Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tại thành phố Cần Thơ

Phát triển KTCT là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta trong xu thế hội nhập, tuy nhiên, sự nỗ lực của các ngành, các cấp của TP Cần Thơ trong thời gian qua là chưa đủ, cần phải chung tay nỗ lực nhiều hơn nữa, để từ đó có những chủ trương, chính sách mạnh mẽ và phù hợp với thực tiễn nhằm kích thích KTCT phát triển xứng với tiềm năng của nó, góp phần đưa kinh tế TP Cần Thơ lớn mạnh, đúng tầm của một đô thị động lực, trung tâm vùng ĐBSCL và cả nước. Qua kết quả nghiên cứu, có thể khẳng định KTCT là một nhân tố quan trọng, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội, là nơi quy tụ nhiều nhân tài, nguồn lực lao động, tiềm lực về vốn, tư liệu và công nghệ sản xuất,. KTCT tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp phần rất lớn trong việc xóa đói giảm nghèo, là khu vực kinh tế rất năng động, đa dạng về lĩnh vực kinh doanh, thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để có thể nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn tồn tại, thì sự hỗ trợ của chính quyền địa phương là yếu tố then chốt trong việc triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp. Song song đó, tự thân hộ kinh doanh phải thường xuyên học hỏi, trau dồi năng lực quản trị, liên kết và phối hợp với nhau thông qua các tổ chức hiệp hội, tạo thành một khối đoàn kết, cạnh tranh trên tinh thần cùng phát triển, cùng có lợi. Có như vậy mới có thể tồn tại, phát triển và cạnh tranh được trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt hiện nay trong quá trình hội nhập.

pdf10 trang | Chia sẻ: dntpro1256 | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tại thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 14 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA KINH TẾ CÁ THỂ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ Huỳnh Thanh Nhã1 1Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 01/04/2016 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 07/05/2016 Ngày chấp nhận đăng: 04/2017 Title: Several effective solutions for the improvement of business activities among individual economic agents in Can Tho city Keywords: Individual economic agent, business opearation, Can Tho city Từ khóa: Kinh tế cá thể, sản xuất kinh doanh, Cần Thơ ABSTRACT Individual economy, along with the largest number of agents, is considered the most dynamic form that has made the greatest contribution to the GDP of Can Tho city in spite of facing numerous difficulties during their operation. This research was conducted by descriptive statistics and comparative analysis to evaluate the contribution of individual economic agents. The expert-based method was also used to analyze existent difficulties. The paper indicated five solutions: (1) financial policies, (2) assistance in economic restructuring and consumption market expansion, (3) assistance in training human resources and applying technological science, (4) encouragement in co-operation development, and (5) establishment of representative agencies, which could promote business activities of individual economic agents in Can Tho City. TÓM TẮT Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế năng động có số lượng cơ sở nhiều nhất, đóng góp lớn nhất vào GDP của thành phố Cần Thơ, nhưng lại gặp khó khăn nhiều nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả, so sánh để đánh giá mức độ đóng góp của kinh tế cá thể, kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia để phân tích những khó khăn tồn tại, từ đó đề xuất 5 giải pháp (1) về chính sách tài chính, (2) hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và mở rộng thị trường tiêu thụ, (3) hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học - công nghệ, (4) khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác và (5) thành lập các tổ chức đại diện, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tại thành phố Cần Thơ. 1. GIỚI THIỆU Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX xác định: “kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân”. Kinh tế tư nhân trong điều kiện kinh tế thị trường là loại hình kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và vốn, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Kinh tế cá thể (KTCT) là những hộ kinh doanh nhỏ bao gồm những cá nhân kinh doanh hoặc nhóm kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 66/HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng; là những hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp theo quy định tại Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ. Đây là các cơ sở An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 15 chuyên sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp có tính chất tự sản tự tiêu, hoặc các hộ buôn bán nhỏ chủ yếu sử dụng lao động gia đình, có quy mô nhỏ không cần nhiều lao động, vốn ít, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Đây cũng là loại hình kinh tế năng động, có đóng góp nhiều nhất trong giải quyết việc làm, tạo ra thu nhập, xóa đói giảm nghèo,... và đẩy nhanh quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, vệ sinh môi trường, Mặc dù đã có nhiều thuận lợi từ những chính sách phát triển của nhà nước cũng như của TP Cần Thơ, tuy nhiên KTCT của thành phố vẫn còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, còn rất nhiều những yếu kém như: quy mô nhỏ, thiếu vốn và khó tiếp cận các nguồn vốn, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị còn yếu, thiếu nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật cao, thiếu mặt bằng để phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD), đại bộ phận chưa quan tâm đến thương hiệu, khó liên kết để tạo thế mạnh chung. Do đó, việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng, ưu thế và hạn chế về tình hình phát triển của KTCT, từ đó đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD của KTCT tại TP Cần Thơ là vấn đề cấp thiết, nhằm phát huy cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của KTCT tại TP Cần Thơ, góp phần tích cực, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong xu thế hội nhập. 2. TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Tổng quan nghiên cứu Trong bối cảnh Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, Lê Khắc Triết (2005) đã đưa ra hai nhận định quan trọng đó là: việc phát triển kinh tế tư nhân được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đây là khu vực kinh tế tồn tại khách quan, rất cần thiết trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, cần được tạo điều kiện để phát triển. Thee Kian Wie (2008) khẳng điṇh, khu vưc̣ kinh tế tư nhân đóng vai trò rất quan troṇg trong viêc̣ thúc đẩy phát triển nền kinh tế bền vững và đòi hỏi sư ̣ đúng đắn, phù hơp̣ và nhất quán của các chı́nh sách kinh tế là yếu tố quyết điṇh hàng đầu. Trong thời gian qua, những chı́nh sách mà chı́nh phủ Indonesia thưc̣ hiêṇ để phát triển kinh tế tư nhân có sư ̣ mâu thuâñ trong tư tưởng và không nhất quán qua các giai đoaṇ dẫn đến sư ̣phát triển châṃ của khu vưc̣ kinh tế tư nhân. Đinh Thị Thơm (2008) đã đề cập đến chính sách và thực tiễn của các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, những dự báo và chính sách sử dụng kinh tế tư bản tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng khẳng định tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp sở hữu tư nhân, chiếm khoảng 97% tổng số các doanh nghiệp, đã giải quyết việc làm cho phần lớn lao động trong nước và góp phần gia tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Gia Bảo (2011) đã nhận dạng những khó khăn chính của khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn TP Cần Thơ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đó là: vốn, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, lao động, nhân lực và thuế. Ngoài những khó khăn, trở ngại trên, doanh nghiệp tại TP Cần Thơ vẫn còn nhỏ về quy mô và yếu về năng lực, do doanh nghiệp vẫn chưa thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược kinh doanh và chưa có sự chia sẻ, hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với chính quyền địa phương. Kết quả của các nghiên cứu này có một số đặc điểm tương đồng với các nghiên cứu tại vùng ĐBSCL và TP Cần Thơ, trong đó Phan Đình Khôi và nhóm cộng sự (2008) cho rằng, chính sách hỗ trợ của Chính phủ và trình độ học vấn của chủ cơ sở có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động SXKD của KTCT vùng ĐBSCL. Vì vậy nghiên cứu này sẽ kết hợp với những kết quả đánh giá trên để phân tích những hạn chế của KTCT trong thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD của KTCT tại TP Cần Thơ. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 16 2.2 Phương pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả, so sánh với các số liệu thứ cấp trong giai đoạn 2010 - 2013 của Cục Thống kê TP Cần Thơ, để đánh giá thực trạng hoạt động và phân tích mức độ đóng góp của KTCT đến sự phát triển kinh tế - xã hội của TP Cần Thơ. Kết hợp sử dụng phương pháp chuyên gia thông qua phiếu phỏng vấn sâu 42 nhà khoa học, quản lý ở các sở, ban, ngành, trường đại học, cao đẳng TP Cần Thơ tại Hội thảo khoa học “Đánh giá thực trạng về kinh tế tư nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân tại TP Cần Thơ” tổ chức ngày 07/3/2014 tại Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ để phân tích tổng hợp những tồn tại hạn chế của KTCT tại TP Cần Thơ. 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA KTCT TẠI TP CẦN THƠ 3.1 Những đóng góp tích cực của KTCT tại TP Cần Thơ 3.1.1 KTCT đã huy động được khối lượng vốn lớn trong dân cư vào hoạt động SXKD KTCT đã huy động được khối lượng vốn khá lớn và tăng nhanh qua các năm. Theo báo cáo của Cục Thống kê Cần Thơ, nếu năm 2010 số lượng vốn thu hút từ dân cư đạt 3.226.190 triệu đồng, đến năm 2013 đã tăng lên 13.249.163 triệu đồng (tốc độ tăng bình quân 53,15%/năm), trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước thu hút vốn đầu tư cho sản xuất chỉ đạt 1,01%/năm, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thu hút vốn chỉ đạt 15,69%/năm. Nguồn vốn của KTCT còn tạo điều kiện để hình thành các hình thức kinh doanh chung vốn, như các hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, Bảng 1. Vốn đầu tư phát triển TP Cần Thơ theo giá hiện hành Đơn vị tính: triệu đồng Năm Nguồn vốn 2010 2011 2012 2013 Khu vực nhà nước 13.293.952 14.078.412 14.015.363 14.028.797 Khu vực ngoài nhà nước 12.659.991 16.738.088 19.494.551 21.185.808 - Vốn của tổ chức doanh nghiệp 9.433.801 9.232.245 6.527.107 7.936.645 - Vốn của hộ cá thể 3.226.190 7.505.843 12.967.444 13.249.163 Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài 507.354 978.392 977.600 909.005 Tổng số 26.461.297 31.794.892 34.487.514 36.123.610 (Nguồn: Cục thống kê Cần Thơ, năm 2014) Tuy nguồn vốn của KTCT có xu hướng tăng nhanh trong tổng vốn toàn xã hội, nhưng thực tế, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn khá lớn, nhiều gia đình có nguồn tích luỹ lại gởi tiết kiệm, do tâm lý e ngại đầu tư, không muốn mạo hiểm bỏ vốn để sản xuất kinh doanh. Nếu các cấp chính quyền có những chính sách phát triển hợp lý, chắc chắn sẽ thu hút được nhiều hơn nữa nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân cư, để cùng với các nguồn vốn khác góp phần nâng cao năng lực SXKD trên địa bàn thành phố. 3.1.2 KTCT phát triển đa dạng các ngành nghề Hiện nay, KTCT tại Cần Thơ hoạt động SXKD hầu hết trên các ngành kinh tế: - Lĩnh vực nông lâm nghiệp - thủy sản Theo báo cáo của Cục Thống kê Cần Thơ, loại hình KTCT chủ yếu hoạt động SXKD trong lĩnh vực nông lâm nghiệp – thủy sản, chiếm tỉ trọng 93,69% vào năm 2013, trong đó giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ lệ rất cao, đạt 9.520.602 triệu đồng. Tương tự giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng nhanh, nếu năm 2010 tính theo giá hiện hành đạt 2.780.352 triệu đồng thì đến năm 2013 đã tăng lên 4.192.958 triệu đồng (tăng bình quân 10,64%/năm). An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 17 Bảng 2. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp – thủy sản của KTCT tại TP Cần Thơ theo giá hiện hành Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 Nông nghiệp 6.691.752 9.034.625 9.291.027 9.520.602 Lâm nghiệp 31.943 25.588 29.213 37.602 Thủy sản 2.780.352 4.272.203 4.146.133 4.192.958 Tổng 9.504.047 13.332.416 13.466.373 13.751.162 (Nguồn: Cục thống kê Cần Thơ, năm 2014) Những kết quả trên cho thấy, sự chuyển biến tích cực của ngành nông lâm nghiệp - thuỷ sản của thành phố trong việc đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, sự phát triển mô hình kinh tế trang trại đã từng bước góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế của thành phố. Nó không những huy động và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về đất, lao động, vốn, sự năng động sáng tạo, kinh nghiệm sản xuất của một bộ phận dân cư có vốn và năng lực SXKD, mà quan trọng hơn nó chính là nhân tố thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Có thể nói, KTCT trong ngành nông nghiệp đã có bước phát triển mạnh mẽ và góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. - Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng Theo báo cáo của Cục Thống kê Cần Thơ trong giai đoạn 2010 - 2013, số cơ sở SXKD lĩnh vực công nghiệp - xây dựng của KTCT có xu hướng tăng. Cụ thể: năm 2010 có 6.011 cơ sở, trong đó có 5.340 cơ sở sản xuất công nghiệp và 671 cơ sở kinh doanh xây dựng, đến năm 2013 đã tăng lên 8.247 cơ sở, trong đó có 7.954 cơ sở sản xuất công nghiệp và 293 cơ sở kinh doanh xây dựng, tốc độ tăng bình quân đạt 8,23%/năm. Trong đó, các làng nghề đã giải quyết được lực lượng lao động rất lớn với mức thu nhập tương đối ổn định. Sự phát triển nghề và làng nghề đã góp phần thay đổi tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế chung của thành phố. Huy động được các nguồn lực tại chỗ về lao động, vốn, nguyên liệu, đất đai, nhà xưởng vào SXKD, góp phần giải quyết việc làm trong thời gian nông nhàn của nông dân, giúp xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người lao động. - Lĩnh vực thương mại - dịch vụ Trong những năm gần đây mạng lưới thương nghiệp được mở rộng, hàng hóa đa dạng phong phú đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu về sức mua ngày càng tăng của dân cư trên địa bàn thành phố. Số lượng các hộ KTCT kinh doanh trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ có xu hướng tăng nhanh. Cụ thể: nếu năm 2010 có 52.350 hộ (chiếm 96,42%), thì đến năm 2013 đã tăng lên 57.052 hộ (chiếm 95,15%), tốc độ tăng bình quân 6,23%/năm; điều đó cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của KTCT trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ tại TP Cần Thơ. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 18 Bảng 3. Doanh thu thương mại - dịch vụ của KTCT tại Cần Thơ Năm Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 Số đơn vị kinh doanh (cơ sở) 52.350 53.452 57.638 57.052 Tổng mức hàng hóa bán ra và doanh thu dịch vụ (triệu đồng) 13.568.099 18.557.110 20.348.958 24.831.872 (Nguồn: Cục thống kê Cần Thơ, năm 2014) Mặt khác, tổng mức hàng hóa bán ra và doanh thu dịch vụ của thành phố năm 2010 đạt 50.409.679 triệu đồng, trong đó KTCT đạt 13.568.099 triệu đồng (chiếm 21,95%), đến năm 2013 đã tăng lên 91.111.827 triệu đồng, trong đó KTCT đạt 24.831.872 triệu đồng (chiếm 27,23%), tốc độ tăng bình quân 9,68%/năm. Hoạt động thương mại - dịch vụ của KTCT tập trung vào các dịch vụ sản xuất nông nghiệp như cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu,...; cung cấp xi măng, sắt thép, gạch ngói phục vụ xây dựng dân dụng và các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu phục vụ sinh hoạt như vải vóc, quần áo, giầy dép, sách vở,... được các cơ sở phục vụ nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong thành phố. 3.1.3 KTCT đóng góp quan trọng vào GDP của thành phố Hiện nay loại hình KTCT có số lượng cơ sở SXKD lớn, đóng góp vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng nhanh qua các năm. Cụ thể: năm 2010 KTCT đạt 15.467.928 triệu đồng, đến năm 2013 đã tăng lên 27.229.992 triệu đồng, tốc độ tăng bình quân 19,73%/năm, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP của thành phố (bình quân chiếm 33,03%/năm), trong khi GDP của khu vực kinh tế nhà nước năm 2010 chỉ đạt 13.250.034 triệu đồng, đến năm 2013 tăng lên 23.958.844 triệu đồng, tốc độ tăng bình quân 15,96% năm, chiếm tỷ trọng bình quân 30,58% trong GDP của thành phố. Điều này cho thấy KTCT là loại hình có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Cần Thơ. Bảng 4. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của TP Cần Thơ theo giá hiện hành Đơn vị tính: Triệu đồng Năm Loại hình doanh nghiệp 2010 2011 2012 2013 - Kinh tế nhà nước 13.250.034 18.400.025 18.928.326 23.958.844 - Kinh tế ngoài nhà nước 27.351.228 34.250.721 43.119.311 48.149.548 + Kinh tế tập thể 439.721 510.476 694.448 774.092 + Kinh tế tư nhân 26.911.507 33.740.245 42.424.863 47.375.456 . Tư nhân 11.443.579 19.611.789 18.255.749 20.145.464 . Cá thể 15.467.928 14.128.456 24.169.114 27.229.992 - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.039.560 2.055.428 3.834.491 3.747.953 - Thuế nhập khẩu 1.199.597 1.199.596 1.271.332 1.430.249 Tổng 43.840.419 55.905.770 67.153.460 77.286.594 (Nguồn: Cục thống kê TP Cần Thơ, năm 2014) An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 19 Từ số liệu thống kê ở Bảng 4 cho thấy, với số lượng lớn các cơ sở SXKD, nên bình quân hàng năm KTCT đã đóng góp gần 1/3 GDP toàn thành phố, chiếm tỷ trọng lớn so với các khu vực khác. Như vậy, KTCT đã góp phần quan trọng cùng với các thành phần kinh tế khác thúc đẩy nền kinh tế của thành phố tăng trưởng. 3.1.4 KTCT tạo việc làm và tăng thu nhập người lao động TP Cần Thơ có lực lượng lao động chiếm tỷ lệ cao so với dân số. Năm 2010, KTCT thu hút 491.231 lao động, chiếm 60,78% trong tổng số lao động đang làm việc của thành phố; đến năm 2013 tổng số lao động đang làm việc trong loại hình KTCT là 559.726 người, chiếm 64,78% trong tổng số lao động đang làm việc của thành phố. Bảng 5. Số lao động trong KTCT tại TP Cần Thơ phân theo lĩnh vực hoạt động Đơn vị tính: người Năm Lĩnh vực 2010 2011 2012 2013 Nông lâm nghiệp - thủy sản 246.371 245.911 253.157 260.159 Công nghiệp - xây dựng 56.101 62.564 66.941 63.738 Thương mại - dịch vụ 188.759 188.654 223.974 235.829 Tổng số lao động kinh tế cá thể 491.231 497.129 544.072 559.726 Tổng số lao động thành phố 808.156 815.988 835.765 864.041 (Nguồn: Cục thống kê Cần Thơ, năm 2014) Cùng với việc thu hút, sử dụng một số lượng lớn lao động, KTCT góp phần nâng cao thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư ở Cần Thơ, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Số liệu thống kê Bảng 6 cho thấy, mức thu nhập của người lao động ở thành thị và nông thôn tăng nhanh; ở khu vực nông thôn thu nhập bình quân năm 2010 đạt 1,362 triệu đồng/người/tháng, đến năm 2013 đã tăng lên 1,846 triệu đồng/người/tháng (bình quân năm đạt 1,677 triệu đồng/người/tháng), tốc độ tăng bình quân 7,9%/năm; ở khu vực thành thị thu nhập bình quân năm 2010 đạt 1,636 triệu đồng/người/tháng, đến năm 2013 đã tăng lên 2,716 triệu đồng/người/tháng (bình quân năm đạt 2,246 triệu đồng/người/tháng), tốc độ tăng bình quân 13,49%/năm. Bảng 6. Thu nhập bình quân đầu người một tháng tại TP Cần Thơ theo giá hiện hành Đơn vị tính: ngàn đồng Năm Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 Thành thị 1.636,74 2.024,38 2.606,33 2.716,00 Nông thôn 1.362,53 1.662,12 1.841,10 1.846,00 (Nguồn: Cục thống kê TP Cần Thơ, năm 2014) Tuy nhiên, với loại hình KTCT có quy mô sản xuất của hộ nhỏ lẻ đang là một khó khăn trong phát triển kinh tế. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương để khai thác tiềm năng sẵn có về lao động, cũng như các tiềm năng nội tại khác của bộ phận kinh tế này, góp phần thúc đẩy nền kinh tế của thành phố phát triển. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 20 3.2 Những tồn tại hạn chế trong quá trình phát triển KTCT tại TP Cần Thơ KTCT đã có nhiều đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia, KTCT TP Cần Thơ còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế cơ bản như sau: Thứ nhất, hầu hết KTCT đều trong tình trạng thiếu vốn và gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong những năm qua, TP Cần Thơ đã phát triển mạnh mạng lưới ngân hàng phục vụ nhu cầu vay vốn của các đơn vị SXKD, tuy nhiên KTCT vẫn không có đủ vốn để đầu tư cho phát triển sản xuất. Nguyên nhân chủ yếu là do các hộ KTCT thường có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, khả năng tích lũy vốn thấp, năng lực tài chính còn quá nhỏ, hoạt động tạm thời, khó giám sát đầu tư, nên thường bị các ngân hàng cho là khách hàng nhỏ, định giá tài sản thế chấp rất thấp. Mặt khác, cơ chế lãi suất hiện hành của các ngân hàng thương mại mặc dù có sự hỗ trợ lãi suất cho vay, nhưng thực tế việc áp dụng chưa tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng. Các doanh nghiệp nhà nước thường được vay vốn với lãi suất thấp, trong khi các hộ KTCT lại phải vay với lãi suất cao hơn hoặc nếu có thì thủ tục vay rất phức tạp, khó tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi. Chính từ lý do trên, các hộ KTCT đều khởi nghiệp từ nguồn vốn tự tích lũy được của gia đình hoặc vay bạn bè, người thân là chủ yếu. Những khó khăn trên đã khiến cho KTCT luôn rơi vào vòng luẩn quẩn: vốn ít  sản xuất nhỏ  sức cạnh tranh kém  hiệu quả kinh doanh thấp  tích lũy thấp  ít vốn. Thứ hai, thị trường tiêu thụ sản phẩm của KTCT rất khó khăn và hạn hẹp. Hầu hết các hộ KTCT phải mua các yếu tố sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường địa phương, trong khi thị trường địa phương lại quá nhỏ bé và tăng trưởng chậm do thu nhập của dân cư còn thấp, nhu cầu tiêu thụ hạn hẹp dẫn tới khó khăn tiêu thụ sản phẩm trên thị trường này. Mặt khác, tình trạng hàng nhập lậu còn khá phổ biến, sự hợp tác, liên kết giữa các cơ sở SXKD chưa đồng bộ,... Các doanh nghiệp đôi khi còn ép giá thu mua sản phẩm của nông dân, ngược lại, các hộ nông dân cũng có lúc không thực hiện đúng hợp đồng cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp, do đó việc tiêu thụ sản phẩm không ổn định. Có thể nói, vấn đề tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho KTCT hiện nay vẫn là vấn đề nan giải, mà bản thân các hộ KTCT không thể tự mình giải quyết được và rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Thứ ba, trình độ lao động và khoa học – công nghệ của KTCT chưa đáp ứng nhu cầu hội nhập. Lao động và khoa học – công nghệ là những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn những định kiến, so sánh vị trí giữa người lao động trong các đơn vị nhà nước với lao động trong các cơ sở KTCT. Tâm lý coi những người lao động trong đơn vị nhà nước mới là những người thực sự có năng lực, còn lại những người lao động không còn cách nào khác để kiếm sống mới làm việc với cơ sở KTCT. Điều này đã ảnh hưởng tới tâm lý, chất lượng và gây khó khăn trong việc xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao trong các cơ sở KTCT tại TP Cần Thơ hiện nay. Mặt khác, do khả năng quản trị của chủ cơ sở còn yếu, thiếu chuyên viên kỹ thuật được đào tạo chuyên nghiệp, thiếu vốn đầu tư, nên trình độ khoa học - công nghệ tại các cơ sở KTCT còn rất lạc hậu. Thứ tư, KTCT hoạt động mang tính độc lập, thiếu sự hợp tác trong SXKD. KTCT thường hoạt động mang tính độc lập nên sự kết nối giữa các hộ KTCT với các khu vực kinh tế khác chưa thực sự được tạo dựng một cách bền vững và chặt chẽ, sự chia sẻ và đồng thuận về trách nhiệm và đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chưa cao. Do vậy, các khó khăn của KTCT trong quá trình hoạt động SXKD chậm được phản ánh, hỗ trợ từ các khu vực kinh tế khác, như hợp tác trao đổi thông tin, góp vốn, chia sẻ mặt bằng SXKD, An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 21 Thứ năm, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu tổ chức nghề nghiệp đại diện, hỗ trợ KTCT trong hoạt động SXKD. Hiện tại vẫn còn nhiều chủ trương, chính sách liên quan chưa hoàn chỉnh để có thể tạo niềm tin cho các hộ KTCT yên tâm đầu tư phát triển SXKD; vẫn còn quan niệm coi KTCT mang nặng tính tự phát, luôn chỉ nhìn thấy những tiêu cực của bộ phận kinh tế này, như: cá thể thường kinh doanh theo kiểu chụp giật, làm hàng giả, trốn thuế, đã dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với KTCT trong một bộ phận không nhỏ cán bộ nhà nước và nhân dân. Mặt khác, bản thân các hộ KTCT còn ít nhiều mặc cảm và chưa có hiểu biết một cách đầy đủ về các chủ trương, chính sách và các biện pháp hỗ trợ của nhà nước, chưa quan tâm nhiều đến việc tham gia các hội nghề nghiệp để hỗ trợ nhau trong giải quyết khó khăn trong quá trình SXKD. 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA KTCT TẠI TP CẦN THƠ Trên cơ sở đánh giá thực trạng, để nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD của KTCT tại Cần Thơ, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau: 4.1 Giải pháp về chính sách, tài chính Khó khăn lớn nhất trong quá trình phát triển SXKD của KTCT hiện nay là tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn trung và dài hạn. Vì vậy, các hộ KTCT cần phải tự vươn lên bằng chính sự nỗ lực của mình với các biện pháp mở rộng tạo nguồn vốn đầu tư theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động SXKD, kết hợp huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, liên doanh thông qua các hình thức hùn vốn, thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng, mua bán hàng hóa thanh toán chậm để tăng nguồn vốn cho SXKD. Đồng thời, nhà nước cần tăng cường hỗ trợ vốn tín dụng ngân hàng theo hướng đổi mới chính sách vốn và tín dụng để KTCT tiếp cận các nguồn vốn một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngân hàng nhà nước cần tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt trong tiếp cận vốn, lãi suất,... Trong đó cần nghiên cứu chính sách ưu tiên cho vay đối với các cơ sở sản xuất đầu tư phát triển các loại cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; Đầu tư phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn, đặc biệt chú trọng đến phát triển các làng nghề truyền thống của địa phương; Đầu tư vào những dự án ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới, thay thế những máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, đặc biệt cần ưu tiên cho các cơ sở SXKD đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái kết hợp với dịch vụ du lịch thuộc thế mạnh của địa phương. Các ngân hàng thương mại cần cung cấp thông tin đầy đủ về quy trình cho vay, nâng cao chất lượng tư vấn lập dự án đầu tư, phương án SXKD, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong quá trình thực hiện thủ tục vay vốn. Đồng thời, cần nâng cao trình độ thẩm định của cán bộ tín dụng, đơn giản hoá các thủ tục, nhằm rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả thẩm định các dự án xin vay, để KTCT có thể vay vốn một cách nhanh chóng, kịp thời triển khai các phương án SXKD. Củng cố và mở rộng áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ đối với KTCT. Tăng cường hướng dẫn các thủ tục kê khai, tính thuế, lập hồ sơ miễn giảm thuế, quyết toán thuế và nộp thuế để các đối tượng nộp thuế tự thực hiện nghĩa vụ thuế. Khuyến khích phát triển dịch vụ tư vấn thuế, kế toán thuế, cung cấp dịch vụ về thuế để giúp các cá nhân hiểu rõ chính sách thuế, làm tốt công tác kế toán. Đồng thời, nâng cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc tự tính, tự kê khai và tự nộp thuế, kết hợp nâng cao trách nhiệm quyền hạn của tổ chức quản lý thu thuế và cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi nộp thuế. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 22 4.2 Hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, mở rộng thị trường tiêu thụ Thành phố cần có những chính sách giúp KTCT tiếp cận thị trường, đặc biệt thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng rộng khắp và cần có biện pháp bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia hợp đồng, có như vậy các doanh nghiệp mới có thể dự báo được số lượng và chất lượng sản phẩm, các hộ KTCT tự tin và yên tâm hơn trong việc mở rộng sản xuất và tăng sản lượng đầu ra, nâng cao năng lực áp dụng khoa học – công nghệ, giảm thiểu rủi ro trong sản xuất. Phát triển công nghệ chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch để tăng giá trị sử dụng và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường đối với hàng nông sản, thủy sản, hàng tươi sống của các hộ KTCT. Trên cơ sở thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu, vùng sản xuất chuyên canh, tập trung xây dựng cơ sở công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu và các hộ sản xuất nông nghiệp, thủy sản. Kết hợp nhiều loại quy mô công nghệ chế biến, nhiều trình độ công nghệ từ quy mô nhỏ như hộ gia đình đến quy mô lớn như nhà máy, xí nghiệp chế biến để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông sản, thủy sản tạo nhiều việc làm và sử dụng nhiều lao động phổ thông Đồng thời, có cơ chế chính sách hỗ trợ về thông tin, kỹ thuật trong việc sản xuất nguyên liệu như: trồng cây gì, nuôi con gì phù hợp để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến và tạo điều kiện tăng năng suất lao động đem lại thu nhập cho KTCT, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 4.3 Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học - công nghệ Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa của KTCT đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thành phố cần có những chính sách hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực theo hướng mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường nghề và các trung tâm hướng nghiệp; có chính sách ưu tiên cho các hình thức truyền nghề, dạy nghề truyền thống để phát triển kinh tế gia đình; cập nhật thường xuyên chương trình dạy nghề để trang bị kiến thức đầy đủ và hiện đại cho người học. Chú trọng hình thức đào tạo không tập trung và các lớp ngắn hạn; đào tạo tại chỗ, cho người học tự lựa chọn ngành học, khóa học theo yêu cầu thực tế SXKD của họ. Đồng thời, mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống dịch vụ tư vấn chuyển giao khoa học – công nghệ. Xây dựng phát triển rộng khắp mạng lưới hoạt động khuyến nông, khuyến ngư đến tận cơ sở, thường xuyên tổ chức các mô hình, các điểm trình diễn trồng trọt, chăn nuôi với kỹ thuật mới, năng suất cao, chất lượng tốt cho các cơ sở KTCT học tập kinh nghiệm. 4.4 Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác SXKD Để nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD, các cơ sở KTCT cần đa dạng hóa các hình thức hợp tác, như: hợp tác cung cấp theo chuỗi “đầu ra” và “đầu vào” cho sản phẩm, theo hướng một số cơ sở KTCT cùng ngành nghề hợp tác với nhau để tìm nguồn nguyên liệu “đầu vào” cung ứng cho các doanh nghiệp. Hình thức này nên áp dụng đối với các lĩnh vực khai thác, chế biến nông nghiệp, thủy sản, vừa giải quyết được nguồn sản phẩm “đầu ra” của các cơ sở KTCT, vừa đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu “đầu vào” cho các doanh nghiệp với giá cả ổn định. Hoặc hợp tác để trao đổi thông tin phát triển, vì hiện nay các cơ sở KTCT đang hoạt động trong tình trạng thiếu thông tin, đặc biệt là các thông tin về hệ thống pháp luật, thị trường, nguồn vốn, đối tác,... hơn nữa hệ thống pháp luật nước ta hiện đang được xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh; do đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, chồng chéo lại thường xuyên thay đổi, trong khi KTCT rất cần tìm hiểu và cập nhập các thông tin về pháp luật để nắm vững và thực hiện. Hoặc hợp tác, hỗ trợ nhau trong thuê mượn mặt bằng, nhà xưởng giữa các cơ sở KTCT theo giá quy định; vì hầu hết các hộ KTCT thường sử dụng nhà ở, đất của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng SXKD nên địa bàn sản xuất chật hẹp, dễ gây ô nhiễm môi trường, khó mở rộng SXKD, Vì vậy, cần có sự liên kết, hợp tác giữa các cơ sở KTCT và các tổ chức kinh tế khác để cùng nhau chia sẻ thông tin, trao đổi ý kiến để phát triển SXKD theo đúng quy định của pháp luật. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 14 – 23 23 4.5 Thành lập các tổ chức đại diện, hỗ trợ KTCT Cần sớm hoàn thiện việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ KTCT mạnh dạn đầu tư phát triển SXKD, trong đó cần quan tâm cải cách hành chính, đổi mới quy trình, thủ tục đăng ký hoạt động SXKD. Khuyến khích thành lập các Hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức hỗ trợ gia đình nhằm cung cấp thông tin, tư vấn đào tạo, hỗ trợ về vốn, kỹ thuật thị trường,... trên tinh thần tự nguyện. Tiếp tục cụ thể hóa quan điểm của Đảng về tự do lập hội, thể chế hóa những quy định về thành lập các Hiệp hội nghề nghiệp, thúc đẩy thành lập và hoạt động của các Hội nghề nghiệp. Đồng thời, xây dựng quy chế và hướng dẫn thực hiện quy chế về thành lập các tổ chức đại diện cho KTCT. Cử các chuyên gia có kinh nghiệm giúp đỡ và hướng dẫn xây dựng điều lệ về tổ chức đại diện và quy chế hoạt động của các tổ chức đại diện cho KTCT. 5. KẾT LUẬN Phát triển KTCT là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta trong xu thế hội nhập, tuy nhiên, sự nỗ lực của các ngành, các cấp của TP Cần Thơ trong thời gian qua là chưa đủ, cần phải chung tay nỗ lực nhiều hơn nữa, để từ đó có những chủ trương, chính sách mạnh mẽ và phù hợp với thực tiễn nhằm kích thích KTCT phát triển xứng với tiềm năng của nó, góp phần đưa kinh tế TP Cần Thơ lớn mạnh, đúng tầm của một đô thị động lực, trung tâm vùng ĐBSCL và cả nước. Qua kết quả nghiên cứu, có thể khẳng định KTCT là một nhân tố quan trọng, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội, là nơi quy tụ nhiều nhân tài, nguồn lực lao động, tiềm lực về vốn, tư liệu và công nghệ sản xuất,... KTCT tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp phần rất lớn trong việc xóa đói giảm nghèo, là khu vực kinh tế rất năng động, đa dạng về lĩnh vực kinh doanh, thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để có thể nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn tồn tại, thì sự hỗ trợ của chính quyền địa phương là yếu tố then chốt trong việc triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp. Song song đó, tự thân hộ kinh doanh phải thường xuyên học hỏi, trau dồi năng lực quản trị, liên kết và phối hợp với nhau thông qua các tổ chức hiệp hội, tạo thành một khối đoàn kết, cạnh tranh trên tinh thần cùng phát triển, cùng có lợi. Có như vậy mới có thể tồn tại, phát triển và cạnh tranh được trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt hiện nay trong quá trình hội nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cục Thống kê TP Cần Thơ. (2014). Báo cáo Số liệu kinh tế - xã hội TP Cần Thơ 2010 - 2013. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đinh Thị Thơm. (2005). Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới – Thực trạng và những vấn đề, 1st edition. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Gia Bảo. (2009). Kinh tế tư nhân rất cần hỗ trợ. Báo điện tử Cần Thơ. Nguồn: catid=72&id=44237 Lê Khắc Triết. (2005). Đổi mới và phát triển Kinh tế tư nhân Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản Lao động. Phan Đình Khôi, Trương Đông Lộc & Võ Thành Danh. (2008). Tổng quan về kinh tế tư nhân ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Giáo dục. Thee Kian Wie. (2006). Policies for Private Sector Development in Indonesia. ADB Institute Discussion, Paper No. 46.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02_huynh_thanh_nha_0_0131_2024213.pdf