Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng ngoại thương Hà Nội

Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội Từ nhận thức đó cùng với kiến thức được trang bị qua 4 năm học ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đặc biệt được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Phạm Hồng Vân và các thầy cô trong trường cũng như sự chỉ bảo tận tình của anh chị phòng Tín dụng Chi nhánh NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội". Về hình thức, bài viết này được trình bày theo kết cấu sau: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội Trên cơ sở phân tích hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội trong 3 năm, (2000, 2001, 2002) đề tài tập trung vào tình hình và kinh nghiệm thực tế của hoạt động này để từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động tín dụng XNK tại Chi nhánh. Song do kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự chỉ dạy của thầy cô giáo và góp ý của các bạn để bài viết được hoàn thiện tốt hơn. Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm Hồng Vân người đã tận tình giúp đỡ em trong việc chọn đề tài, hướng dẫn phương hướng triển khai đề tài và tổng kết các kết quả nghiên cứu một cách có hệ thống. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại NHNT Hà Nội, đặc biệt là phòng Tín dụng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng như chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.

doc72 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại ngân hàng ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: tỷ lệ nợ quá hạn tại NHNT Hà Nội là thấp, có xu hướng giảm trong 2 năm gần đây so với mức 4,67% vào năm 2000. Hầu hết các khoản nợ quá hạn trên đây đều là nợ ngắn hạn và tập trung vào một số doanh nghiệp nhà nước, và các khoản nợ này là từ những năm trước còn tồn đọng lại, khiến cho tình hình tài chính của Chi nhánh không được lành mạnh. Qua các con số trên cho ta thấy rủi ro trong hoạt động của Chi nhánh là có thể xảy ra, do đó đòi hỏi Chi nhánh cần phải có biện pháp phù hợp kịp thời nhằm phòng tránh các rủi ro có thể xảy ra, đồng thời phải giải quyết triệt để số lượng nợ quá hạn còn tồn đọng, tránh dẩn đến nợ khó đòi, gây tổn thất cho Chi nhánh. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn 3,45% vào năm 2002 là không lớn, song con số hơn 17 tỷ đồng nợ quá hạn thì không nhỏ, và nếu để chúng biến thành nợ khó đòi dẩn đến tổn thất nguồn vốn thì sẽ gây ra thiệt hại lớn cho Chi nhánh. * Doanh số cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn nhỏ, có thể thấy trong doanh số cho vay cả ngắn hạn, trung và dài hạn thì doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ lớn (trung bình trên 90% tổng doanh số cho vay). Đành rằng rủi ro cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất cao, việc định hướng chiến lược cho vay XNK đối với DNNN là khá hợp lý vì nó đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, số lượng DNNN có nợ quá hạn tại Ngân hàng cũng khá lớn. Bên cạnh đó, số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh rất đông đảo và không phải doanh nghiệp nào cũng có tình hình tài chính không lành mạnh. Một số doanh nghiệp làm ăn rất có hiệu quả như các doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài là nhóm khách hàng mà Ngân hàng chưa có đủ tin tưởng để lôi cuốn và chiếm lĩnh được. Chính vì vậy, tiềm năng của loại khách hàng này khá lớn, Ngân hàng cần phải tìm ra nhiều giải pháp để khai thác triệt để các doanh nghiệp kinh tế ngoài quốc doanh. * Các hình thức cho vay tài trợ XNK còn quá đơn điệu chủ yếu là tổ chức cổ điển, chưa áp dụng hình thức cho vay mới như bao thanh toán, cho thuê tài chính... làm giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hơn nữa, trong khi cho vay lại quá tập trung vào khâu lưu thông vì vậy rủi ro rất lớn. * Chi nhánh vẫn chưa có cơ sở bảo quản hàng hoá, chưa nắm được các lô hàng thế chấp một cách chắc chắn. Do vậy, khi khách hàng cố tình không hoàn trả nợ thì Chi nhánh đành chịu. * Công tác đào tạo cán bộ còn chưa kịp với yêu cầu và nhiệm vụ mới, các cán bộ xử lý nghiệp vụ còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm như cho vay vượt quá quyền hạn giải quyết, cho vay không thẩm định kỹ (không có tài sản thế chấp hoặc nếu có lại không tự quản lý mà để khách hàng quản lý, thậm chí mở L/C không đưa hết các điều kiện hợp đồng... ), nắm bắt thông tin chưa nhanh nhạy theo kịp biến động của thị trường dẫn đến tình trạng Chi nhánh luôn phải đối phó với sự lừa đảo khi thực hiện hợp đồng tín dụng tài trợ XNK. Đây là một trng những nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, những vụ việc đổ vỡ gây ảnh hưởng đến uy tín của Chi nhánh. * Bên cạnh đó, phương thức quản lý các món vay XNK ở Ngân hàng chưa hợp lý. Quyết định và quản lý các món vay ở NHNT Hà Nội là phân công đều cho các cán bộ tín dụng. Điều này có lợi là mở rộng tầm hiểu biết cho các cán bộ tín dụng sang lĩnh vực XNK. Nhưng như thế sẽ gây cản trở lớn cho các món vay được thực hiện có hiệu quả vì để thực hiện một khoản vay tín dụng XNK đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có hiểu biết sâu về thị trường, luật pháp quốc tế của các nước về hoạt động XNK. Ngoài ra, Chi nhánh vẫn chưa hạch toán độc lập kết quả tín dụng XNK với hoạt động tín dụng khác mặc dù hoạt động tín dụng tài trợ XNK là nhiệm vụ chính của Ngân hàng. Điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến việc đánh giá kết quả kinh doanh và vạch ra phương hướng của hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại Ngân hàng trong thời gian tới. 3.3.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân chủ quan - Thứ nhất: Năng lực cho vay của Ngân hàng Do NHNT Hà Nội là Chi nhánh trực thuộc NHNT Việt Nam nên phần lớn những dự án cho vay tài trợ XNK của Ngân hàng đều phải thông qua NHNT Việt Nam xem xét và quyết định. Đồng thời theo quy định, NHNT Hà Nội chỉ được cho vay đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô. Nhưng phần lớn những doanh nghiệp này lại là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cũng rất hạn chế quy mô cho vay của Ngân hàng. - Thứ hai: Trình độ bất cập của cán bộ Ngân hàng Nhận thức về bản chất tín dụng không đầy đủ dẫn đến đơn giản, sơ sài trong chấp hành quy định. Cán bộ tín dụng thiếu trình độ hiểu biết về pháp luật, thể lệ tập bán thương mại và thanh toán quốc tế, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng được nhu cầu nghiệp vụ. Một cán bộ quản lý tín dụng XNK nếu tính theo dư nợ thì bằng hàng chục cán bộ quản lý cho vay hộ sản xuất (năm 2000, dư nợ cho vay XNK tại Chi nhánh chiếm 71% tổng dư nợ), điều đó thể hiện hiệu quả đầu tư XNK nhưng trái lại cũng thể hiện khả năng rủi ro lớn nếu như cán bộ tín dụng đó không được trang bị đầy đủ kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm đạo đức kinh doanh. Ngân hàng chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nên lúng túng trong việc thẩm định các dự án lớn, nhất là các dự án năng suất có vốn đầu tư và nhập khẩu thiết bị nước ngoài. Thực trạng đội ngũ cán bộ tín dụng NHNT Hà Nội hiện nay là vấn đề đáng được lưu tâm, số cán bộ có thâm niên trên 10 năm thì chưa được đào tạo lại để có đủ kiến thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, số cán bộ mới vào thì còn thiếu kinh nghiệm và tri thức thực tế trong thị trường chằng chịt những mối quan hệ phức tạp. - Thứ ba: Chấp hành thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ Những trường hợp rủi ro trong tín dụng có nguyên nhân quan trọng là việc chấp hành không nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng và quy trình nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng. Thể hiện trong việc thẩm định và lập hồ sơ vay vốn. Có trường hợp cán bộ lập hồ sơ giải khai tăng tài sản thế chấp để rút vốn Ngân hàng và vay ké, là kết quả của hai nguyên nhân sâu xa sau đây: + Việc xác định giá trị tài sản thế chấp do cán bộ Ngân hàng t hực hiện mang tính chủ quan. + Việc lập hồ sơ cho vay và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc lập với chức năng tín dụng. Quản lý nợ vay còn thể hiện và hồ sơ tài sản thế chấp không được tách độc lập với chức năng tín dụng. Quản ý nợ vay còn thể hiện thiếu trách nhiệm, gia h ạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ, đảo nợ nội tệ với ngoại tệ (vay đồng tiền này để trả nợ đồng tiền khác), dẫn đến tình trạng nợ xấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn Ngân hàng ngày càng lớn. - Thứ tư: Cơ sở vật chất và giờ làm việc Chi nhánh NHNT Hà Nội xây dựng trụ sở năm 1992. Sang năm 2001, trụ sở đã trở nên chật chội. Điều này trước tiên sẽ ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng. Khách hàngđến với Ngân hàng sẽ tin cậy hơn nếu Ngân hàng có cơ sở vật chất tốt. Song ở đây phòng tín dụng không đủ diện tích để kê bàn tiếp khách. Hơn nữa, cơ sở vật chất như vậy sẽ ảnh hưởng đến điều kiện làm việc của Ngân hàng. Bên cạnh đó, giờ làm việc của Chi nhánh sẽ không cạnh tranh được với Ngân hàng nước ngoài. Vì vậy Ngân hàng đóng cửa vào lúc 16 giờ trong khi giờ đóng cửa của hàng nước ngoài là 18 giờ. * Nguyên nhân khách quan Hệ thống NHNT ra đời tư cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, cơ chế thị trường đang hình thành với nhiều thử thách và phức tạp. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế xã hội, sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng năm 1989 đã để lại trong xã hội một tư tưởng nặng nề về tâm lý. Lưu thông hàng hoá tiền tệ chậm, một loạt doanh nghiệp phá sản. Các chính sách Nhà nước thiếu đồng bộ, môi trường pháp lý không đảm bảo an toàn kinh doanh. Từ sau đổi mới, bên cạnh các nhân tố tích cực, hàng loạt các yếu tố tiêu cực xuất hiện cùng với sự bung ra của sản xuất xã hội, nhiều công ty, xí nghiệp hữu danh vô thực ra đời tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản Ngân hàng. - Thứ nhất: Môi trường pháp lý. + Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ nên đã gây ra những khó khăn vướng mắc cho Chi nhánh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các NHNT hiện nay hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hệ thống luật và dưới luật của chính phủ. Một số quy định trong luật còn xa rời với thực tiễn như: + Thể lệ tín dụng của các Ngân hàng còn nhiều vướng mắc. Thứ nhất, không cho phép doanh nghiệp có nợ quá hạn vay. Đối với các doanh nghiệp khi gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh thì vốn là vấn đề giải quyết mọi ách tắc lại không được đáp ứng. Ngân hàng cho vay để cứu doanh nghiệp nếu thành công thì có thành tích, còn nếu rủi ro thì bị truy tội cố ý làm trái hoặc ít nhất cũng là thiếu tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, theo quy định, nếu NHNT nào thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C mà phát sinh nợ quá hạn thì sẽ không được thực hiện nghiệp vụ này cho đến khi giải quyết song số nợ quá hạn đó. Chính vì vậy, trong năm 1991, NHNT Hà Nội có nợ quá hạn phát sinh từ nghiệp vụ này nên đến nay Ngân hàng vẫn chưa được thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm do chưa thu hồi được nợ. + Quy chế chính sách của Nhà nước trong việc xử lý tài sản thế chấp còn nhiều bất cập như Ngân hàng không thể tự đứng ra bán tài sản thế chấp để thu nợ mà phải được sự đồng ý và có giấy uỷ quyền của tài sản. Trên thực tế, khi gặp con nợ chây ỳ không hợp tác thì Ngân hàng chỉ còn cách khởi kiện tại toà án. Việc xử lý sẽ kéo dài thậm chí đi đến chỗ bế tắc nếu con nợ liên quan đến vụ án hình sự hoặc bỏ trốn. Theo quy định thì Ngân hàng chỉ được giải chấp tài sản nếu người vay trả hết nợ hoặc có tài sản thế chấp bổ sung cho khoản nợ còn thiếu. Tuy nhiên, đại đa số khách hàng yêu cầu Ngân hàng giải chấp để họ tự bán tài sản trả nự Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản trả nợ Ngân hàng, trong khi trị giá bán tài sản thế chấp thấp hơn nhiều so với nợ vay và nguồn vay không có tài sản nào khác để thế chấp cho Ngân hàng, hoặc họ đã ngừng sản xuất kinh doanh chuẩn bị phá sản. + Quy chế lập quỹ dự phòng rủi ro không phù hợp. Quỹ dự phòng rủi ro được hình thành từ lợi nhuận ròng, tổ chức tín dụng trong khi lợi nhuận của Ngân hàng còn thấp chưa kể một số Ngân hàng bị thua lỗ. Tỷ lệ này là 10% thì quá tháp không hể đủ bù đắp rủi ro tín dụng và sự mất mát của các tài sản có của Ngân hàng. Mặt khác, theo quy định, quỹ rủi ro chỉ được bù đắp cho các nguyên nhân khách quan, trong khicác kết hợp khoản rủi ro do nguyên nhân khách quan thì phần lớn không thu hồi đủ vốn sau khi truy cứu trách nhiệm bồi thường dẫn đến mất vốn của Ngân hàng mà thực chất là tiền gửi khách hàng và khả năng thanh toán của Ngân hàng. + Hoạt động tín dụng tài trợ XNK liên quan đến nhiều ban ngành trong nước như Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, Bộ công nghiệp Việt Nam... Vì vậy, nó chịu sự điều chỉnh của nhiều luật mà các luật ở nước ta còn có sự đan chéo, gây nhiều khó khăn cho các quyết định của trọng tài quốc tế trong nước và vụ kiện. + Chính sách ngoại thương của Nhà nước chưa thực sự nhất quán. Nhiều hình thức cấp bách ban hành chưa lâu đã thay đổi, lúc thì khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này, lúc thì cấp hạn ngạch thuế cao để hạn chế nó. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến những rủi ro cho hoạt động Ngân hàng như ứ đọng vốn, không thu hồi được vốn về. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang có xu hướng chuyển dịch các nghiệp vụ tài trợ XNK sang các Ngân hàng nước ngoài, các Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ phần thương mại. Do vậy, Chi nhánh phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Nhiều dự án có hiệu quả trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê, hải sản... đã rơi vào Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Điều dó đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHNT Hà Nội. - Thứ hai: Chính sách lãi suất và tỷ giá Lãi suất cho vay vẫn là vấn đề bức xúc khiến hệ thống Ngân hàng ta phải tập trung giải quyết. Mặc dù đã tổ chức được nhiều cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề này song cho đến nay lãi suất cho vay của hệ thóng Ngân hàng nước ta vẫn còn cao so với chi phí lạm phát và lãi suất trên thị trường khu vực. Trong điều kiện tỷ giá ổn định nhiều doanh nghiệp đã chấp nhận nợ quá hạn ngoại tệ để sử dụng ngoại tệ ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng. Doanh nghiệp lợi dụng điều này để kinh doanh trên lưng Ngân hàng với hình thức tinh vi như cho doanh nghiệp khác vay thậm chí là cho chính Ngân hàng vay lại một nội tệ với lãi suất cao để hưởng chênh lệch. Tất cả điều này đều tạo ra rủi ro tiền mặt cho nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng, kết quả là ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. - Thứ ba: Môi trường kinh doanh Hiện nay, điều kiện Việt Nam chưa cho phép mở rộng các hình thức tín dụng XNK: + Thương phiếu là công cụ cổ điển được sử dụng lâu đời trong quan hệ thương mại ở các nước phát triển, nhưng đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa được sử dụng. + Thị trường hối đoái chưa phát triển, các nghiệp vụ mà các Ngân hàng, nhà xuất khẩu có thể tham gia để phòng tránh rủi ro như forward, options, future chưa hình thành. + Nhà nước chưa có chính sách, chiến lược đủ mạnh ủng hộ hoạt động XNK như cung cấp thông tin, phát triển mạng lưới tin học, viễn thông tạo tiền đề cho hoạt động XNK. + Bên cạnh đó, trong năm 2002, hoạt động kinh tế của cả nước nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng tiếp tục chịu ảnh hưởng của những khó khăn của kinh tế thế giới. Thị trường trong nước có sức mua giảm sút, hàng hoá chậm luân chuyển tạo ra nguy cơ giảm phát trong nền kinh tế. Kinh tế đôi ngoại có một số khó khăn mới: thị trường XNK giá cả giảm sút, đầu tư nước ngoài bị thu hẹp... đã tác động lớn đến hoạt động Ngân hàng. Đặc biệt đối với NHNT Hà Nội, điều này còn khó khăn hơn nhiều vì hầu hết các doanh nghiệp đều là kinh tế địa phương với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, khả năng hấp thụ vốn thấp... + Tỷ giá một đồng ngoại tệ thay đổi thất thường, đặc biệt tỷ giá đồng đô la tăng nhanh ảnh hưởng đến nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác một số mặt hàng nông sản xuống giá liên tục cũng ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và kết quả kinh doanh của các đơn vị xuất khẩu gặp khó khăn. - Thứ tư: Thiên tai lũ lụt Thiên tai lũ lụt hạn hán cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng cho doanh nghiệp, nó đem lại thiệt hại về kinh tế và e ngại về tâm lý cho các tổ chức kinh doanh và cá nhân. Những thiệt hại này khiến cho các doanh nghiệp vốn đã làm ăn không hiệu quả để trả gốc lẫn lãi cho khoản vay khi đến lại càng gặp khó khăn nghiêm trọng hơn. Do vậy tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng tăng lên làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. - Thứ năm: Về phía doanh nghiệp XNK + Vốn tự có của doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ: phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tồn tại và hoạt động dựa vào nguồn vón Ngân hàng là chính. Vì vậy, khi được Ngân hàng cho vay thì lợi nhuận sinh lời không đủ trả lãi cho Ngân hàng. Ngoài ra còn vì nhiều doanh nghiệp có vốn tự có thấp nhưng Ngân hàng bắt buộc phải cho vay để thực hiện các mục tiêu của chính phủ. Và khi các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu qủa thì Ngân hàng phải tự ganh chịu rủi ro. + Phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp không hợp lý: Sự bất hợp lý thể hiện qua việc nghiên cứu thị trường, dự đoán mức tiêu thụ không chính xác, đán giá lại công suất, máy móc không khớp với nguyên liệu đầu vào dẫn đến không hoàn thành lịch trả nợ cho Ngân hàng. Các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị bằng trả chậm còn nhiều vốn xây dựng cơ bản do ngân sách Nhà nước cấp. Song do nguồn vốn này được cấp không đúng hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ đúng han của doanh nghiệp. + Do mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, kiến thức của doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về hợp đồng thương mại còn hạn chế gây bất lợi cho Ngân hàng (doaNgân hàng nghiệp bị ép mua với giá cao, chất lượng không đảm bảo, công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ, quy định phương án trả nợ không hợp lý dẫn đến nguồn thu không được bù đắp và trả nợ Ngân hàng). Ngoài một số doanh nghiệp còn không thực hiện đúng cam kết khi vay vốn như không mua bảo hiểm tài sản, sử dụng vốn sai mục đích. Trong thời gian tới, nếu Chi nhánh NHNT Hà Nội khắc phục được những tồn tại sau đây thì Chi nhánh sẽ luôn là người bạn tin cậy của khách hàng trong lĩnh vực tài trợ XNK nói riêng và lĩnh vực kinh doanh nói chung Chương III Giải pháp và kiến nghị mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội 1 Định hướng hoạt động năm 2003 của NHNT Hà nội 1.1. Định hướng chung Để có được kết quả kinh doanh tốt hơn trong năm 2003, Chi nhánh sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển theo các định hướng sau: * Tiếp tục bám sát định hướng phát triển của NHNT Việt Nam cũng như định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn thông qua nhiều hình thức: Đa dạng hoá sản phẩm với chất lượng cao, mở rộng phát triển màng lưới, duy trì việc đánh giá phân loại khách hàng tiền gửi để có những biện pháp thu hút khách hàng, khuyếch trương và quảng bá các sản phẩm mới. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tăng 15% so với năm 2002, đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ. * Đẩy mạnh công tác sử dụng vốn của Chi nhánh. Mở rộng tín dụng để đổi mới nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng nhiều biện pháp và luôn đảm bảo phương châm “an toàn, hiệu quả”. Tập chung xử lý nợ quá hạn, hạn chế tối đa rủi ro trong kinh doanh, giải quyết tốt mua bán ngoại tệ, đáp ứng cơ bản nhu cầu của khách hàng theo đúng hướng hoạt động và sản xuất kinh doanh trong nước. Phấn đấu mức dư nợ tới năm 2002 tăng 26% so với năm 2000. Tiếp tục bám sát các đơn vị có nợ quá hạn và các cấp chủ quan của đơn vị để cùng xử lý thu hồi nợ. Mục tiêu của năm 2001 là mức dư nợ quá hạn xuống dưới 2, 5%. * ổn định tổ chức và vận hành theo mô hình mới - Ngân hàng bán lẻ. Tiếp tục quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ kết hợp với việc nghiên cứu khoa học. Bổ sung thêm cán bộ mới tuyển dụng vào các phòng nghiệp vụ và thực hiện tốt các giao dịch trong chương trình mới. Tạo điều kiện cho cán bộ học thêm kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ và trình độ để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh. * Triển khai đầu tư xây dựng mới: Xúc tiến việc cải tạo sửa chữa nhà 344 Bà triệu, để chuyển hoạt động của Chi nhánh về đây và triển khai dự án xây dựng mới lại trụ sở chính 78 Nguyễn Du, đáp ứng nhu cầu phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thiên niên kỷ mới. 1.2. Phương hướng trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu Một Ngân hàng muốn thành công trong hoạt động kinh doanh thì mọi hoạt động của Ngân hàng phải nỗ lực, chung sức góp phần tạo uy tín cho Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng quen. Các khách hàng này sử dụng dịch vụ của Ngân hàng từ đó sẽ mang lại lợi ích cho từng lĩnh vực mà Ngân hàng kinh doanh. Tại NHNT Hà Nội cũng vậy, một định hướng chung như thế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK. Để hoàn thiện hoạt động này Chi nhánh đề ra định hướng: Đẩy mạnh đầu tư cho nhóm khách hàng chiến lược, mở rộng tìm kiếm các dự án có hiệu quả, phục vụ kinh doanh XNK và kinh tế đối ngoại của Thủ đô để đầu tư. Tiến tới đa dạng hoá các loại hình tính dụng tài trợ XNK nhằm khai thác tối ưu nguồn vốn hiện có. 2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại NHNT Hà Nội Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng XNK của Chi nhánh NHNT Hà Nội trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng bên cạnh những hoạt động đạt được hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ XNK nói riêng vẫn tồn tại những vướng mắc cần giải quyết. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, dựa vào phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong những năm tới của Chi nhánh và từ thực tiễn hoạt động của NHNT Hà Nội, em xin mạnh dạn nêu ra một số giải pháp và đề xuất sau. 2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành 2.1.1 Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn Định hướng tín dụng XNK của Chi nhánh phải phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Điều kiện kiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy động. Chính vì vậy, Chi nhánh phải tiếp tục mở rộng khai thác các nguồn vốn theo các hướng: - Xây dựng đề án phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài trên thị trường vốn quốc tế: NHNTHà Nội đã có uy tín trong hệ thống Ngân hàng quốc tế và thị trường trong và ngoài nước. Đây là cơ sở quan trọng nhất để huy động vốn bằng kỳ phiếu và kinh doanh trên thị trường chứng khoán quốc tế. Vấn đề quyết định thành công trong nghiệp vụ này là đội ngũ nhân viên có đủ trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp. Trước hết nên phát hành kỳ phiếu trung gian với các Ngân hàng đại lý có uy tín. Mặc dù thực hiện mua mỗi giới hiệu quả chưa cao nhưng nghiệp vụ đảm bảo an toàn và làm tiền đề cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Sau khi thâm nhập vào thị trường tiền tệ, lựa chọn và thử nghiệm, Ngân hàng sẽ từng bước thành lập văn phòng đại diện và Chi nhánh tại các thị trường này để nhanh chóng hoàn hập với cộng đồng Ngân hàng quốc tế. - Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào Chi nhánh bằng các chính sách tăng lãi xuất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn. Đối với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng, có chính sách ưu đãi riêng. - Chi nhánh cần sử dụng thế mạnh uy tín của mình để tranh thủ nguồn vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước dành cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các hoạt động kinh doanh XNK. . và thông qua mối quan hệ đối ngoại của hệ thống NHNT, Chi nhánh nên đẩy mạnh vốn vay dài hạn ở các tổ chức quốc tế. 2.1.2. Định hướng chiến lược tài trợ Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ đọng sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản xuất đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự án mặc dù đá được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt, nhưng trước khi quyết định cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định xem xét lại: - Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng theo điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế đấu thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín dụng theo quy định của Ngân hàng. - Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn tài trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ. - Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng (NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận... Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay. 2.2. nhóm giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK 2.2.1. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án XNK Cũng như đối với các loại tín dụng khác, quy trình tín dụng XNK được chia thành 3 giai đoạn theo thời gian và tính chất khoản vay. * Giai đoạn thẩm định trước khi cho vay Đây là giai đoạn khởi đầu và quan trọng nhất thể hiện khả năng tiếp cận dự án và khách hàng của ngân hàng. Đối với những doanh nghiệp truyền thống có quan hệ uy tín được cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi thì chỉ cần tập trung thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng. Dù là phương án cho vay vốn lưu động hay cố định thì những nội dung cơ bản cần xem xét là: - Khẳng định thị trường tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trong phương án kinh doanh với các yếu tố khu vực thị trường tiêu thụ, giá cả, chất lượng cạnh tranh, quan hệ của doanh nghiệp trên thị trường, các đối tác bán hàng và mua hàng, thu thập thông tin của các ngân hàng và các doanh nghiệp khác, sử dụng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro bằng phương pháp thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá sản phẩm trong mối quan hệ với chính sách Nhà nước có so sánh trên thị trường quốc tế. - Thẩm định lại toàn bộ số liệu, dữ liệu và các chỉ tiêu của dự án kinh doanh theo hệ thống các phương pháp và công thức có sẵn hoặc nạp dữ liệu cho máy tính theo chương trình được cài đặt sãn. * Giai đoạn phê duyệt và giải ngân Mặc dù hồ sơ vay được cácn bộ tín dụng thẩm định đầy đủ, nhưng khâu xem xét phê duyệt là không thể thiếu. Vì thực tế, không thể có một cán bộ tín dụng lý tưởng lại sự hiểu biết toàn diện được cả nghiệp vụ ngân hàng và kiến thức tổng hợp về thị trường, khoa học kỹ thuật, luật pháp... nên khả năng đánh giá của họ không thể đầy đủ và hoàn toàn đúng. Kế toán là người kiểm soát cuối cùng trước khi giải ngân kiêm tra và lưu trữ tài sản thế chấp, cầm cố, hợp đồng tín dụng và khê ước vay tiền, trước khi phát tiền vay hoặc chuyển tiền thanh toán và lưu hồ sơ giải ngân như các loại chứng từ có giá. * Giai đoạn kiểm tra sau Đây là giai đoạn kiểm nghiệm tính chính xác, khách quan của phương án kinh doanh đã được ngân hàng thẩm định: - Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay: về nguyên tắc, vốn vay chỉ được sử dụng đúng mục đích trong phương án kinh doanh. Việc phát triển tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, sec, sẽ gây khó khăn cho khả năng kiểm soát của ngân hàng. Giải pháp tốt nhất là giải pháp vốn vay qua tài khoản cho khách hàng vay là bắt buộc đối với doanh nghiệp và khuyến khích cá nhân hộ sản xuất. - Thu hồi và xử lý nợ Đối với nợ quá hạn, số tiền thu nợ từ khách hàng bao gồm trị giá của phần vốn gốc và phần lãi. Nếu hạch toán thu gốc toàn bộ tiền thu thì ngân hàng sẽ giảm được dư nợ quá hạn nhưng không có thu nhập, còn nếu hạch toán thu lãi trước thì sẽ mất vốn. Bởi vậy, theo nguyên tắc bảo toàn vốn thì ngân hàng cần thu gốc trước, đơn vị ngân hàng nào còn có nợ quá hạn thì không có thu nhập. Hiện nay, một số ngân hàng hạch toán thu nợ quá hạn cả gốc và lãi theo tỷ lệ 50/50 là không hợp lý. 2.2.2. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố - Xây dựng hệ thống kho tàng đủ tiêu chuẩn quản lý vật tự, hàng hoá... dùng làm tài sản thế chấp. Hoạt động kinh doanh kho bãi được thực hiện theo các chế độ khoán tài chính của công ty thu mua. Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu ngân hàng có kho bãi đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người vay. - Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm. Ngân hàng có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm trong nước và ngoài nước buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với ngân hàng. - Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thoả thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ tục pháp lý: có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới, giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung gian những tài sản thuộc diện xử lý của toà án. 2.2.3. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại. Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với các công cụ chủ yếu sau: - Hợp đồng mua bán kỳ hạn - Nghiệp vụ SWAP về lãi suất - Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá Với các điều kiện về con người và cơ sở vật chất, thông tin và các quan hệ uy tín trên thị trường quốc tế hiện nay. NHNT Hà Nội có thể áp dụng các hình thức kinh doanh này nhằm tăng thu nhập về dịch vụ, đồng thời quản lý được các rủi ro về biến động của thị trường tiền tệ. Để triển khai được các nghiệp vụ này, ngân hàng cần có đủ các điều kiện chủ quan sau: + Đề án kinh doanh hiệu quả và các giải pháp bảo đảm an toàn phòng ngừa các rủi ro. + Có quy trình phù hợp với các quy chế của ngân hàng Nhà nước và thực tiễn kinh doanh của ngân hàng. Quan trọng nhất là đảm bảo quản lý chặt chẽ phán quyết, trạng thái hối đoái, hệ thống kiểm tra, kiểm soát và thông tin tiếp thị. + Có đủ điều kiện về con người và trang bị kỹ thuật và công nghệ ngân hàng 2.2.4. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ XNK Hiện nay, NHNT Hà Nội chưa thực hiện tài trợ XNK dưới các hình thức như phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài chính... . Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh doanh của mình, NHNT Hà Nội không thể áp dụng ngay được các hình thức này. Song, trong những năm tới, ngân hàng nên cố gắng áp dụng tốt hình thức tín dụng bảo lãnh và tín dụng trả góp. Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn lớn. Để giúp cho các doanh nghiệp này Chi nhánh cấp tín dụng cho họ theo đó các doanh nghiệp này được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu không nhất thiết phải cùng vốn trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn (nguồn vốn mà Chi nhánh có ưu thế nhất) để cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định kỳ theo thoả thuận với Chi nhánh. Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 196 QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 về việc "Quy chế và nghiệp vụ bảo lãnh cho các ngân hàng". Quyết định số 196 QĐ-NH14 hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay. Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định 196, các NHTM đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu thực hiện hợp đồng... . giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những mặt được đó, qua hơn 8 năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo quyết định 196 NH - QĐ14 đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý. Với những kinh nghiệm của các ngân hàng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ này và bài học của bản thân mình, NHNT Hà Nội cần phải có nhận thức đúng về hình thức tín dụng bảo lãnh. Đây là hình thức tín dụng có tầm quan trọng trong việc giải quyết vấn đề vốn và đẩy mạnh tốc độ lưu thông hàng hoá, nhưng mặt trái của nó là gây ra hậu quả nghiêm trọng nêu không hiểu đúng bản chất và tính phức tạp của loại hình tín dụng này. Khi nghiên cứu về tư bản ngân hàng, C. Mác đã coi tín dụng bảo lãnh là loại đặc biệt - loại tín dụng chữ ký, mặc dù ngân hàng không xuất tiền vay nhưng lại chịu rủi ro như đối với số tiền vay cùng loại. Thật đáng tiếc là hiện nay vẫn nhiều ngân hàng quan niệm không đúng về bảo lãnh, coi đó chỉ là dịch vụ ngân hàng. Mức chi phí dịch vụ bảo lãnh hiện nay trung bình khoảng 1, 2%/năm tưởng rằng đã cao vì ngân hàng không phải bỏ vốn, nhưng xét về mặt giá trị thì mức phí này thấp hơn so với lãi suất tín dụng, trong khi về mức rủi ro cho vay và bảo lãnh là như nhau. Chưa kể ngân hàng phải bỏ ra một tỷ lệ vốn nhất định từ nguồn vốn kinh doanh để trích lập quỹ bảo lãnh nhằm phòng ngừa rủi ro. Một số ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng từ nước ngoài, sau đó lại tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp mua hàng trong nước, trong khi việc kiểm soát hàng hoá không thể chặt chẽ vì quá nhiều con nợ từ bán buôn đến bán lẻ chịu. Có khi thư bảo lãnh phát hành đi rồi nhưng bị lãng quên khi đến hạn thanh toán mới hay tài sản mà ngân hàng chịu trách nhiệm trả thay không biết đang nằm ở những đâu. Bên cạnh đó, các NHTM không biết hạch toán trả thay doanh nghiệp, hạch toán ký quỹ bảo lãnh và quỹ rủi ro bảo lãnh vào tài khoản nào. Do đó, khi NHNT Hà Nội áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu ý các điều trên và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay cùng loại: + Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng + Phân kỳ kế hoạch thu nợ + Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng + Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ. 2.3. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng 2.3.1. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của một NHTM, thể hiện: - Tiết kiệm chi phí, đẩy mạnh tốc độ thanh toán và lưu chuyển tiền tệ, tập trung và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh. Thực hiện kế toán giao dịch tức thời tại quầy, kiểm tra kiểm soát từ xa các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, quản lý thông tin báo coá thống kê và thông tin phòng ngừa rủi ro, quản lý lưu trữ hồ sơ tín dụng, kế toán ngân hàng. Đảm bảo an toàn hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ. Công nghệ tin học của thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho NHNT Hà Nội trong chiến lược hiện đại hoá ngân hàng. Trong năm tới, ngân hàng cần tập trung thực hiện từng bước chiến lược đó như sau: Thứ nhất: Triển khai mạnh thanh toán trực tiếp với hệ thống SWIFT, đảm bảo luân chuyển vốn, chứng từ nhanh chóng, chính xác và quản lý vốn ngoại tệ tập trung, củng cố hệ thống thanh toán liên hoàn nội bộ qua mạng vi tính, đảm bảo thông tin cập nhật. Thực hiện thí điểm nối mạng với một số doanh nghiệp lớn và dần dần nhân rộng cho mạng lưới khách hàng có điều kiện. Thứ hai: Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không dùng tiền. Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền tự động, đảm bảo cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ Chi nhánh nào trong cả nước. Thứ ba: Nâng cấp cơ sở hoạt động và các phương tiện làm việc của ngân hàng 2.3.2. Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng Con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản xuất xã hội. Chúng ta chuyển đỏi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá đòi hỏi: "xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, kến thức và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động ngân hàng". Để đạt được yêu cầu đó, NHNT Hà Nội cần tập trung vào chiến lược con người với nội dung cơ bản sau: - Thứ nhất: công tác đào tạo và đào tạo lại Một trong những nguyên nhân chất lượng tín dụng toàn ngành thấp là do chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, nhận thức không đầy đủ về quy luật thị trường và sản xuất hàng hoá. Do đó, đây là những mục tiêu để Chi nhánh xây dựng các giải pháp trong bộ trong hoạch định chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhân viên. Trước hết là công tác quy hoạch cán bộ các cấp, cần phải trang bị lại kiến thức cơ bản theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo định hướng, giúp cán bộ, công nhân viên ngân hàng tự học để có đủ trình độ phù hợp với cương vị đã đảm nhận. Cần phá bỏ triệt để tư tưởng cho đi học các đối tượng không nằm trong quy hoạch như sắp xếp nghỉ hưu, sức khoẻ hoặc năng lực không đủ điều kiện làm việc, cán bộ kỷ luật... Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành. Trước hết ưu tiên cho cán bộ tín dụng, kế toán và triển khai chương trình phổ cập tin học. Đào tạo hoặc tuyển dụng tổ chuyên gia tin học có khả năng xây dựng các đề án tin học và lập trình các nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng. Khuyến khích học ngoại ngữ đối với cán bộ chuyên môn, học chuyên môn đối với cán bộ chuyên ngữ và cán bộ nghiên cứu khoa học ngoài giờ bằng các hình thức khen thưởng vật chất hoặc nâng mức lương. - Thứ hai: Công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là những nội dung quan trọng trong tiêu chuẩn hoá và trẻ hoá cán bộ. Khác với những năm đầu thập kỷ 90, càng khác xa với thời kỳ kinh tế bao cấp, hầu hết số người được đào tạo trong trường chưa thể có đủ ngay kiến thức tổng hợp, thậm chí chưa đáp ứng được công việc trong điều kiện hiện đại, chưa nói đến sự phát triển tron tương lai. Việc tuyển chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quyết định trong tương lai phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp nước ngoài cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo: trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo... đã mang lại kết quả tốt cho Ngân hàng về đội ngũ nhân tài trẻ có năng lực và yêu cầu. Ngân hàng cần thực hiện tốt chế độ thi tuyến để có lớp người mới thực sự về chất. Những năm qua, việc thi tuyển chủ yếu tập trung vào ngoại ngữ cần phải đưa ra các môn thi chuyên ngành khác để lựa chọn cho cán bộ có đủ năng lực toàn diện về chuyên môn và nhận thức xã hội. Có được lớp người mới, số người cũ sẽ tự đào thải nếu không có ý thức vươn lên và thiếu ý thức trong công việc. Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, Chi nhánh sẽ dần khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay. - Thứ ba: Đối với cán bộ làm tín dụng XNK thì các yêu cầu và tiêu dùng chuẩn về năng lực cao hơn không những kiến thực nghiệp vụ mà cần trang bị cho họ trình độ cơ bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ... nơi nào chưa có đủ điều kiện về cán bộ thì kiên quyết không cho thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế. 2. 4. Chính sách khách hàng Khách hàng là nguyên nhân tồn tại và phát triển của NHTM. Nên khách hàng quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, thể hiện uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước. Để thực hiện tốt chính sách khách hàng, ngân hàng có thể vận dụng các hình thức, biện pháp sau đây: - Thứ nhất: Phân loại khách hàng Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ với Ngân hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính và kinh doanh. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn để phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các Chi nhánh ngân hàng cơ sở cho từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả đối tượng khách hàng lớn, truyền thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn. - Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp xúc và trao đổi thông tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ. Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tậm, đồng thời tạo được không khí cởi mở để thông qua khách hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ ngân hàng. Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn hàng là ngân hàng và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh nghiệm, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro. - Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh. Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị của ngân hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng và sản phẩm mới. Tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất khẩu. Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản công nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá. 3. Khuyến nghị 3.1. Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý ổn định và đồng bộ, đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng trước pháp luật, các quan hệ kinh tế xã hội được điều chỉnh theo định hướng XHCN. - Thứ nhất: Hoàn thiện môi trường pháp lý ổn định đồng bộ và nhất quán Trách nhiệm về hành chính và kinh tế cần được quy định rõ ràng đối với các cơ quan, cá nhân ban hành văn bản, ra quyết định như quyết định thành lập doanh nghiệp, cấy giấy phép kinh doanh, thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư ký xét duyệt các hồ sơ đề nghị bảo lãnh vay vốn, cấp vốn... Từng bước đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật vào thực tiễn sản xuất xã hội bằng việc triển khai nghiệm minh và đồng bộ giữa các cơ quan hành pháp, bắt đầu từ công an, hải quan, biên phòng, thuế vụ. Triệt để ngăn chặn các hoạt động buôn lậu trốn thuế, làm hàng giả gây hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến tín dụng ngân hàng. Theo điều 12 NĐ 178 về việc giữ tài sản và giấy tờ của tài sản cầm cố thế chấp có quy định "Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu... tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản". Thực tế hiện nay, các tổ chức tín dụng chưa nắm rõ được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó. Vì vậy, Chính phủ cần ban hành văn bản pháp lý quy định cụ thể về đăng ký quyền sở hữu tài sản. Để đảm bảo tín dụng tài trợ XNK của NHTM có hiệu quả, trước hết chính sách XNK cần được hoàn thiện đồng bộ với chiến lược phát triển và kế hoạch của nền kinh tế quốc dân. Rà soát lại khả năng của các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK và cho phép các doanh nghiệp có hàng XNK ổn định được phép XNK trực tiếp. Bộ thương mại cần quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép đối với chất lượng và giá cả hàng hoá nhập khẩu, đặc biệt là thiết bị công nghệ. - Thứ hai: Chính sách trợ giá và bảo hiểm XNK Có thể nói, một số hàng xuất khẩu của ta hiện nay chịu thua thiệt nhiều do thiếu vốn và cơ chế chính sách, đặc biệt là mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, hạt điều... Những dự án nhập khẩu thiết bị đòi hỏi phải được đầu tư đồng bộ tránh tình trạng như nhiều dự án do Chi nhánh cho vay đều chậm tiến độ thi công, các nguồn đầu vào (nguyên liệu, nhân lực, cán bộ chuyên gia lành nghề) chưa được quy hoạch hợp lý trong khi hạn vay của các khoản tín dụng trong nước đã hết hạn, gây khó khăn cho ngân hàng. Nhằm bảo hiểm và khuyến khích hoá XNK Việt Nam, nhất là đối với hàng nông sản cần nhanh chóng thành lập tổ chức bảo hiểm xuất khẩu với các thành viên chủ yếu từ Chính phủ, các ngân hàng, Bộ Thương mại và các bộ ngành liên quan thực hiện hai chức năng cơ bản sau: + Tư vấn và thông tin tiếp thị cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK + Cấp tín dụng người mua và bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam - Thứ ba: Nhà nước cần nhanh chóng thực thi các biện pháp xử lý tài sản thế chấp Hiện nay số lượng tài sản thế chấp ở ngân hàng khó lớn, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP, khi khách hàng không trả được nợ thì tổ chức tín dụng được xử lý tài sản thế chấp thu hồi vốn. Tuy nhiên, hiện nay việc xử lý tài sản thế chấp theo đúng trình tự pháp luật để ngân hàng thu hồi vốn hiện còn rất phức tạp, nên hầu hết việc xử lý tài sản thế chấp đều được thực hiện theo phương thức thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, để khách hàng tự nguyện bán tài sản thế chấp trả nợ ngân hàng... song số lượng này không nhiều. Nhà nước cần thường xuyên giám sát, thanh tra các hoạt động tín dụng của ngân hàng từ khâu đầu cho đến khâu tháo gỡ những vướng mắc trong xử lý tài sản thế chấp. Cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính pháp lý để tạo điều kiện cho tài sản được mua bán chuyển nhượng dễ dàng, góp phần giảm nợ quá hạn của ngân hàng xuống đến mức cho phép tài sản mang tính hình thức thủ tục trong việc vay vốn của ngân hàng. 3.2. Đối với NHNT Việt Nam Với tốc độ phát triển kinh tế vượt bậc như hiện nay, mối quan hệ kinh doanh hiện nay, nhất là lĩnh vực tài trợ XNK không ngưng được mở rộng sang các nước, các khu vực mới. Vì vậy, NHNT Hà Nội phải tận dụng mọi cơ hội để tăng cường các mối quan hệ đại lý các ngân hàng nước ngoài. NHNT Việt Nam đã có 35 năm kinh nghiệm phát triển. Với thời gian phát triển như vậy, Ngân hàng đã tạo được quan hệ với 1600 ngân hàng nước ngoài. Vì thế, NHNT Việt Nam cần giúp đỡ NHNT Hà Nội, để Chi nhánh tăng cường các mối quan hệ đại lý của mình, hạn chế những khó khăn do vấn đề này gây nên. NHNT Việt Nam cần định kỳ trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ trong toàn hệ thống để đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác, góp phần giữ vững thị phần của NHNT trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK. 3.3. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK ở nước ta hiện nay, để nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng cho hoạt động XNK thì bên cạnh những kiến nghị đưa ra đối với cơ quan quản lý vĩ mô, NHNT Việt Nam thì nhất thiết phải đưa ra những kiến nghị đối với những doanh nghiệp XNK - một tác nhân quan trọng trong mối quan hệ tín dụng đối với các NHTM. Do trình độ còn non kém trong lĩnh vực ngoại thương của các cán bộ tại doanh nghiệp XNK nên đã tạo những bất lợi cho chính doanh nghiệp và ngân hàng. Để khắc phục nhược điểm này không còn cách nào khác là các khách hàng phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình như: + Các nhà kinh doanh XNK phải có trình độ về ngoại thương và thanh toán quốc tế. + Đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ tốt để có thể tiếp cận với những phương tiện tín dụng quốc tế hiện đại. + Cử cán bộ di dự các lớp nâng cao trình độ nghiệp vụ do các trường đại học hoặc tổ chức trong và ngoài nước đào tạo. Mời chuyên gia về giảng dạy, tư vấn trong lĩnh vực ngoại thương. + Cần có chế độ thưởng phạt và kích thích tinh thần làm việc của các thành viên trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp XNK cần đẩy mạnh hoạt động Marketing XNK để hạn chế rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán với ngân hàng. Những diễn biến trên thị trường thế giới phức tạp khó có thể lường trước, hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp chưa đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, có được một chiến lược marketing hiệu quả, hợp lý là cần thiết. Trên cơ sở nắm bắt thông tín, doanh nghiệp sẽ có phương thức, chiến lược thâm nhập vào thị trường XNK, sẽ có những quyết định về sản phẩm, giá cả đúng đắn góp phần mở rộng và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh XNK của mình. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng cho doanh nghiệp XNK sẽ có hiệu quả cao nếu các doanh nghiệp XNK chấp hành tuyệt đối các nguyên tắc điều kiện thoả thuận khi vay vốn ngân hàng. Cụ thể, là phải sử dụng vốn đúng mục đích như cam kết trong đơn xin vay vốn. Những tài sản mà doanh nghiệp đã mang thế chấp cầm cố tại Chi nhánh thì không được quyền chuyển nhượng, cầm cố hay bán cho các cá nhân khác khi chưa trả đủ nợ cho Ngân hàng. Nếu doanh nghiệp còn dư nợ thì không được bằng cách này hay cách khác thiếu trung thực để được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng. Kết luận Những năm qua, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa và đặc biệt là nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp hoạt động XNK, các NHTM Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đó. Cùng với các ngân hàng trong toàn ngành, Chi nhánh NHNT Hà Nội với vai trò ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực ngoại thương trên địa bàn đã tiến hành đổi mới hoạt động theo hướng kinh doanh đa năng, tổng hợp dần sang hoạt động ngân hàng quốc tế. Tín dụng XNK- sản phẩm chủ đạo của ngân hàng, trong vài năm gần đây đã thu được những thành công và góp phần đáng kể vào sự phát triển hoạt động XNK của Việt Nam. Có được thành công này một phần quan trọng là do ngân hàng đã thực hiện tốt phương châm “ lấy chất lượng làm đầu”. Ngân hàng đã coi việc nâng cao chất lượng tín dụng là biện pháp tối ưu để tăng trưởng tín dụng và thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên, do phải hoạt động trong môi trường mà các điều kiện về tiền tệ chưa ổn định, sự cạnh tranh gay gắt và do những nguyên nhân nội tại như về con người, về điều kiện phương tiện phục vụ hoạt động... mà việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng XNK nói riêng còn có những hạn chế nhất định. Thấy được những hạn chế đó, với nỗ lực không ngừng và khả năng phát triển của Ngân Hàng như hiện nay chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng trong tương lai hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng XNK nói riêng của NHNT Hà Nội sẽ phát triển mạnh mẽ và đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển của nghành ngân Hàng cũng như sự phát triển chung của đất nước. Tài liệu tham khảo Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNT Việt Nam và Chi nhánh NHNT Hà Nội. Các tài liệu nghiệp vụ khác của NHNT Hà Nội. Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng nâng cao-Học viện ngân hàng. Giáo trình tài chính doanh nghiệp - Trường Đại học KTQD Hà nội Giáo trình Kinh tế quốc tế- Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội 6. Lý thuyết tài chính- tiền tệ Nguyễn Ngọc Hùng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thống kê 7. Ngân hàng thương mại- Edward Weed, Ph. D và Edward K. Gill, Ph. D, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 8. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - David Cox, NXB Chính trị quốc gia 9. Tài chính học-Trường ĐH Tài chính-kế toán Hà nội, NXB Tài chính 10. Tài chính ngoại thương-Herbert-Jkessler, NXB Khoa học kỹ thuật 11. Tạp chí ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài chính - tiền tệ năm 2000-2001-2002 12. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương- Đinh Xuân Trình, Trường Đại học Ngoại thương, NXB Giáo dục 13. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Fredẻic Minshkin, NXB Khoa học kỹ thuật 14. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ - Lê Văn Tư và Lê Tùng Vân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội.Doc
Tài liệu liên quan