguyễn Ðình Chiểu là tấm gương sáng nêu cao địa vị và tác dụng của văn học nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng (Phạm Văn Ðồng) Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 95 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Chƣơng 21: NGUYỄN KHUYẾN (1835-1909) I. CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC 1. Cuộc đời: Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/2/1909. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một ngƣời thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hƣơng và đỗ giải nguyên ở trƣờng Nam Ðịnh. Năm 1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên ngƣời ta gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên yên Ðỗ và làm quan dƣới riều Tự Ðức. Nguyễn Khuyến là ngƣời có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhƣng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là ngƣời có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trƣớc cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. 2. Sự nghiệp: Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngƣợc lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện. Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Còn trong thơ chữ Hán thì hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói trên hai lĩnh vƣcï Nguyễn Khuyến đều thành công. 3. Thời đại: Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nƣớc mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn nhƣ sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện đƣợc. Lúc này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vƣơng, nhân dân hƣởng ứng khắp nơi. Nhƣng cuối cùng phong trào Cần Vƣơng tan rã. Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nƣớc bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm đƣợc gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ. II. NỘI DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN: 1.Tấm lòng yêu nƣớc thiết tha sâu nặng: 1.1. Tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Khuyến: Tƣ tƣởng yêu nƣớc của Nguyễn Khuyến trƣớc hết gắn kiền với tƣ tƣởng trung quân. Ðây là một tƣ tƣởng yêu nƣớc hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là một ông quan từng hƣởng bổng lộc của triều đình nên tƣ tƣởng trung quân đậm nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình: Khi đưa Thầy con rước đầu tiên Cờ biển vua ban ngày trứơc Sống giữa thời kỳ nƣớc mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nứơc rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng dạt dào bao ý định chua xót về quyết định này: Khứ quốc khởi vô bằng bối tại, Quy gia vị tất tử tôn hiền? (Cảm tác) Dịch nghĩa: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 96 Bỏ chức há không bạn bè ở lại Về nhà vị tất con cháu đã khen thay? Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều ngƣời tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái : Khả hạnh chư quân năng dũng thoái, Vị ưng nhất chức tẫn phi tài Bách niên tứ hà vi giả, Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai! (Vũ hậu xuân túy cảm thành) Dịch nghĩa: Ðáng mừng các bạn mạnh dạn dám lui về, Ðâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi Cuộc đời trăm năm xe ngựa có ra trò gì, Mà ở quê chúng ta gò núi vẫn tươi đẹp lắm (Cảm hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa ) Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem quê hƣơng nhƣ chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc ch cuộc sống bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi ngƣời. Ông thƣờng làm các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loai hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái đức của mình. Nguyễn Khuyến còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con ngƣời nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông. Ông quan niệm: Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc Tâm trung thường thủ tự kiên kim Lời ca ngợi tiết tháo của ngƣời đàn bà đáng thƣơng trong bài thơ Mẹ mốc của Nguyễn khuyến có cái gì giống nhƣ sự quyết tâm của nhà thơ: Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết. Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ. Nguyễn Khuyến là ngƣời coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn trở về vấn đề này: Thế đồ kim hựu đa kha khảm, Lợi cục nan năng quả oán vưu. Vị ngã phất tu chung hữu khích, Thức nhân thỏa diện tích bằng ưu. (Tiểu thán) Dịch nghĩa: Trên đường đời, nay lại gặp nhiều bứơc gập gềnh, Trong cuộc đời khó giữ được ít lời oán trách. Kẻ phẩy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích, Người ta nhổ vào mặt mình chùi đi, đời xưa còn cho là đáng lo. (Vài lời than) Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ tiêu biểu có tính chất triết lý cao: Di chúc, Vƣờn Bùi chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ lân nga, nhân tặng nhục, Tiểu thán... 1.2. Sự quan tâm lo lắngcho đất nƣớc: Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm đƣợc gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thƣờng đƣợm buồn, đầy nƣớc mắt khi nói về đất nƣớc: Ðời loạn người về như hạt độc Tuổi già hình bóng tựa mây côi. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 97 (Cảm tác) Sách vở ích gì cho buổi ấy Aùo xiêm nghĩ lại thẹn thân già (Ngày xuân dặn các con) Hình ảnh quê hƣơng đất nƣớc xuất hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhƣng đều dƣới dạng trữ tình ảm đạm của nhà thơ: Cố quốc sơn hà chân thảm đạm (Hung niên) Nhất độ giang sơn nhất bạc đầu (Thu tứ) Nhà thơ từng mƣợn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nƣớc da diết, khắc khoải của mình. Bài thơ Cuốc kêu c ảm hứng nhƣ một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông. Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái: Xuân về ngày loạn còn lơ láo Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ, 2. Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến 2.1.Ðối với thực dân Pháp: Ðả kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức ngƣời, sức của của nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn ngƣời dân vô tội đến chốn ma thiêng nƣớc độc. Bài thơ Hội Tây, Hoài cổ, Văn tế Cơ ri vi e(*) đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc: Hỡi ôi! Ông ở bê Tây, Ông qua bảo hộ. Cái tóc ông quăn, Cái mũi ông lõ, Ðít ông cưỡi lừa, Miệng ông húyt chó, Lưng ông đeo súng lục liên, Chân ông đi giày có mỏ, Ông dẹp cờ đen Ðể yên con đỏ. Ai ngờ: Nó bắt được ông, Nó chặt mất sỏ. Cái đầu ông đâu? Cái đít ông đó. Khốn khổ thân ông Ðéo mẹ cha nó 2.2. Ðối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái điếm: Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trƣờng và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại. Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trƣớc sự nguyền rủa của dân. Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát chửi mát theo kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt đến xƣơng, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo nhƣ chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 98 Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp, Tiên là ý chú muốn vòi xu Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc Không khéo mà roi nó phết cho (Bồ tiên thi) Các bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ ngƣời hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông Ðốc học Hà Nam đều là những bài thơ vạch mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm biếm tố cáo sâu sắc. Trong bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Ðộ sinh từ hữu cảm là thái độ khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn Hữu Ðộ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ: Công tại, tứ thời tập quan đới, Ðắc dự giả hỉ, bất dự bi. Công khứ, quan đới bất phục tập, Hương hỏa tịch tịch hoà ly ly. Dản kiến đệ nhị vô danh công, Triêu tịch huề trượng lai vu ty. Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự, Bất tri cửu nguyên thùy dữ quy? Dịch nghĩa: Khi ông còn thì áo mũ cân đai bốn mùa tấp nập, Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn, Sau khi ông mất rồi thì không thấy mũ áo xúm xít lại nữa, Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà. Chỉ thấy có ông Thứ nhì không tên Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy. Ở đời có lúc thịnh, lúa suy, đó là việc thường, Không biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai? (Cảm nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Ðộ) Nhƣng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng Vợ bợm chồng quan danh phận đó (Ðĩ Cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra gì. Ðặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không khoang nhƣợng khi viết về bọn me Tây, gái điếm. Trong một vế câu đối Mừng cô Tƣ Hồng ông viết: Có tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy lừng ba mươi sáu tỉnh. Ở một câu đối khác: Thôi cũng đừng cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng qua trước mắt Có thể nói, cũng nhƣ các nhà thơ thuộc khuynh hƣớng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám vào hiện tƣợng cụ thể để đả kích. Từng con ngƣời, từng hiện tƣợng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông. 2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy: Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhƣng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế nhƣ xƣa nữa. Thế nhƣng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi Hƣơng , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tƣơng phản càng rõ nét. Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những ngƣời không ra gì. Có danh nhƣng không thực. Mặc dù: Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai Cũng gọi ông Nghè có kém ai Nhƣng ông lại tiếc rẻ: Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 99 Cái giá khoa danh thế mới hời Ấy thế còn ra dáng đƣờng bệ: Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi Bài thơ gợi ra mối liên tƣởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kỳ nƣớc mất, nhà tan. Ðạo nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhƣng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng. Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ sĩ bị đánh mất trƣớc tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái goá là một ví dụ tiêu biểu: Ở góa thế gian nào mấy mụ Ði ve thiên hạ thiếu chi thầy Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây. 3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thƣơng: 3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam: Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhƣng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sƣa chan hoà với quê hƣơng. Cảnh sắc đƣợc ông miêu tả hết sức chân thật và sống động. - Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ƣớc lệ, trang trọng, khuôn sáo nhƣ trong văn chƣơng, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc nhƣ trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu đƣợc tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nƣớc ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc. - Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo. - Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều trở thành những danh lam thắng cảnh của đất nƣớc. Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của ngƣời thƣởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trƣớc vẻ đẹp của đất nƣớc đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế. 3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến: 3.2.1 Trƣớc những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân: Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của ngƣời lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ƣớc cái họ từng mơ ƣớc. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân: Lão làm ái táo, miên tương khởi, Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì (Hạ nhật tân tình) Dịch nghĩa: Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy, Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần mẫn ra. (Ngày hè mưa mãi mới tạnh) Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống. Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông: Năm nay cày cấy vẫn chân thua. Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa (Chốn quê) Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 100 Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác nhƣ tâm trạng vui vẻ của ngƣời nông dân vào những ngày tết đƣợc mùa đƣợc ông ghi nhận: Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ: Dở trời mưa bụi còn hơn rét, Nếm rượu tượng đình được mấy ông? Hàng quán người về nghe xao xác, Nợ nần năm trước hỏi lung tung. (Chợ đồng) 3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm: Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tƣởng chừng nhƣ bình thƣờng ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý. - Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.: Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất cả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc. Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm - Ðối với con,ông rất thƣơng yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm ngƣời hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình: Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ, Tố nghiệp thƣ tha nhất thúc thƣ. Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí, Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ. (Xuân nhật thị chư nhi (I) ) Dịch nghĩa: Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất, Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách Các con nối chí cha nên biết Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà (Ngày xuân dặn các con (I) ) - Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân tình giản dị. - Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dƣơng Khuê, Nƣớc lụt thăm bạn ... ). Trƣớc cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình: Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác vài ngày. Làm sao bác vội về ngay, Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời! Ai chả biết chán đời là phải, Sao vội vàng đã mãi lên tiên? Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua, không phải không tiền, không mua (Khóc Dương Khuê) III.NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN: 1. Ngôn ngữ: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 101 1.1. Ðặc điểm chung: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả. Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe (Thu ẩm) Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ đƣợc dùng ở nông thôn đƣợc ông sử dụng khá thành thạo: xôi bánh trâu heo, anh em làng xóm,văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài. Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian Nhất vợ nhì trời để lý giải vì sao nhƣ vậy: Trời dẫu yêu nhƣng vì có phận Vợ mà vụng dại đếch ăn ai. Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ? Vợ chỉ hơn trời có cái chai! Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kỷ trƣớc, nhƣng ông có lối sáng tạo riêng. Ca dao có câu Gái có chồng nhƣ gông đeo cổ thì nhà thơ làm bài thơ Muốn lấy chồng phát triển cái tứ ngược lại: Mới biết có chồng nhƣ có cánh Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông. 1.2. Ngôn ngữ trào phúng: Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống nhƣ Hồ Xuân Hƣơng hay Tú Xƣơng là đánh một cái cho biết. Cái cƣời của ông đối với kẻ thù tuy có cay nhƣng không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông có so sánh cờ nƣớc Pháp với váy phụ nữ: Ba vuông phất phới cờ bay dọc Một bức tung hoành váy xắn ngang (Lấy Tây) Ông có biệt tài, cƣờng điệu và chơi chữ rất tài tình: Văn hay chữ tốt ra tuồng Văn dai như chão chữ vuông như hòm Vẽ thầy như vẽ con tôm Vẽ tay ngoái cám, vẽ mồm húp tương. (Ðùa chế ông Ðồ Cự Lộc) Hoặc cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm ngƣời hàng thịt: Tứ thời bát tiết canh chung thủy Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang Các bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà, Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ lại gnười cho hoa trà, Lấy tây, Ðùa chế ông đồ Cự Lộc, Câu đối tết đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến. 1.2. Ngôn ngữ tả cảnh: Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ. Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ , dùng từ thích hợp, từ ngữ thƣờng lấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao. Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhƣng không hề rơi vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng đƣợc vẽ, đƣợc chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật. 2. Hình ảnh: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 102 Hình ảnh sử dụng thƣờng đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập lòe đầy sức sống. Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ Ðƣờng. Âm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột tả đƣợc đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lý: Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà (Vịnh lụt) Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nƣớc, màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sƣơng chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo thanh đạm, lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây ấn tƣợng thị giác. Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông đƣợc mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, ngƣời, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hƣơng đất nƣớc. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thƣờng thành thơ. IV.KẾT LUẬN: Nguyễn Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự nhiên, tƣơi tắn tạo nên những nụ cƣời nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị; Thơ tả cảnh tả tình có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ý tứ gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc sống nông thôn. Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Chƣơng 22: TRẦN TẾ XƢƠNG (1871-1907) *** I.CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC: 1.Cuộc đời: Trần Tế Xƣơng tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xƣơng, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hƣơng mới lấy tên là Trần Tế Xƣơng. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại lànVị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Ðịnh và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện. Tú Xƣơng là một ngƣời rất thông minh, tính tình thích trào lộng. Có nhiều giai thoại kể về cá tính của ông. Cuộc đời Tú Xƣơng lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xƣơng. Ông cƣới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp hay chăng chớ trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sƣơng Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn chơi nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy vào một tay bà Tú. Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xƣơng. 2.Thời đại: Cuộc đời ông nằm gọn trong giai đoạn nƣớc mất, nhà tan. Năm Tú Xƣơng ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất rồi tấn công Nam Ðịnh. Năm mƣời bốn tuổi (1884) triều đình ký hàng ƣớc dâng đất nƣớc ta cho giặc. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 103 Tuổi thơ của Tú Xƣơng trôi qua trong những ngày đen tối và ký ức về những cuộc chiến đấu của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa của Phan Ðình Phùng (1896) bị thất bại thì phong trào đấu tranh chống Pháp dƣờng nhƣ tắt hẳn. Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nƣớc, xã hội có nhiều biến động, nhất là ở thành thị. Tú Xƣơng lại sinh ra và lớn lên ở thành thị vào thời kỳ chế độ thực dân nửa phong kiến đƣợc xác lập, nền kinh tế tƣ bản phát triển ở một nƣớc thuộc địa làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn đời sống tinh thần của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại rất sinh động, trung thành bức tranh xã hội buổi giao thời ấy và thể hiện tâm trạng của mình. Có thể nói, đứng trƣớc sự tha hoá của xã hội nên nguyên tắc Tam cƣơng ngũ thường của Tú Xương không đậm như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Ðồ Chiểu. 3. Tác phẩm: Tú Xƣơng mất sớm, ông chua đi trọn con đƣờng sáng tác của mình. Nhƣng những tác phẩm Tú Xƣơng để lại có tác dụng nhƣ một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Tú Xƣơng sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có dịch một số thơ Ðƣờng. II.NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƢƠNG: 1.Thơ Tú Xƣơng là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến: Trong thơ ông có hình bóng con ngƣời và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng những vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tƣợng mà ông căm ghét. 1.1.Ðả kích bọn thực dân Pháp: Ðốái với thực dân Pháp, tuy chua phải là đối tƣợng chính để tập trung phê phán nhƣng ta vẫn bắt gặp bóng dáng những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cƣời. Ðó là hình ảnh những ông Tây, bà Ðầm rất nghênh ngang lố bịch (Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh Dậu). Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoang nhƣợng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng bút pháp trào phúng sâu sắc (Ông Cò). 1.2.Ðối với bọn quan lại, tay sai: Ðề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trƣớc, nhƣng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xƣơng có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự. Dƣới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú đa dạng. Ðó là những lũ bất tài, dốt nát (Bác Cử Nhu); chúng không khác chi những tên hề (Hát bội). Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân không nghĩ gì đến trách nhiệm (Ðùa ông Phủ). Ông còn vạch trần bản chất làm tay sai của những tên quan lại lúc bấy giờ (Cô hầu gửi quan lớn). Từ đó thấy đƣợc thái độ phẫn uất của Tú Xƣơng trƣớc thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con ngƣời, những hiện tƣợng trái tai, gai mắt. Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại, mỗi ngƣời mỗi vẻ nhƣng đều rất sắc cạnh, cụ thể. Một tên quan huyện Mình trung đâu đấy trách ngƣời trinh, một ông Aám Chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi, ông Ðốc cờ bạc ăn chơi rặt một màu, ông Cử Sách như hủ nút, chữ như mù, một cô Bố Chồng chung, vợ chạ, một chú Hàn thì Ðậu lạy, quan xin và cả một xã hội lố lăng, rởm đời với quý vị phu nhân, các cậu ấm tử, sƣ sãi cũng đƣợc Tú Xƣơng tái hiện, sinh động, cụ thể: Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau. Ðôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất. Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng, đúc chuông. Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật (Khai lý lịch) 1.3.Ðối với khoa cử, nho học: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 104 Trong bức tranh xã hội của Tú Xƣơng còn có những nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có hình ảnh của trƣờng thi, của một nền nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xƣơng không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi, trang trọng của một trƣờng thi chữ Hán xƣa kia nữa mà nó đang lùi dần trƣớc uy thế của kẻ thù. Ông phản ánh thực trạng nho học suy đồi bằng tiếng thở dài áo não (Than đạo học). Ông còn chế giễu những ngƣời kéo nhau đi thi ở những trƣờng lớp mới mở của thực dân (Ðổi thi). Trong buổi lễ xứng danh khoa Ðinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trƣớc mắt ngƣời đọc bức tranh về cảnh trƣờng thi cảnh ngao ngán của sĩ tử trƣớc thực trạng nƣớc mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết đƣợc săn đón Vứt bút lộng đi giắt bút chì. Ðó là hình ảnh: Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra Cái tàn tạ của nho học đƣợc Nguyễn Bính ghi lại: Mực tàu giấy bản là đây Nước non đi hết những người áo xanh Lỡ duyên bút tóc củ hành Trường thi Nam Ðịnh biến thành trường bay. Tú Xƣơng than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán: Nào có gì lạ cái chữ nho Ông nghè, ông cống cũng nằm co Sao bằng đi học làm ông Phán. Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò (Chữ nho) 1.4. Phê phán thế lực đồng tiền: Trƣớc Tú Xƣơng, nhiều tác giả Việt Nam cũng nhƣ nừơc ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tƣ tƣởng và hành động của con ngƣời. Ðến thời Tú Xƣơng, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội nhất là ở thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Tú Xƣơng đã mắng nhiếc cái xã hội đã hỗn loạn lên vì đồng tiền (Ðất Vị hoàng, Vị Hoàng hoài cổ) Có thể thấy bức tranh xã hội của Tú Xƣơng bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh: Ở phố Hàng Song thật lắm quan Thành thì đen kịt, độc thì lang Chồng chung vợ cha kìa cô Bố Ðậu lại quan xin nọ chú Hàn ( Phố Hàng song) Vì đồng tiền, con ngƣời lƣờng gạt nhau để sống, đối xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn . . . đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền. Bài thơ Mùng hai tết viếng cô Ký, Ðể vợ chơi nhăng đã phê phán thói đời thật đáng sợ. Ông chồng khóc vợ chết chỉ vì thƣơng cái xe tay. Còn vợ đối với chồng thì Trăm năm tuổi lại trăm thằng Ngòi bút Tú Xƣơng đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời, có những cảnh khá nực cƣời, những cảnh chƣớng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xƣơng ( Năm mới, Thói đời, Chữ nho): Khăn là bác nọ lo tày rế, Váy lĩnh cô kia quét sạch hè. Công đức tu hành sư có lọng, Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe. ( Năm mới) Hay cảnh nực cƣời khác: Chí cha chí chát khua giày dép, Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 105 Ðen thủi đen thui cũng lụa là. 1.5 Lên án những thói hƣ tật xấu của thời đại: Phê phán những ngƣời hành đạo mà lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu nhƣ cảnh sƣ sãi vụng trộm trong chùa, sƣ cho vay nặng lãi, sƣ chứa của gian đến nỗi phải ở tù (Sư ở từ, Ông sư và mấy ả lên đồng) Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò mê tín giả dối không thể chịu đƣợc: Ðồng giỏi sao đồng không giúp nước Hay là đồng sợ súng thần công. Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết ý tứ mỉa mai trƣớc thực trạng nƣớc mất, nhà tan (Thói đời), vạch trần những tâm lý giả dối, sáo rỗng của con ngƣời trong ngày tết bằng lời lẽ châm biếm sắc sảo. Bài thơ Chúc tết đã chế giễu độc địa và sâu sắc: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu. Phen này ông quyết đi buôn cối, Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu. Nó lại chúc nhau cái sự sang! Ðứa thời mua tước đứa mua quan. Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng. Nó lại mừng nhau cái sự giàu! Trăm ngìn vạn mớ để vào đâu? Phen này ắt hẳn gà ăn bạc, Ðồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu Nó lại mừng nhau sự lắm con Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn. Phố phường chật hẹp người đông đúc, Bồng bế nhau lên nó ở non. 2. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót: 2.1. Nỗi đau xót về bản thân và thời cuộc: - Về bản thân: Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cƣời cợt, còn tự nghĩ cách để an ủi mình. Nhƣng các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xƣơng ngày càng đau buồn, chán nãn, tuyệt vọng và cay cú: Học đã sôi cơm nhưng chữa chín. Thi không ăn ớt thế mà cay Ðến khoa thi cuối ( 1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng càng áo não và bi thiết hơn nhiều: Bụng buồn còn biết nói năng chi Ðệ nhất buồn là cái hỏng thi Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế chẳng ra gì ( Buồn thi hỏng) Ở đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhƣng Tú Xƣơng vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cƣời trào phúng cũng đến với ông. Qua những lời tự trào, tƣ thú về mình càng thấy rõ con ngƣời và tính cách Tú Xƣơng: Tú Xƣơng tự khoe về sự ăn chơi của mình: Nghiện chèm nghiện rượu, nghiện cả cao lâu, Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 106 Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng. Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản anh, Ra phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Ðịnh bóng . . . ( Phú hòng thi) - Về cảnh nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo não và bi thiết ( Mùa nực mặc áo bông) Nhà thơ từng thấm thía cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên: Van nợ lắm khi trào nước mắt Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi ( Than nghèo) Trong hoàn cảnh nào, Tú Xƣơng vẫn cƣời cợt, châm biếm, nói ngông. Vì nghèo quá, ông đã tính đến chuyện đi tu nhƣng không phải tu vì đạo lý mà tu vì tấm áo (Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gai đình trong ngày tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông đâm ra chán chƣờng tuyệt vọng: Ngủ quách sự đời thây đứa thức. Bên chùa chú trọc đã khua chuông. ( Ðêm hè) Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể cƣời cợt, vẫn bông đùa: Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo Tiền bạc trong kho chữa lĩnh tiêu Ðúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái nghịch lý này đã hình thành nên tính cách của Tú Xƣơng. 2.2. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xƣơng trƣớc thời cuộc và vận mệnh đất nƣớc: - Tình cảm của Tú Xƣơng đối với nhân dân: Ðối với ngƣời nghèo nhƣ những ngƣời học trò, những ngƣời nông dân chân lắm tay bùn (Thề với ăn xin) . . . những dòng thơ của Tú Xƣơng chứa chan tình cảm và đầy lòng ƣu ái (Ðại hạn) Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xƣơng càng thể hiện rõ hơn: Ỳ ào tiếng học nghe không rõ Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu Ông lão nhà quê tan tản dậy, Bảo con đem đó, chớ đem gầu . . . Ðối với ngƣời phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thƣơng, họ không những khổ sở về vật chất mà còn bị đau đớn về mặt tinh thần Thƣơng vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xƣơng viết về vợ: Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xƣơng trƣớc thời cuộc và vận mệnh đất nƣớc thƣờng triền miên, day dứt: Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà ( Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh dậu) Nhà thơ thƣờng thao thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tƣ và thấy đƣợc cái heo hút Vắng lặng của đêm trường: Ðêm sao đêm mãi tối mò mò, Ðêm đến bao giờ mới sáng cho. Ðàn trẻ u ơ chừng muốn dậy, Ông già thúng thắng vẫn đang ho. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 107 Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé, Tiếng chó kinh người cắn vẫn to. Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa, Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho. ( Ðêm dài) Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình: Kìa cái đêm nay mới gọi đêm Mắt giương không ngủ bũng không thèm Tình này ai thấu cho ta nhỉ Tâm sự năm canh một bóng đèn. Ðiểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Ðó là tình cảm của ông đối với quê hƣơng đất nƣớc. Nỗi đau khi nhìn thấy đất nƣớc đổi thay mà bản thân ông thì không làm gì thay đổi thời cuộc ( Sông lấp). Bài thơ chứng tỏ Tú Xƣơng vẫn là ngƣời nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâm ra bối rối, lạc lõng, mất phƣơng hƣớng trƣớc bao biến đổi của thời cuộc: Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt, Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơ Ðường đất xa khơi ai mách bảo? Biết đâu mà ngóng dến bao giờ? ( Lạc đường) Lòng yêu nƣớc của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xƣơng đối với những ngƣời có tài, có đức ra cứu đời, giúp nƣớc: Vá trời gặp hội mây năm vẻ Lấp bể ra công đất một hòn ( Gửi cụ thủ khoa Phan) Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh nhƣ bao nghĩa sĩ yêu nƣớc khác nhƣng ông có cảm tình nồng hậu đối với những ngƣời làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xƣơng bằng tất cả sự kính mến, khâm phục. 3. Triết lý sống của Tú Xƣơng giữa thời buổi loạn ly của đất nƣớc: Triết lý sống của Tú Xƣơng đặc biệt không giống ai giữa thời buổi loạn ly. Ông sống giả câm, giả điếc, làm ngơ trƣớc dƣ luận. Sống nhƣ ông phải có kiểu cách riêng, giống nhƣ hình ảnh của chú Mán ở Nam Ðịnh: Khi để chỏm, lúc cạo đầu Nghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa ta Chẳng đội nón chịu màu da dãi nắng, Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời, Chốn quyền môn lòn cúi mặc ai, Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết. ( Chú Mán) Thái độ sống khác của Tú Xƣơng có phải chăng là thái độ chống đối của nhà thơ trƣớc thời cuộc? Ông không muốn hòa vào cuộc sống ngột ngạt không lối thoát này, không muốn hợp tác với cái văn minh trong thời kỳ nƣớc mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi ngƣời đang tìm cách chen chân vào thì Tú Xƣơng tách khỏi nó. Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do, không chịu cúi lòn làm nô lệ. Triết lý sống của Tú Xƣơng nếu đem đặt bên cạnh triết lý sống của các nhà chiến sĩ yêu nƣớc là xả thân vì nƣớc lúc bấy giờ thì triết lý sống của Tú Xƣơng có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhƣng nói chung, triết lý sống của ông đã phần nào phản ảnh đƣợc tâm trạng của lớp ngƣời sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƢƠNG: 1. Kết cấu: Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 108 1.1.Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú. Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Tú Xƣơng sử dụng tiếng cƣời làm vũ khí. Ở Tú Xƣơng không có cái nhàn nhạt, cái lƣng chừng, cƣời là cƣời phá, chửi là chửi độc, chua chát đến ứa mật, ứa máu. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thƣờng độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xƣơng đã quàng vào cổ ông Hàn nọ ( Vốn làm nghề nấu rƣợu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn: Hàn lâm tu soạn kém gì ai? Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai ( Ðưa ông hàn) Cái tài tình của Tú Xƣơng là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và hài hƣớc của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi ngƣời xem có khi ở câu đầu: Lúc túng toan lên bán cả trời Trời rằng thằng bé nó hay chơi ( Tự cười mình) Có khi ở cuối câu: Cụ Xứ có cô con gái đẹp Lăm le xin bố cưới làm chồng ( Ði thi nói ngông) Có khi mƣợn lối chơi chữ: Ấm không ra ấm, ấm ra nồi Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi ( Bỡn ông ấm Ðiềm) Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tƣợng mà hạ một ý thật lạ lùng: Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo, Dây vũ dây văn vụng ngón đàn ( Thông gia với quan) Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tƣợng là anh chồng ngu”: Thọ kia mày có biết hay chăng Con vợ mày kia xiết nói năng Vợ đẹp của người không giữ được Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng Nhƣng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt: Ra đường đáng giá người trinh thục Trong bụng sao mà những gió trăng, Mới biết hồng nhan là thế thế, Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng. Có thể nói, Tú Xƣơng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trƣớc hết vì tiếng cƣời của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cƣời trào phúng của Tú Xƣơng rất chắc, hiệu quả cao. 1.2.Thơ trữ tình của Tú Xƣơng: Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng. Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . . thể hiện cái sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhƣng rất đáng quý, đã hình thành nên tính cách Tú Xƣơng. Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại: Em gửi cho anh mãnh lụa đào Không biết rằng em bán thế nào Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 109 ( Tặng người quen) Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xƣơng tuy không phong phú và đa dạng nhƣ thơ trào phúng nhƣng cũng rất sâu sắc và đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thực nhƣ bản thân đời sống . Hình ảnh bà Tú đƣợc tái hiện bằng những nét rất thực: Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. ( Thương vợ) Bài thơ Nhớ bạn phƣơng trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc trữ tình của nhà thơ đối với nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ta nhớ người xa cách núi sông, Người xa, xa lắm nhớ ta không? Sao đang vui vẻ ra buồn bã Vừa mới quen nhau đã lạ lùng Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng Khi riêng riêng đến cả tình chung Tương tư lọ phải là trai gái, Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng. 1.3.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình: Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng nhƣ trong tính tình đã đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định: Việc bác không xong tôi chết ngay! Chết ngay? Như thế vội vàng thay! ( Bỡn người làm mối) Hỏi lão đâu ta?- Lão ở Liêm Trông ra bóng dáng đã hom hem ( Già chơi trống bỏi) Người đói ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nào có tiếc không cho ( Thề với ăn xin) Rất nhiều bài thơ của Tú Xƣơng có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thi hƣơng năm Ðinh Dậu, Thƣơng vợ, Thề với ăn xin . . .) Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú Xƣơng không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãng mạn, là vì thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình 2. Ngôn ngữ và chất liệu dân gian: 2.1. Ngôn ngữ: Tú Xƣơng là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh. Ngôn ngữ giản dị, chính xác, uyển chuyển, gợi hình và có tính chất dân gian ( Ði hát mất ô) đƣợc xem là bài duyên dáng, hóm hĩnh, độc đáo của Tú Xƣơng vì ông đã thể hiện đƣợc cái thần của bài thơ. Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tƣơi mát, tự nhiên mà vẫn thanh nhã, óng chuốt. Mấy câu sau đây nhƣ lời nói ở cửa miệng, không thêm bớt mà rất chân thành: Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà, Trước nhà có miếu, có cây đa Cửa hè sân ngõ chừng ba thước, Nửa tá tre pheo đủ một tòa . . . ( Ông ấm Ðiềm) Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 110 Hoặc đây là cách nói ngang tàng nhƣng rất tự nhiên: Gái tơ đi lấy làm hai họ Năm mới vừa sang được một ngày ( Viếng cô Ký) Hai họ là vợ hai, đối với Một ngày tức mùng một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái vỏ của phép đối mà vƣợt qua những ràng buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xƣơng không những êm tai, sƣớng miệng mà còn rất độc đáo, có giá trị châm biếm cao. 2.2.Chất liệu dân gian: Nhiều thành ngữ dân gian, ca dao đã đi vào thơ Tú Xƣơng bằng sự sáng tạo riêng. Các thành ngữ nhƣ Học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắng mưới mưa, thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ. Vuốt râu nịnh vợ con bu nó Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. Tú Xƣơng rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao còn thể hiện cái tình tứ, duyên dáng, hóm hỉnh của nhà thơ. Ai ơi còn nhớ ai không? Trời mưa một mảnh áo bông che đầu Nào ai có tiếc ai đâu Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô? Người đi tam đảo, ngũ hồ. Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình. Non non, nước nước, tình tình Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ ( Áo bông che đầu) IV. KẾT LUẬN: Về nội dung, thơ trào phúng và trữ tình của Tú Xƣơng có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xƣơng là tiếng nói, là nỗi lòng của tầng lớp nho sĩ đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. Về nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ tình, Tú Xƣơng xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc, xứng đáng đƣợc Yên Ðỗ ( Nguyễn Khuyến) nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử : Kìa ai chín suối Xương không nát Có nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiaotrinhvhtrungdaivn_p2_3378.pdf