Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này đáp ứng được những điều kiện mới và những đòi hỏi mới là một vấn đề thực sự cấp bách nhưng tuyệt đối không được nóng vội, cần phải hết sức thận trọng và có chiến lược cụ thể để không mắc phải những sai lầm đáng tiếc và thu được kết quả tốt nhất.

docx31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 6710 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu hơn, trọn vẹn và toàn diện hơn trên thị trường thế giới. Mỗi doanh nghiệp Việt Nam đứng trước thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau, họ phải chịu áp lực từ nhiều phía, cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong việc phát triển. Đặc biệt, sau khi ra nhập WTO doanh nghiệp nhỏ và vừa càng khẳng định tầm quan trọng và chỗ đứng cho thị trường Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì DNNVV vẫn còn nhiều yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy việc tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV trong bối cảnh hiện nay mang một ý nghĩa hết sức to lơn về mặt lí luận và thực tiễn. I.NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DNNVV 1.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của nó so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng, tồn tại và vươn lên trên thị trường cạnh tranh trong nước và quốc tế về một hay một hay nhiều sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp để thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp mình” 1.2. Năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa Khái niệm Theo Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được hiểu là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. - Luật doanh nghiệp Việt Nam - Ưu thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa - Dễ thành lập vì đòi hỏi vốn ít (có thể với vốn tự có, vốn vay mượn người thân, tổ chức tín dụng), diện tích mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản. - Quy mô nhỏ, năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh. - Nhạy bén với cơ chế thị trường, dễ gia nhập và rút lui. - Dễ đổi mới trang thiết bị, công nghệ, chúng gắn liền với công nghệ trung gian là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. - Thu hút lao động với chi phí thấp và do đó có thể giảm chi phí, hạ giá thành. - Khai thác được thị trường trong nước... Hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa * Khó khăn về vốn: Đối với doanh nghiệp nói chung thì vốn là một trong những nhân tố quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả, không chủ động, khó đổi mới nếu tiềm lực tài chính hạn hẹp. Thế nhưng, một thực tế đáng buồn là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ tình trạng thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính lớn nhất. * Thực trạng về nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ: - Nhìn chung, chất lượng lao động ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp, lao động ít được đào tạo chính quy mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, kinh nghiệm. Hơn nữa, lao động ít được đào tạo tay nghề và nâng cao tay nghề nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng hoá. - Năng lực và hiệu quả quản lý của các chủ doanh nghiệp còn yếu kém: Đội ngũ chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo đầy đủ. - Hầu hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược nhân sự, chưa có sự quan tâm thích đáng đến sự đào tạo và phát triển lao động. * Trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ở mức thấp và chậm tiến bộ:. * Thiếu mặt bằng sản xuất: Đây là một thực tế phổ biến đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đại đa số các doanh nghiệp này phải tự xoay sở, tìm kiếm đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, để có đất các doanh nghiệp này phải mua lại đất của người khác với chí phí rất cao. Mặt khác, diện tích đất nhà nước có để cho thuê thường quá ít so với nhu cầu ở một số tỉnh thành phố tập trung nhiều doanh nghiệp mà nếu có để cho thuê thì giá lại rất cao, phải trả tiền một lần cho thời gian dài từ 10 - 50 năm. Điều này vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và chi phí đất cao dẫn đến chi phí sản xuất nói chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng khiến giá thành sản phẩm tăng, giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Khó khăn về thị trường: Khó khăn về thị trường là một trong những khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến hai nguyên nhân: Từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ và từ môi trường bên ngoài. - Về phía doanh nghiệp: Phải thừa nhận rằng năng lực thị trường, năng lực cạnh tranh của hàng hoá ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu do: + Vì không có chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như chưa có kế hoạch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn theo kiểu thời vụ. + Thiếu thông tin về thị trường: Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu thị trường nên không biết rõ về khách hàng và các đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Dó đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm nhiều đến việc phát triển sản xuất những gì thị trường cần mà chủ yếu sản xuất, kinh doanh và bán những gì mà mình có nên năng lực cạnh tranh chưa cao. + Sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực cạnh tranh rất yếu: sản phẩm thường có chất lượng thấp, mẫu mã xấu mà giá thành lại cao do chi phí đầu vào quá cao nên trong nước rất khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu thường có chất lượng cao hơn, mẫu mã đẹp hơn và nhiều khi giá thành của chúng lại còn rẻ hơn. Nhiều sản phẩm không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu chứ không nói gì đến việc cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác trên thị trường quốc tế. Và phần lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế vì các chi phí sản xuất rất cao so với các nước khác đặc biệt là các nước Đông Nam Á (những nước mà thường có chung thị trường với ta). + Do chưa nhận rõ vai trò của thương hiệu nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm đến việc xây dựng và đăng ký bảo hộ thương hiệu. + Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đầu tư thích đáng vào hoạt động xúc tiến thương mại như: tiếp thị, triển lãm, quảng cáo, hội chợ nên cũng làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ. - Về phía môi trường bên ngoài: + Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ là tương đối còn các loại thị trường khác chưa có hoặc còn rất manh múm. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn... đang là khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về cơ bản vẫn là cơ chế “xin - cho” nên rất bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Điều kiện thị trường chưa bình đẳng, còn nhiều doanh nghiệp lớn độc quyền trên một số lĩnh vực, làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi mới ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. + Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp. Các hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị chèn ép do hàng nhập lậu tràn lan, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh. + Hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc quy định mức vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Việc liên kết, hợp tác kinh doanh của các doanh nghiệp còn rất hạn chế: Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều hoạt động theo kiểu mạnh ai nấy chạy còn sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp còn rất hạn chế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn không có khả năng tham gia sản xuất, kinh doanh ở những ngành nghề, lĩnh vực đòi hỏi có nguồn vốn lớn và công nghệ cao. * Chí phí sử dụng các dịch vụ quá cao: Mặc dù kết cấu hạ tầng ở nước ta tuy đã được đầu tư và cải thiện đáng kể trong những năm gần đây nhưng vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Tình trạng áp đặt giá cao của các dịch vụ trong khi chất lượng dịch vụ thấp, làm cho chi phí đầu vào cho các dịch vụ mà các doanh nghiệp sử dụng trở nên quá cao so với các nước trong khu vực, chẳng hạn như: tình trạng cung ứng điện với điện áp không ổn định và cắt điện bất thường; giá dịch vụ viễn thông quốc tế, phí Internet tại nước ta ở mức cao nhất khu vực mà tốc độ truyền dẫn chậm; chi phí bốc xếp ở các cảng, phí lưu kho đều cao cộng với thủ tục rườm rà đã làm cho các doanh nghiệp tốn nhiều thời gian và chí phí. * Khó khăn về môi trường pháp luật (thể chế kinh tế): Mặc dù đã cố gắng trong việc ban hành và sửa đổi hệ thống pháp luật, trong đó có những tiến bộ rõ rệt như Luật Doanh Nghiệp và các chính sách cởi mở về xuất khẩu... nhưng nhìn chung thì hệ thống pháp luật về kinh tế ở nước ta chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, không ổn định và chưa bình đẳng với các doanh nghiệp (kể cả khi thành lập doanh nghiệp cũng như khi đi vào hoạt động kinh doanh), chậm cải tiến so với các nước trong khu vực, nhiều nội dung chưa phù hợp với pháp luật quốc tế về kinh tế. Nhiều quy định pháp luật hiện nay còn rắc rối, rườm rà Do đó, môi trường kinh doanh ở nước ta rất khó dự đoán, thiếu tính ổn định. Các thể chế kinh tế chưa thực sự phát huy vai trò hướng dẫn trong kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Hơn nữa thì ý thức tuân thủ và thực hiện pháp luật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, pháp luật của ta có quá nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang bộc lộ nhiều khiếm khuyết khá nghiệm trọng như: Trốn lậu thuế; một số doanh nghiệp còn trốn đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng đăng ký; làm hàng giả, hàng kém chất lượng... Với cung cách làm ăn như thế này các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta rất khó có thể tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập, nơi mà những thể chế, quy định là khá chặt chẽ và nghiêm khắc. * Khó khăn vì chưa có sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước và các hiệp hội: Đây là một khó khăn rất lớn, vì thiếu sự hỗ trợ thích đáng như (hỗ trợ lập nghiệp, chuyển giao công nghệ, bảo lãnh tín dụng...), các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn nhất là khi các doanh nghiệp này đã và đang phải chụi sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn từ phía các doanh nghiệp lớn từ nước ngoài xâm nhập vào nước ta và trên thị trường quốc tế. II. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Tình hình phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời kì hiện nay Vài nét tổng quan về DNNVV VN: Tình hình trước hội nhập Trong quá trình hơn 20 năm đổi mới (1986-2007) nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng. Theo đánh giá của Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 thì thành công đối với đổi mới đã đưa “nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng và kéo dài” xu hướng phát triển kinh tế hiện nay rất tích cực và mạnh mẽ. GDP đã và đang đạt tốc độ tăng trưởng nhanh (năm 2005 là 8,4% , năm 2006 là 8,17% , năm 2007 là 8,48% ) và mức tăng trưởng bình quân từ 2001 đến 2005 là 7,5% / năm. Bảng: Số lượng doanh nghiệp khu vục kinh tế tư nhân và số vốn đăng ký hàng năm. Năm Số lượng doanh nghiệp Vốn ( tỷ đồng ) 1991 110 118 1992 3985 3015 1993 7421 3458 1994 7176 2588 1995 6158 2880 1996 5484 2506 1997 4636 2987 1998 4252 4042 1999 5782 6575 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Bảng: Tổng hợp tình hình đăng ký kinh doanh doanh nghiệp dân doanh Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005 Tổng số doanh nghiệp đăng ký mới DN 19.523 21.523 27.571 36.795 45.162 151.004 DN tư nhân - số lượng - % so với tổng số DN % 7.100 35,9 6.532 30,3 7.813 28,2 102.823 29,7 12.500 27,7 44.228 29,3 Công ty TNHH – Số lượng - % so với tổng số Công ty % 12.121 56,2 12.627 58,7 5.781 56,9 19.943 54,2 24.500 54,2 83.972 55,6 Công ty cổ phần – Số lượng - % so với tổng số Công ty % 1.550 7,8 2.305 10,7 4.058 14,6 6.438 17,5 8.000 17,7 22.351 14,8 Công ty hợp danh – Số lượng - % so với tổng số DN % 2 0,01 0 0 1 0,604 7 0,002 9 0,002 19 0,01 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư 2005 ) Qua bảng số liệu trên ta thấy giai đoạn 1997-1998, số lượng doanh nghiệp suy giảm. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có tác động quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,những yếu kém của bản thân các doanh nghiệp, cùng với sự hạn chế của chính sách, giải pháp kinh tế vĩ mô chưa theo kịp tình hình. Theo số liệu thốn kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư, mức vốn đăng ký bình quân/doanh nhgiệp trong giai đoạn này là 0,625 tỷ đồng. Tuy nhiên trong cả giai đoạn và nhất là sau khi Luật doanh nghiệp được thực thi, con số ngày ngày càng có xu hướng tăng cao, chứng tỏ được sức mạnh phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp vửa và nhỏ. Giai đoạn 2000-2007 : Từ năm 2000-2007, môi trường kinh doanh đã được cải thiện nhờ tác động của Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp mới đã được giải phóng tư duy, sức sáng tạo và ý tưởng kinh doanh, phương thức tổ chức kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp và số vốn đầu tư trực tiếp phát triển kinh doanh liên tục tăng nhanh, tạo thêm nhiều triệu chỗ làm việc mới, đóng góp tích cực tăng kim gạch xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách, là nhân tố đáng kể góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng. Theo báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật doanh nghiệp của Bộ kế hoạch và đầu tư, kể tử năm 2000-2004 số lượng doanh nghiệp mới đăng ký liên tục tăng nhanh với tốc độ chưa từng thấy ( tăng gấp 3.5 lần so với 9 năm trước, chỉ riêng năm 2005 đã có 45.162 doanh nghiệp đăng kí ). Số doanh nghiệp dân doanh mới đăng ký trong 5 năm (2001-2005 ) là 151.004 doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp tư nhân là 44.228 doanh nghiệp so với tổng số. Công ty TNHH là 83.972 công ty chiếm 55,6% so với tổng số công ty. Công ty cổ phần là 22.351 công ty chiếm 14,8% so với tổng số. Công ty hợp danh là 19 công ty chiếm 0,01% so với tổng số ( bảng trên ). Vài nét tổng quan về DNNVV ở Việt Nam: Sau hội nhập WTO Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sau khi ra nhập WTO, số lượng doanh nghiệp tham gia kinh doanh ngày một tăng .Luật doanh nghiệp đã sửa đổi cởi trói cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tăng nhanh về số lượng và kim ngạch buôn bán có khi lên tới hàng triệu đô la, sau ba năm ra nhập WTO doanh nghiệp Việt Nam đã thâm nhập nhiều thị trường hơn .Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu của VN đã có hầu hết trên thị trường thế giới như cà phê, dệt may, cao su, thủy sản…..Việc phát trển hệ thống ngân hàng và bảo hiểm đã mở cho kênh tài chính tài chính tốt và có tính chất cạnh tranh hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở VN ,cho phép các doanh nghiệp cạnh tranh toàn cầu nhờ internet và thương mại trực tuyến.Việc cải cách hệ thống tài chính cạnh tranh cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ ,với các dịch vụ tài chính mới trong các lĩnh vực thuê tài chính ,giải chấp thanh toán ,tư vấn tài chính và dịch vụ thông tin Với môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện như vậy, hầu hết các ngành của VN đề giữ tốc độ tăng trưởng cao so với nhiều nước trong khu vực. Năm 2008 ,tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịc vụ tăng 31% so với năm 2007. Xuất khẩu mặt hàng chủ lực thuộc các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều tăng rõ rệt Ví dụ: Hàng linh kiện và máy đạt 2,7 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2007, hàng dệt may đạt 9,1 tỷ ,tănqg 17,5% sản phẩm gỗ đạt 2,78 tỷ USD , tăng 16,5% cà phê đạt2,02 tỷ USD , tăng 5,8 % .Trong năm 2009 mặc dù vẫn có sự tăng đáng kể với sản phẩm gạo tăng 25,4% , cà phê tăng 10,2% , than đá tăng 29,9% và cao su tăng 10,3%. Tuy nhiên, trong những năm qua, sự cạnh tranh đã diễn ra quyết liệt trên thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước do đó một số doanh nghiệp nhỏ và vừa đã gặp nhiều khó khăn hơn trong việc duy trì tăng trưởng do còn nhiều hạn chế đã nếu trên. Tỷ suất lợi nhuận giảm ( từ 2 con số giảm xuống 1 con số) thậm chí năm 2008 một số danh nghiệp đã âm về lợi nhuận. Các doanh nghiệp chưa chưa chủ động nắm bắt các cơ hội đem đến từ hội nhập,chỉ có 20% các doanh nghiệp VN có nghiên cứ tận dụng về thuế quan ,xuất xứ hàng hóa. Trong quá trình đối đầu thử thách vừa qua ,hiện chỉ có 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng thích nghi tồn tại và phát triển, còn có 60% đang gặp khó khăn nhiều mặt, số 20% doanh nghiệp còn lại ko thích nghi đc và bị phá sản. 2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay 2.2.1. Các yếu tố cấu thành sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa a. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Chiến lược của doanh nghiệp xác định lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, mục tiêu và kỳ vọng trong lĩnh vực đó. Trên cơ sở đó thì đề ra cách thức phân bổ nguồn lực để có thể đạt được mục tiêu đã đề ra. Một doanh nghiệp nếu xây dựng được chiến lược đúng đắn sẽ cho phép nó xác định đúng hướng đi của mình, sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực để có thể tạo ra những lợi thế so với đối thủ cạnh tranh và cho phép thành công trong cạnh tranh. b. Quy mô của doanh nghiệp Quy mô của doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có lợi thế quy mô như có nguồn tài chính vững mạnh, số lượng đông đảo nhân viên có năng lực, thị phần lớn sẽ có năng lực cạnh tranh cao. Doanh nghiệp có thể sử dụng lợi thế quy mô để tạo ra rào cản ngăn cản các đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường, mở rộng thị trường, khẳng định vị thế của mình trên thị trường. c. Năng suất lao động Năng suất lao động cũng là một nhân tố quan trọng cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng suất lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như văn hoá tổ chức, công nghệ của doanh nghiệp, hiệu quả của công tác quản lý nhân sự... Năng suất của doanh nghiệp cao sẽ làm tăng sản lượng, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí, hạ giá thành dẫn đến nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. d. Sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp + Chất lượng và giá cả sản phẩm Như đã nói ở trên, cả chất lượng và giá cả đều là những công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chúng luôn đi liền với nhau, nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng bảo đảm với giá mà thị trường có thể chấp nhận được thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao. Tuy vào từng loại thị trường, loại sản phẩm, khách hàng... mà doanh nghiệp kinh doanh mà doanh nghiệp nên chú trọng chất lượng hay giá cả hoặc cả hai để có thể tạo được năng lực cạnh tranh tốt nhất cho mình. + Tính đa dạng và khác biệt của sản phẩm Trong kinh doanh hiện đại, khi mà điều kiện thị trường phức tạp, hay thay đổi, cạnh tranh gay gắt thì rất hiếm doanh nghiệp kinh doanh một loại sản phẩm vì như vậy sẽ khó tránh khỏi rủi ro. Do đó, các doanh nghiệp thường lựa chọn chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, nó cho phép doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, giảm bớt rủi ro, tăng uy tín của doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp cố gắng tạo ra cho sản phẩm của mình những tính năng nổi trội, độc đáo để tăng sự hấp dẫn, từ đó tăng năng lực cạnh tranh của mình. Do đó, tính đa dạng và khác biệt của sản phẩm cũng là một nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. e. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường Vị thế của doanh nghiệp biểu hiện ở thị phần, sức mạnh và khả năng chi phối của doanh nghiệp trên thị trường. Nó cho phép doanh nghiệp thực hiện một cách thuận lợi các biện pháp cạnh tranh của mình và khả năng ảnh hưởng đến khách hàng, các đối tác cũng như các đối thủ cạnh tranh. Vị thế của doanh nghiệp càng cao thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. 2.2.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 2.2.2.1. Thị phần của doanh nghiệp Thị phần là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh thế mạnh trên thị trường của một doanh nghiệp. Thị phần lớn tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ thấp chi phí sản xuất do lợi thế về quy mô, đồng thời củng cố lòng tin của khách hàng. Doanh thu của doanh nghiệp Thị phần của doanh nghiệp = -------------------------------------- x 100 Tổng doanh thu của toàn ngành Chỉ tiêu càng lớn phản ánh vị trí càng cao của doanh nghiệp trong ngành. 2.2.2.2. Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng doanh Tốc độ tăng doanh thu của doanh nghiệp thu của DN so với = ------------------------------------------------ x 100 đối thủ cạnh tranh Tốc độ tăng doanh thu của đối thủ cạnh tranh Nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì chứng tỏ doanh thu của doanh nghiệp tăng nhanh hơn doanh thu của đối thủ cạnh tranh, do đó doanh nghiệp có thể có năng lực cạnh tranh cao hơn đối thủ cạnh tranh và ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thấp hơn đối thủ cạnh tranh. 2.2.2.3. Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận của doanh nghiệp Tỷ suất lợi nhuận = -----------------------------------x 100 Doanh thu của doanh nghiệp Chỉ tiêu này cho thấy nếu thu được 100 đồng doanh thu thì sẽ có bao nhiêu đồng lợi nhuận trong đó. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ DN làm ăn hiệu quả đồng thời phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cao. 2.2.2.4. Tỷ trọng chi phí Tổng chi phí Tỷ trọng chi phí = ---------------------- x 100 Tổng doanh thu Chỉ tiêu này phản ánh để thu được 100 đồng doanh thu thì phải mất bao nhiêu đồng chi phí. Nếu chỉ tiêu này quá cao thì chứng tỏ doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn lực là chưa hiệu quả và cần có biện pháp giảm chi phí để tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Bối cảnh mới 3.1.1.Các nhân tố quốc tế Làn sóng toàn cầu hóa và khu vực hóa Quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa gia tăng và kéo theo nó là sự xuất hiện các thể chế khu vực và quốc thế dưới nhiều cấp độ, sự chuyển hướng sang nền kinh tế tri thức của các nước dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, làn sóng sáp nhập và thôn tính công ty được diễn ra mạnh mẽ trên khắp các châu lục và kết quả là nhiểu công ty xuyên quốc gia có quy mô lớn đã ra đời. Bên cạnh những thay đổi lớn mang tính kinh tế, là nhưng thay đổi trong lĩnh vực chính trị quốc tế gây ảnh hưởng lên bối cảnh cạnh tranh quốc tế giữa các quốc gia, các doanh nghiệp, trong đó phải kể đến xu hướng hòa bình, đối thoại, hợp tác vì sự phát triển . Tham gia tích cực vào quá trình này không chỉ có các nước phát triển, mà cả các nước đang phát triển, được biểu hiện thông qua quá trình tự do hóa thương mại, đầu tư và hội nhập khu vực quốc tế khác nhau. WTO luôn được mở rộng trong thời gian qua (năm 2009 có 153 thành viên và thành Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150 vào cuối năm 2006). Khoảng trên 250 Hiệp định thương mại tự do khu vực đã được kí kết trong phạm vi WTO, ½ số đó được đăng kí sau ngày 1-1-1995, hầu như mỗi nước trên thế giới đều tham gia ít nhất 1 hiệp định thương mại khu vực. Cùng với những biện pháp vể giảm dần hàng rào thương mại thuế quan và phi thuế quan, các nước tham gia còn đưa ra những cam kết về hài hòa hóa về thủ tục hải quan, các tiêu chuẩn kĩ thuật cũng như các vấn đề liên quan đến việc điều tiết chúng, đưa ra các quan điểm thống nhất về hàng rào phi thuế quan, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Sự nở rộ của các hiệp định thương mại khu vực và sự tham gia tích cực vào hệ thống thương mại toàn cầu chứng tỏ các nước ngày nay không chỉ muốn khai thác những lợi thế so sánh trong phạm vi nền kinh tế quốc gia, mà cả trong khu vực và toàn cầu. Sự xâm nhập của các dòng hàng hóa, và dịch vụ và vốn từ bên ngoài vào phạm vi một nước làm gia tăng số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nội địa của các nước đó, từ đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nước ngoài vào trong nước trở nên căng thẳng hơn. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng đối với các nước đang phát triển nhất là các nước có trình độ phát triển còn thấp như Việt Nam, dòng hàng hóa, dịch vụ và đặc biệt vốn trực tiếp từ nước ngoài đổ vào đã và đang góp phần cải thiện trình độ công nghệ, đa dạng hóa nguồn hàng hóa, dịch vụ được cung cấp ở nước tiếp nhận. Ngoài ra, cần ghi nhận rằng quá trình khu vực hóa đã và đang hình thành nên các mạng lưới sản xuất khu vực. Mỗi thành viên có thể tham gia vào một số công đoạn của quá trình sản xuất để tạo nên những sản phẩm hoàn chỉnh có sức cạnh tranh cung cấp ra thị trường thế giới. Như vậy có thể nói, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa được tăng cường gần đây, một mặt đã làm gia tăng cạnh tranh giữa các nước, các doanh nghiệp các nước, các doanh nghiệp của họ để giành thị trường. Nhưng mặt khác chính các nước, các doanh nghiệp này có thể hợp tác với nhau để khai khác tốt những lợi thế so sánh của mình nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới rộng hơn. Trong điều kiện toàn cầu hóa, cạnh tranh giữa các nước, các doanh nghiệp của họ không mang tính chất đối đầu, mà trong sự hợp tác với nhau giữa các bên tham gia để cạnh tranh có hiệu quả hơn. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà ở đó tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phố trao đổi và tiêu thụ, là nền kinh tế lấy công nghệ thông tin làm hạ tầng cơ sở, lấy thị trường toàn cầu làm phạm vi hoạt động, lấy mạng lưới hóa các DN làm phương tiện để truyền tải, thân thiện với môi trường và có khả năng làm biến dạng chu kì kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là vai trò của yếu tố tài nguyên, lao động, thậm chí cả vốn hữu hình đã và đang giảm đi trong nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện ấy lợi thế so sánh của các quốc gia, các ngành, các doanh nghiệp cũng thay đổi. Nó được xác định chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực, khả năng ứng dụng công nghệ và sáng tạo công nghệ mới. Làn sóng sáp nhập và thôn tính các công ty Làn sóng sáp nhập các công ty diễn ra mạnh mẽ trên khắp các châu lục trong nhiều năm qua, và kết quả là nhiều công ty xuyên quốc gia có quy mô lớn đã ra đời. Đứng trước nhu cầu phải cơ cấu lại sản xuất, sát nhập là một phương thức làm ăn tăng hiệu quả sản xuất. Song mức độ tập trung sản xuất quá cao trong các cơ sở sáp nhập rất có thể ảnh hưởng đến cạnh tranh trong mỗi lĩnh vực cụ thể, cũng như cạnh tranh quốc tế nói chung. Các nhà nghiên cứu cho rằng cần phải xem xét vấn đề này dưới hai khía cạnh. Thứ nhất : Coi sát nhập là một hoạt động thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu. Dưới góc độ này, sáp nhập có xu hướng thúc đẩy cạnh tranh trong chừng mực mà sáp nhập giúp một số doanh nghiệp thoát ra khỏi lĩnh vực sản xuất đã bão hòa và đưa một số nhân tố mới vào các lĩnh vực đang phát triển. Bên cạnh đó, các cuộc sáp nhập còn đẩy nhanh tốc độ quốc tế hóa và qua đó đẩy mạnh việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Thứ hai : Xem xét sáp nhập của chính sách cạnh tranh. Dưới góc độ này, sáp nhập có thể gây cản trở cạnh tranh, bởi quy mô quá lớn. Vì lí do đó cho đến nay, nhiều vụ sáp nhập không được phép thực hiện như vụ sáp nhập giữa VOLVO và SCANIA trong SPRINT trong ngàng viễn thông của Mỹ.Thông thường, các vụ sáp nhập theo chiều dọc thường bị xem xét rất kỹ khi cho phép bởi nguy cơ làm giảm cạnh tranh của chúng và sẽ dễ được chấp nhận hơn nếu bên mua đưa ra dự án về việc thu hẹp hoặc bỏ bớt một số hoạt động kinh doanh khác. Những phân tích trên đây cho ta đi đến nhận định rằng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày nay vẫn khốc liệt, song giữa các bên tham gia luôn muốn hợp tác với nhau trong sản xuất kinh doanh. Do sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong nền kinh tế dưới tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa, do phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp được mở rộng và do sự hạn chế của các nguồn lực và phân bổ không đồng đều của chúng. Trong điều kiện chính sách đối thoại và hợp tác phát triển đang thắng thế trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, xu thế gia tăng cạnh tranh trong sự hợp tác giữa các doanh nghiệp sẽ được tiếp tục trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Các nhân tố trong nước Các nhân tố kinh tế và chính sách thị trường Công cuộc đổi mới đã làm cho kinh tế nước ta khởi sắc và ngày càng năng động hơn, thị trường trong nước tăng nhanh, thị trường ngoài nước được mở rộng. Kinh tế ổn định, nền sản xuất phát triển, hàng hóa và dịch vụ tương đối đa dạng phong phú, lưu thông thông thoáng,quan hệ cung cầu về hàng hóa và dịch vụ ngày càng được cải thiện,tạo điều kiện ổn định về giá cả, về môi trường kinh doanh cho nền kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng. Tiếp tục khôi phục những thị trường truyền thống đang phát huy hiệu quả. Chính phủ đã quan tâm đặc biệt đến các thị trương không đòi hỏi hạn ngạch, tăng cường vai trò của hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài việc cung cấp thông tin thương xuyên bởi Thông vụ Việt Nam ở nước ngoài còn có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường, kể cả việc đăng kí chỉ tiêu xuất khẩu vào thị trường để trực tiếp giúp các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính trị pháp luật Pháp luật và kinh tế ngày càng phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Khuyến khích mọi tổ chức,cá nhân đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khằng định nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Chính sách thương nhân quy định các điều kiện thủ tục đăng kí kinh doanh và phạm vi hoạt động của thương nhân, quyền hạn và nghĩa vụ của thương nhân. Chính sách thuế nhập khẩu và chính sách mặt hàng Trong những năm qua, đi đôi với việc sửa đổi cơ chế quản lý ngoại tệ, xây dựng một chính sách tỷ giá thích hợp, chính sách thế xuất nhập khẩu cũng được hết sức quan tâm. Hàng loạt những thay đỗi những quy định mới đã được đưa ra để hoàn thiện theo hướng mở hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, công tác hải quan cũng được tăng cường, sự phối hợp giữa hải quan và các bộ, các ngành và các nước có chung biên giới để chống buôn lậu. Chính phủ tạo mọi điều kiện tối đa đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng đang là chủ lực như : gạo, cao su, cà phê, lạc… đồng thời khuyến khích mở rộng thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới như rau quả, hoa quả, thịt, hàng chế tạo cơ khí… Các nhân tố xã hội Một trong những lợi thế so sánh được công nhận rộng rãi của Việt Nam là có lực lượng lao động rẻ, dồi dào. Xét về lượng, Việt Nam có lực lượng tương đối đông đảo và ngày càng tăng, tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm trong hàng hơn một thập kỷ qua là 1,7% và tổng điều tra từ năm 1995 đến 2009 là 1,2%/năm. Mức trung bình hàng năm của dân cư trong độ tuổi lao động là 2,6%, nếu so sánh với Thái Lan là 2,1%, Trung Quốc là 1,5%, Hàn Quốc là 2,3%, Inđônêsia là 2,2%, các nước Đông Á-Thái Bình Dương là 1,8%, Châu Âu là 0,8%. Với lực lượng lao động như vậy Việt Nam tránh được hiện tượng thiếu lao đông mà các nước đang phát triển nhanh như nước ta thường gặp phải. Chất lượng đội ngũ lao động ngày càng được cải thiện, đầu tư của nhà nước cho các chính sách xã hội những năm gần đây đạt 29% ngân sách. Tuy nhiên lao động của Việt Nam đang gặp phải những hạn chế cần khắc phục, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề và đào tạo chuyên môn ở Việt Nam quá thấp (20%) nhất là lao động nông thôn, không đáp ứng được yêu cầu của DN trong và ngoài nước. Năng suất lao động thấp dẫn đến chi phí lao động cao. Lao động có trình độ cao quá ít so với nhu cầu tăng lên của nền kinh tế. Sức khỏe người lao động nói chung chưa đáp ứng được nhu cầu lao động, chất lượng đào tạo thấp, trình độ đào tạo về ngoại ngữ thấp xa so với các nước… Với nguồn nhân lực nói trên, nếu biết phát huy đúng tiềm năng thì sẽ là một thuận lợi rất lớn trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngược lại, nếu không biết cách phát huy điểm mạnh, khăc phục điểm yếu, đào tạo đúng hướng thì lại là một cản trở lớn cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thởi kỳ toàn cầu hóa, các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp ngoại ngay cả trên san nhà. 3.2. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Từ một số thực trạng nói trên của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu (tiềm lực tài chính hạn hẹp; công nghệ lạc hậu; chất lượng lao động thấp; năng lực quản lý kém; chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn; hiểu biết về thị trường còn yếu; ít đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu phát triển, marketing, đào tạo nhân lực; chi phí đầu vào cao; sản phẩm kém chất lượng, mẫu mã không hấp dẫn mà giá lại cao nên năng lực cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại kém...). Hơn nữa, các thể chế kinh tế thiếu tính nhất quán, chưa đầy đủ, không ổn định cộng với môi trường kinh doanh chưa bình đẳng đã chưa có tác dụng giúp cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tóm lại, với năng lực hiện tại thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể đáp ứng được đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. MỘT SỐ GIẢI PHÁP Sau tiến trình hội nhập, chỉ có doanh nghiệp nào chuẩn bị tốt mới có cơ may tồn tại, nếu không thì nguy cơ bị đào thải, bị loại khỏi cuộc đua sẽ là tất yếu. Do đó, điều cấp bách hiện nay là phải tìm mọi biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để khắc phục những yếu kém trên, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa nhỏ để các doanh nghiệp này đủ điều kiện và chủ động hơn nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực thì cần nỗ lực cả từ hai phía: Bản thân các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình và song cũng cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước. 1. Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển dài hạn hơn. Trong đó phải xác định rõ những mục tiêu cần đạt được sau một thời gian nhất định, vạch ra những phương án phát triển dài hạn để đạt được mục tiêu của mình trên cơ sở thường xuyên phân tích, đáng giá những cơ hội, thách thức từ môi trường (trong đó phải chú ý đặc biệt vào việc phân tích khách hàng và đối thủ cạnh tranh), những điểm mạnh và điểm yếu của mình một cách nghiêm túc để tìm ra được phương án kinh doanh tối ưu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình. - Cần tăng cường các biện pháp giảm chi phí về nguyên vật liệu và năng lượng nhằm giảm chi phí đầu vào: + Tích cực, chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ tiến bộ và phương thức tổ chức sản xuất hiện đại phù hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp để tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. + Cơ cấu lao động trong dây truyền sản xuất, đào tạo tay nghề cho người lao động, giảm thiểu chi phí trung gian trong quá trình sản xuất, áp dụng các phương pháp quản lý sản xuất, kinh doanh tiên tiến... - Nâng cao trình độ nguồn nhân lực: + Trước hết cần xác định rõ mục tiêu đào tạo để đào tạo đúng hướng, tránh đào tạo tràn lan; + Dành một sự đầu tư hợp lý cho việc đào tạo nguồn nhân lực; + Xây dựng hệ thống quản lý nhân lực hiện đại trong các doanh nghiệp, bao gồm các nội dung như tuyển dụng, phân công công việc, đào tạo, đánh giá, trả lương, thưởng... + Đào tạo lại tay nghề cho người lao động; + Thường xuyên mở những lớp bồi dưỡng cho các cán bộ quản lý để có được đội ngũ các nhà quản lý đủ trình độ, năng động, nhạy bén. - Xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp: Tạo bầu không khí thoải mái, đoàn kết giữa các công nhân viên, có sự quan tâm của cấp trên với cấp dưới, xây dựng và phát triển các mối quan hệ phi chính thức tích cực... Chúng sẽ làm cho người lao động trung thành, nhiệt tình hơn, từ đó kích thích tăng năng suất lao động đáng kể, sản phẩm có chất lượng cao hơn. - Đầu tư thích đáng hơn nữa cho công tác nghiên cứu và dự báo thị trường: Để có được thông tin đầy đủ, chính xác về các loại thị trường đầu vào như vốn, công nghệ, nguyên vật liệu; và quan trọng là có được thông tin về đối thủ cạnh tranh và khách hàng để từ đó có những phương án kinh doanh tối ưu. - Phát triển sản phẩm dựa trên nhu cầu của thị trường: Phải sản xuất những sản phẩm, dịch vụ mà thị trường cần chứ không phải sản xuất, kinh doanh những gì mà mình có. Muốn vậy, thì doanh nghiệp cần phải: + Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (như là sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9004); + Tạo ra những sản phẩm có mẫu mã, kiểu dáng đẹp; tính năng độc đáo, nổi trội để có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế; + Sản xuất sản phẩm với chi phí thấp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh về giá so với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. - Mỗi doanh nghiệp cần tạo riêng cho mình một số sản phẩm mũi nhọn, có năng lực cạnh tranh, có thương hiệu riêng để khẳng định vị trí của mình trên thị trường. - Đẩy mạnh hoạt động Marketing: Xúc tiến hỗn hợp (quảng cáo, tiếp thị, bán hàng, khuyến mại...) trên cả những thị trường truyền thống và thị trường mới. Tích cực tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ để giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp mình, tiếp cận với những tiến bộ khoa học - công nghệ, đồng thời để tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường. - Đề cao văn hoá trong kinh doanh, xây dựng truyền thống và uy tín của doanh nghiệp. Muốn vậy, trước hết kinh doanh đúng pháp luật, tôn trọng chữ tín, cần đặt lợi ích của mình trong sự kết hợp hài hoà với lợi ích của cộng đồng và đất nước. - Tăng cường sự phối hợp, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh thay vì mạnh ai nấy chạy: + Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất cùng loại sản phẩm để hỗ trợ nhau khi thị trường biến động hoặc khi có đơn đặt hàng lớn, để xây dung thương hiệu hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Vì vậy cần nhanh chóng thành lập các hội nghề nghiệp, các tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; + Đồng thời, cần phải liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn; có sự phân công chuyên môn hoá, cung cấp nguyên liệu, sản phẩm đầu vào, đầu ra trên cơ sở các bên cùng có lợi. 2. Một số kiến nghị với nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - Cần phải xây dựng chiến lược cụ thể để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước nên đi tiên phong trong những lĩnh vực khó để mở đường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành các luật riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ (Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luật về bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ...), để tạo hành lang pháp lý thuận lợi và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hiện nay đã có Luật cạnh tranh nhưng cần nhanh chóng thực thi một cách có hiệu quả, và cần có thêm các luật chống độc quyền. - Hoàn thiện hệ thống chính sách: Khắc phục tình trạng chính sách thiếu nhất quán, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thực hiện không thống nhất giữa các cấp, các ngành; đơn giản hoá các thủ tục hành chính như thủ tục cấp giấy phép, xin giấy hải quan; xoá bỏ tình trạng nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp ở nhiều nơi. - Phát triển đồng bộ các loại thị trường: Trong đó, đặc biệt là các thị trường đầu vào (thị trường đất đai, thị trường lao động, khoa học - công nghệ, thị trường vốn trung và dài hạn). - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng để hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: + Trước hết, cần phải tạo một “sân chơi bình đẳng” để tất cả mọi doanh nghiệp đi vay đều phải tuân thủ những quy định giống nhau, bảo đảm để mọi khoản vay đều được thực hiện trên cơ sở phân tích tính khả thi của dự án; + Từng bước loại bỏ những thủ tục gay phiền hà cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đánh giá tài sản thế chấp, thẩm định dự án cho vay; + Cho vay với lãi suất ưu đãi, trợ cấp lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả; + Nhanh chóng thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ vay vốn; + Chấn chỉnh và đổi mới cơ chế hoạt động các dịch vụ tài chính ngân hàng, tăng cường nguồn vốn cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động thị trường chứng khoán - Đổi mới chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: Mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi (đặc biệt hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với các thiết bị sản xuất, linh kiện và nguyên vật liệu; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện tự tạo vốn). - Bảo hộ hợp lý hàng trong nước, chống nhập khẩu hàng lậu. - Tăng cường hỗ trợ việc nghiên cứu phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp: Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển giao công nghệ, tiến tới cạnh tranh bằng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao và tính độc đáo. - Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thông qua việc tăng cường mở các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý, các khoá tập huấn về quản trị kinh doanh cho giám đốc và cán bộ quản lý; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề cho các doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường, công nghệ, đối tác kinh doanh..., tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận và tìm hiểu thị trường quốc tế thông qua các hội chợ, triển lãm. - Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp khác nhằm tạo được sức mạnh tổng hợp; chính sách khuyến khích thành lập các hiệp hội hỗ trợ. LỜI KẾT Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này đáp ứng được những điều kiện mới và những đòi hỏi mới là một vấn đề thực sự cấp bách nhưng tuyệt đối không được nóng vội, cần phải hết sức thận trọng và có chiến lược cụ thể để không mắc phải những sai lầm đáng tiếc và thu được kết quả tốt nhất. Tài liệu tham khảo: 1. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2002, tr. 11 (trích luật doanh nghiệp VN). 2.Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2003, 3. Tham khảo giáo trình Khoa học quản lý, Tập I, NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, 2001. 4.Giáo trình chiến lược kinh doanh, NXB Thống Kê, HN – 1999. 5. Giáo trình Phân tích kinh doanh, NXB Giáo dục,tr. 262. 6. Tạp chí: Tài chính doanh nghiệp. 7. Tăng trưởng kinh tế VN 2009_2010 8. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB: Chính trị Quốc Gia. 9. Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.docx