Đề tài Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến

LỜI MỞ ĐẦU Trải qua rất nhiều năm nay, phương thức quản lý đào tạo theo kiểu truyền thống cho thấy sự đóng góp không thể chối cãi trong việc cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phát triển của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thống, chính phương thức đó cũng bộc lộ một số yếu kém ảnh hưởng đến việc truyền đạt và tiếp thu nội dung kiến thức, trong đó có thể kể đến việc quản lý hồ sơ không đạt hiệu quả cao, nội dung các giáo trình, sách giáo khoa thường khó có thể cập nhật kịp thời, hình thức bài giảng không tạo nên được sự hứng thú học tập cho học viên, việc tra cứu tại chỗ các tài liệu tham khảo rất hạn chế và mất nhiều thời gian, Điều đó mang lại hiệu quả học tập không cao mà chi phí cho đào tạo và học tập lại lớn, dẫn đến sự lãng phí không nhỏ cả về thời gian, tiền bạc. Nhận thức được những vấn đề trên, công tác giáo dục đào tạo đã có nhiều thay đổi, cải tiến với các hình thức học tập mới khắc phục những nhược điểm của phương pháp học tập truyền thống. eLearning, được hiểu là học tập điện tử, đào tạo trực tuyến, với sự trợ giúp của các công nghệ mới nhất trong lĩnh vực công nghệ thông tin, là hình thức học tập hứa hẹn sẽ khắc phục tốt những nhược điểm của phương pháp học tập truyền thống. eLearning đã được thử nghiệm và bước đầu hoàn chỉnh ở nhiều nơi trên thế giới. Đề tài “Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến” sẽ nêu rõ những khái niệm và cấu trúc về hệ thống đào tạo từ xa cũng như ứng dụng các công cụ cho việc soạn bài giảng trực tuyến . Đề tài bao gồm các nội dung chính sau: Chương 1. Tổng quan: Đặt vấn đề, tình hình phát triển eLearning trên thế giới và ở Việt Nam. Mục tiêu của đề tài. Chương 2. eLearning: Chương này sẽ giới thiệu về những kiến thức, thông tin cơ bản của hệ thống eLearning bằng cách trình bày định nghĩa về eLearning, các thành phần cơ bản của eLearning và một số vấn đề quan trọng liên quan đến các thành phần của hệ thống eLearning. Chương 3. Learning Object (LO): Chương này sẽ trình bày về LO, chuẩn SCORM, cách đóng gói LOs thành các SCOs. Ví dụ thực nghiệm cách đóng gói này với công cụ đóng gói Reload Editor. Chương 4. Chuẩn SCORM: Chương này sẽ giới thiệu tổng quan về chuẩn, các khái niệm liên quan và cấu trúc của chuẩn SCORM. Chương 5. LMS và Moodle: Trình bày về hệ thống Quản lý đào tạo và ví dụ thực nghiệm trên hệ thống quản lý học tập Moodle. Chương 6. Ứng dụng :Tạo gói SCORM và tích hợp gói SCORM trên hệ thống eLearning Moodle Chương 7. Tổng kết : những chức năng đã làm được và hướng phát triển của đề tài

doc76 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2178 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đăng ký học sẽ được nhận giáo trình (giấy), đĩa CD tài liệu (phần mềm do Trung tâm CNTT của ĐHQGHCM phát triển), được cấp một tài khoản (username/password) để trao đổi nội dung học tập với giáo viên qua mạng. Học viên có thể được bố trí một số thời gian nhất định để gặp gỡ, trao đổi với giáo viên. Thời gian học cho bằng 1 là 4 năm, chia làm 3 học kỳ, theo giáo trình chính quy của ĐHQGHCM. Thời gian học cho bằng 2 là 2.5 năm. Học phí học cho cử nhân bằng 1 là 700.000VND/học kỳ, bằng 2 tính theo học phần với giá 650.000VND/học phần (bao gồm 8 học phần). Hình thức thi hết môn: tương tự như hệ thi chính quy (tức là thi tập trung tại địa điểm do trường quy định, không phải là thi qua mạng) (Theo website www.triduc.com.vn). Trung tâm phát triển CNTT Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng mở một Website đào tạo trực tuyến tại địa chỉ với một số môn học về Tin học có một số minh họa video. Đại học Bách khoa Hà Nội: gấn đây đang tích cực triển khai một số đề tài về eLearning. Trong đó nổi bật là hệ thống đào tạo từ xa BKview trong khuôn khổ của đề tài cấp nhà nước KC.01.09. Hiện nay đề tài vẫn đang ở giai đoạn thực hiện. Khác với phần lớn các hệ thống eLearning khác ở Việt Nam, BKview là một hệ thống eLearning hoàn chỉnh với đầy đủ các chức năng nhờ vào việc BKview dựa trên hệ thống nền nhập ngoại đó là hệ Virtual-U của Virtual Learning Environment. ( Đại học Cần Thơ: Chương trình đào tạo từ xa về CNTT với sự hợp tác của Đại học Cần Thơ và các trường đại học Vương quốc Bỉ (địa chỉ Cung cấp một số giáo trình như: “Tin học căn bản”, “Tiếng Anh dành cho nông nghiệp”, “Thuỷ sản”. Một số tài liệu thể hiện dưới dạng sách điện tử tham khảo (dạng trang Web, đểu là tài liệu tiếng Anh), một số tài liệu nâng cao có các bài tự kiểm tra kiến thức đã học (như Tin học căn bản, Tiếng Anh chuyên nghành nông nghiệp) Sau khi kiểm tra có đánh giá kết quả và hướng dẫn người học bổ sung kiến thức còn khiếm khuyết (các giáo trình Tin học căn bản). Công ty Phát triển Phần mềm – VASC (Bộ Bưu chính Viễn thông) đã mở một Website cho dịch vụ luyện thi trực tuyến tại địa chỉ www.truongthi.com.vn. Tại Website này người dùng có thể tham gia các chuyên mục như: Lớp luyện thi trực tuyến, với nội dung bài học dưới dạng văn bản và dưới dạng âm thanh; Thư viện kiến thức, phục vụ việc tra cứu kiến thức liên quan đến việc luyện thi như các bộ đề thi; Tư vấn hướng nghiệp, cung cấp các thông tin tư vấn của các chuyên gia về các vấn đề như phương pháp học tập, hướng nghiệp, thông tin về các suất học bổng, các trường đại học trên thế giới; Thông tin – Tin tức cung cấp các thông tin mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tuyển sinh, các trường đại học, quy chế tuyển sinh của các trường… Ngoài ra học sinh có thể tham gia mục Câu lạc bộ để trao đổi thảo luận với những người dùng khác dưới hai hình thức là Diễn đàn (forum) và Trao đổi trực tuyến (chat). Các ý kiến góp ý hoặc thắc mắc được gửi tới người chịu trách nhiệm thông qua chức năng Hỗ trợ trực tuyến – Góp ý. Đây không phải là dịch vụ hoàn toàn miễn phí, để sử dụng các chức năng nâng cao như bài giảng trực tuyến, thư viện kiến thức … người dùng phải mua thẻ truy cập dịch vụ của công ty. Trung tâm công nghệ thông tin - Học viện Bưu chính Viễn thông (CDIT) cũng có một Web site tương tự www.truongthi.com.vn đặt tại địa chỉ Trung tâm Công nghệ Kỹ nghệ Sài gòn (SaigonCTT): Kết hợp với công ty Cisco thực hiện các khoá đào tạo dài hạn (8 học kỳ tương đương 560 giờ học) về các công nghệ mạng của Cisco. Học viên được học về cách thiết kế, xây dựng và bảo trì hệ thống mạng máy tính và sẽ được cấp chứng chỉ quốc tế (CCNA) sau khi tốt nghiệp. Nội dung bài học được chuyển tải qua Web sử dụng công nghệ eLearning của Cisco. Mô hình này gồm sách và tài liệu điện tử; giả lập và phòng thí nghiệm ảo; giao tiếp đa phương tiện; hợp tác và cộng đồng; quản lý chất lượng học viên và hệ thống quản lý trên web. Trung tâm Thông tin Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Information Center – VDIC, Trung tâm có một phòng học chuyên dụng phục vụ cho mục đích học từ xa qua hệ thống cầu truyền hình (videoconferencing). Phòng học tương tác hiện đại, được trang bị một hệ thống cầu truyền hình hội thảo 2 chiều, các máy tính kết nối Internet, các nguồn đào tạo trực tuyến, hệ thống phiên dịch đồng thời và các thiết bị hỗ trợ khác. Học viên có thể đưa ra câu hỏi, nhận xét hoặc thảo luận với giáo viên và học viên ở các trung tâm đào tạo từ xa khác trên thế giới. Các khoá đào tạo từ xa tại Trung tâm hiện do Mạng Đào tạo Phát triển toàn cầu (Global Development Learning Network - GLDN) cung cấp. Đây là một mạng lưới đang phát triển mạnh mẽ, gồm các tổ chức học thuật và phát triển, cung cấp các khoá đào tạo từ xa về các vấn đề liên quan tới các quốc gia đang phát triển. Mỗi khoá học như vậy với thời lượng khoảng 40 giờ được ấn định vào những khoảng thời gian được nhất định. Người học cần phải có mặt tại phòng học vào thời gian ấn định của lớp học, do giới hạn của phòng học nên mỗi buổi học tối đa chỉ được 40 học viên tham dự. Ngoài những khoá học từ xa có giáo trình cụ thể, thiết bị cũng cho phép tổ chức trao đổi kiểu hội nghị với các cơ sở có thiết bị tương tự ở các nước khác. Trường “Anh ngữ và Kỷ nguyên mới” (TPHCM) kết hợp với công ty IIS (Mỹ) giới thiệu chương trình học tập qua mạng (eLearning and E-training) dành cho các doanh nghiệp (tin tháng 12/2001, website www.thegioigiaoduc.saigonnet.vn). Trung tâm eLearning Việt - Nhật: Đây là một dự án CNTT kết hợp giữa chính phủ Nhật và Việt nam nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các kỹ sư CNTT Việt Nam. Học viên được tổ chức thi sát hạch và đào tạo theo tiểu chuẩn Nhật Bản, có sự tham gia của phía Nhật Bản. Dự án này có mục đích là đào tạo ra những kỹ sư CNTT theo một tiêu chuẩn chất lượng chung của thế giới. Tuy nhiên, dù mang tên là eLearning nhưng đây không phải là một hình thức đào tạo trực tuyến như là tên gọi đã gợi tới. Trung tâm Pháp Việt Đào tạo về quản lý (CFVG- TPHCM): Theo báo cáo đã có các triển khai thử về đào tạo trực tuyến theo như một báo cáo (“eLearning dưới góc độ người đào tạo”) trong “Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo năm 2001”, mặc dù không đề cấp cụ thể đến kết quả đạt được. Công ty Xi măng Sao mai: Qua website (www.saomai.com) Cty cho biết đang triển khai việc huấn nghiệp qua mạng cho các nhân viên với mục đích nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. (Sao mai là một công ty xi măng liên doanh với Thụy Sĩ, chủ yếu cung cấp xi măng cho các thị trường phía Nam). Trung tâm tin học và ngoại ngữ Trí Đức (www.triduc.com.vn) : Cung cấp các khoá học qua mạng. Người học đăng ký học qua mạng sẽ được nhận một account để kết nối vào mạng của công ty (hoặc nếu không có điều kiện thì có thể đến tận công ty để học). Giáo trình bao gồm các tài liệu học, có thực hiện việc tự kiểm tra trong quá trình học, có giáo viên hướng dẫn nếu học tại công ty. Trợ giúp cho người học được thực hiện qua hệ thống diễn đàn, email hoặc trợ giúp qua điện thoại. Hiện nay các khoá học của Tri Đức chủ yếu là về CNTT. Sau khoá học, công ty sẽ giúp người học có nhu cầu có thể đăng ký thi trực tiếp trên Internet để lấy chứng chỉ từ những công ty như Sun hay Microsoft. Công ty dự định triển khai WBT trong tháng 3/2002. Địa chỉ: 1 Yết Kiêu, Hà Nội. Công viên IT: Website của VDC (www.itpark.com.vn/dtao_ttuyen.php) giới thiệu một số các tài liệu và các website liên quan đến WBT và eLearning tại Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên nội dung thông tin rất nghèo nàn và lạc hậu, không có gì đáng chú ý. Dự án Edunet của bộ Giáo dục và đào tạo: Bộ Giáo dục và đào tạo đã bắt đầu triển khai dự án mạng VnuNet kết nối toàn bộ các thông tin về giáo dục đào tạo trong cả nước. Theo dự định mạng sẽ triển khai mô hình đào tạo trực tuyến (Theo báo Tuổi trẻ, tháng 12/2000). Địa chỉ website: www.moet.edu.vn. Ở Việt Nam, eLearning đang ở giai đoạn sơ khai, nhận thức về eLearning còn rất thấp. Một số ít đơn vị triển khai elearning ở mức độ nhất định, thử nghiệm là chính, chưa mang tính chất phổ biến, nội dung nghèo nàn, chất lượng thấp. Một số công ty đã bắt đầu giới thiệu eLearning như một sản phẩm thương mại (VASC, CDIT, Công ty Trí Đức), mới là bước khởi đầu, chưa thể đánh giá kết quả một cách chính xác. Một vài nơi ở TPHCM có những sản phẩm được quảng cáo là “đào tạo từ xa” thực chất chỉ là những ứng dụng dạng CBT (computer-based training) với tài liệu học được trình bày dưới dạng Web, có hỗ trợ Video – tuy nhiên một trong những tính năng quan trọng của eLearning là tương tác giữa người học - người dạy thì rất hạn chế. Hầu hết các sản phẩm eLearning ở Việt Nam còn thiếu các chức năng hỗ trợ cho hoạt động dạy học ví dụ như các chức năng cho phép giáo viên cập nhật sửa đổi tài liệu dạy học một cách tự động, cho phép dùng lại tài liệu của những giáo viên khác. Tài liệu giảng dạy (phần chính trong một hệ thống eLearning) có nội dung nghèo nàn thiếu sinh động, không được cập nhật thường xuyên do đó không có sức lôi cuốn người học. CHƯƠNG 2. ELEARNING eLearning là một khái niệm mới mẻ, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một số định nghĩa cũng như làm sáng tỏ một số khái niệm liên quan đến eLearning, đồng thời cũng phân tích các ảnh hưởng của eLearning đối với việc dạy và học eLearning là gì Từ thủa sơ khai, con người đã có các hoạt động học và đào tạo. Hình thức đào tạo phổ biến nhất từ trước tới nay (hay gọi là đào tạo truyền thống) là hình thức mà giáo viên và học sinh cùng tập hợp tại lớp học, giáo viên truyền đạt kiến thức còn học sinh tiếp thu. Theo thời gian, các cách học và đào tạo cũng dần thay đổi. Sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của cuộc sống con người trong đó có cả lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Khoa học công nghệ đã trợ giúp rất hiệu quả cho hoạt động giáo dục đào tạo, giúp tháo gỡ các ràng buộc về không gian, thời gian học, tuổi tác cũng như trình độ của người học trong đào tạo truyền thống, làm thay đổi rất nhiều đến hình thức đào tạo truyền thống. eLearning (viết tắt của Electronic Learning) là một thuật ngữ mới. Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về eLearning là gì, dựa theo các quan điểm và dưới các hình thức khác nhau. Hiểu theo nghĩa rộng, eLearning là việc ứng dụng công nghệ (đặc biệt là CNTT) trong đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và thỏa mãn nhu cầu đào tạo. eLearning có thể bao gồm các mức độ từ thấp đến cao như: Việc sử dụng các thiết bị trợ giảng điện tử (máy chiếu), các phần mềm máy tính (MS Power Point) để minh họa, trình diễn bài giảng. Việc đổi mới thi cử bằng các bài thi trên máy tính độc lập hoặc nối mạng được chấm điểm tự động. Việc nâng cao chất lượng quản lý đào tạo bằng các chương trình máy tính. Việc tăng cường và đa dạng hóa tài liệu đào tạo bằng các thư viện điện tử, các nguồn tài liệu tra cứu trên đĩa CD, trên các máy chủ nội bộ của tổ chức hoặc trên các Website. Việc làm phong phú thêm các hình thức trao đổi, thông tin liên lạc trong đào tạo giữa giáo viên với học viên, học viên với học viên sử dụng các công cụ liên lạc từ xa như: email, đàm thoại trên mạng (chat), diễn đàn qua mạng, trao đổi trực tuyến sử dụng Video-Audio conferencing (bao gồm cả satelline TV conferencing lẫn realtime computer conferencing). Các phần mềm dạy học hoàn chỉnh trên máy tính cục bộ hoặc trên đĩa CD (Computer Based Training - CBT) hoặc trên các Website (Web-Based Training - WBT) cho phép học ở mọi nơi, mọi lúc. Theo quan điểm hiện đại, eLearning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Interner, Intranet, … trong đó nội dung học có thể thu được từ các Website, đĩa CD, băng video, audio… thông qua một máy tính hay TV, người dạy và người học giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như: email, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum), hội thảo video (video conferencing) ….Việc giao tiếp ở đây có hai hình thức là giao tiếp đồng bộ (synchronous) và giao tiếp không đồng bộ (asynchronous). Giao tiếp đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó những người sử dụng truy cập mạng tại cùng một thời điểm và giao tiếp với nhau, ví dụ như thảo luận trực tuyến, hội thảo video là các hình thức giao tiếp đồng bộ. Ngược lại giao tiếp không đồng bộ là hình thức mà những người giao tiếp không nhất thiết truy cập mạng tại cùng một thời điểm, ví dụ email, diễn đàn là các hình thức giao tiếp không đồng bộ. Một số hình thức eLearning: TBT - Technology-Based Training (đào tạo dựa trên công nghệ): là hình thức đào tạo có sự áp dụng công nghệ đặc biệt là dựa trên CNTT. Thuật ngữ này có thể hiểu một cách tương đương như thuật ngữ eLearning. CBT - Computer-Based Training (đào tạo dựa trên máy tính): Hiểu theo nghĩa rộng, thuật ngữ này nói đến bất kỳ một hình thức đào tạo nào có sử dụng máy tính. Nhưng thông thường thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên các máy tính độc lập, không nối mạng, không có giao tiếp với thế giới bên ngoài. Thuật ngữ này thường được hiểu đồng nhất với thuật ngữ CD-ROM Based Training. Web-Based Training (đào tạo dựa trên Web): là hình thức đào tạo sử dụng công nghệ Web. Nội dung học, các thông tin quản lý khóa học, thông tin về người học được để trên các Website và người dùng có thể dễ dàng truy nhập qua trình duyệt. Người học có thể giao tiếp với nhau và với giáo viên, sử dụng các chức năng trao đổi trực tiếp, diễn đàn, email…, thậm chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp với mình. Online Learning/Training (đào tạo trực tuyến): Hình thức đào tạo có sử dụng kết nối mạng để thực hiện việc học: lấy tài liệu học, giao tiếp giữa người học với nhau và với giáo viên… Distance Learning (đào tạo từ xa): Thuật ngữ này nói đến hình thức đào tạo trong đó người dạy và người học không ở cùng một chỗ, thậm chí không cùng một thời điểm. Ví dụ như việc đào tạo sử dụng công nghệ hội thảo cầu truyền hình, hoặc công nghệ Web. Cấu trúc và thành phần của một hệ thống E-Learning Mô hình cấu trúc điển hình cho hệ thống E-Learning sử dụng cho các trường đại học, cao đẳng hoặc trung tâm đào tạo (hình 1) bao gồm các thành phần sau: - Giảng viên (A): Giảng viên các khoa, giáo viên thỉnh giảng chịu trách nhiệm cung cấp nội dung của khóa học cho phòng xây dựng nội dung (C) dựa trên những kết quả học tập dự kiến nhận từ phòng quản lý đào tạo (D). Ngoài ra họ sẽ tham gia tương tác với học viên (B) qua hệ thống quản lý học tập LMS (2). - Học viên (B): Sinh viên và các đối tượng có nhu cầu học tập. Họ sẽ sử dụng cổng thông tin người dùng để học tập, trao đổi với giảng viên (qua hệ thống LMS – 2), sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập (3). Phòng xây dựng chương trình (C): Các chuyên viên đảm nhận trách nhiệm xây dựng, thiết kế bài giảng điện tử (thiết kế kịch bản, soạn thảo nội dung, kỹ thuật multimedia, lập trình bài giảng ...). Sử dụng hệ thống quản lý nội dung LCMS (1), họ lấy nội dung khóa học từ các giảng viên (A) và chuyển những nội dung đó thành bài giảng điện tử. Trong quá trình xây dựng, họ có thể sử dụng những đơn vị kiến thức sẵn có trong ngân hàng kiến thức (I) hoặc dùng các công cụ thiết kế (4) để thiết kế những đơn vị kiến thức mới.Sản phẩm cuối cùng là các bài giảng điện tử được đưa vào ngân hàng bài giảng điện tử (II). - Phòng quản lý đào tạo (D): Các chuyên viên đảm trách nhiệm vụ quản lý việc đào tạo (qua hệ thống LMS – 2). Ngoài ra thông qua hệ thống này, họ cần phải tập hợp được các nhu cầu, nguyện vọng của học viên về chương trình, nội dung học tập để lập nên những yêu cầu cho đội ngũ giảng viên, tạo nên một chu trình kín góp phần liên tục cập nhật, nâng cao chất lượng giảng dạy. - Cổng thông tin người dùng hay còn gọi là user’s portal: Giao diện chính cho học viên (B), giảng viên (A) cũng như các phòng (C) (D) truy cập vào hệ thống đào tạo. Giao diện này hỗ trợ truy cập qua Internet từ máy tính cá nhân hoặc thậm chí các thiết bị di động thế hệ mới (mobil). - Hệ thống quản lý nội dung LCMS – Learning Content Managerment System (1): là một môi trường đa người dùng cho phép giảng viên (A) và phòng xây dựng chương trình (C) cùng hợp tác để xây dựng nội dung bài giảng điện tử. LCMS được kết nối với các ngân hàng kiến thức (I) và ngân hàng bài giảng điện tử (II). - Hệ thống quản lý học tập LMS – Learning Managerment System (2): Khác với LCMS chỉ tập trung vào xây dựng và phát triển nội dung, LMS được dùng để hỗ trợ cho việc học tập cũng như quản lý học tập của học viên. Các dịch vụ như đăng ký, giúp đỡ, kiểm tra ...cũng được tích hợp vào đây. Vì vây LMS là giao diện chính cho học viên học tập cũng như phòng quản lý đào tạo quản lý việc học tập của học viên. - Các công cụ khác hỗ trợ học tập (3): Bao gồm các công cụ hỗ trợ cho việc học tập của học viên như thư viện điện tử, phòng thực hành ảo, trò chơi v.v... Trên thực tế chúng có thể được tích hợp vào hệ thống LMS. - Các công cụ thiết kế bài giảng điện tử (4): Dùng để hỗ trợ việc xây dựng và thiết kế bài giảng điện tử bao gồm các thiết bị dùng cho studio (máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm...) cho đến các phần mềm chuyên dụng để xử lý multimedia cũng như để thiết kế xây dựng bài giảng điện tử và lập trình. Đây chính là những công cụ chính hỗ trợ cho phòng xây dựng chương trình (C). - Ngân hàng kiến thức (I): Là cơ sở dữ liệu lưu trữ các đơn vị kiến thức cơ bản, có thể được tái sử dụng trong nhiều bài giảng điện tử khác nhau. Phòng xây dựng chương trình (C)sẽ thông qua hệ thống LCMS (1) để tìm kiếm, chỉnh sửa, cập nhật cũng như quản lý ngân hàng dữ liệu này. - Ngân hàng bài giảng điện tử (II): Là cơ sở dữ liệu lưu trữ các bài giảng điện tử. Các học viên sẽ truy cập đến cơ sở dữ liệu này thông qua hệ thống LMS (2). 2.3. Đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của eLearning. 2.3.1. Ưu điểm eLearning có một số ưu điểm vượt trội so với loại hình đào tạo truyền thống . eLearning kết hợp cả ưu điểm tương tác giữa học viên, giáo viên của hình thức học tập trên lớp lẫn sự sinh hoạt trong việc xác định thời gian, khả năng tiếp thu kiến thức của học viên. Đối với nội dung học tập : Hỗ trợ các “đối tượng học” theo yêu cầu, cá nhân hóa việc học. Nội dung học tập đã được phân chia thành các đối tượng tri thức riêng biệt theo từng lĩnh vực, ngành nghề rõ ràng. Điều này tạo ra tính mềm dẻo Nội dung môn học được cập nhật, phân phối dễ dàng,nhanh chóng. Với nhịp độ phát triển nhanh chóng của trình độ công nghệ, các chương trình đào tạo cần được thay đổi, cập nhật thường xuyên để phù hợp với thông tin, kiến thức của từng giai đoạn phát triển của thời đại.Với phương thức đào tạo truyền thống và những phương thức đào tạo khác, muốn thay đổi nội dung bài học thì các tài liệu phải được sao chép lại và phân bố lại cho tất cả học viên. Đối với hệ thống eLearning, việc đó hoàn hoàn đơn giản vì để cập nhật nội dung môn học chỉ cần sao chép các tập tin được cập nhật từ một máy tính địa phương (hoặc các phương tiện khác) tới một máy chủ. Tất cả các học viên sẽ có được phiên bản mới nhất trong máy tính trong lần truy cập sau. Hiệu quả tiếp thu bài học của học viên được nâng lên vượt bậc vì học viên có thể học với những giáo viên tốt nhất, tài liệu mới nhất cùng với giao diện web học tập đẹp mắt với các hình ảnh động, vui nhộn… Đối với học viên: Hệ thống eLearning hỗ trợ học theo khả năng cá nhân,theo thời gian biểu tự lập nên học viên có thể chọn phương pháp học thích hợp cho riêng mình. Học viên có thể chủ dộng thay đổi tốc độ học cho phù hợp với bản thân, giảm căng thẳng và tăng hiệu quả học tập. Bên cạnh đó, khả năng tương tác, trao đổi với nhiều người khác cũng giúp cho việc học tập có hiệu quả hơn. Đối với giáo viên: Giáo viên có thể theo dõi học viên dễ dàng. eLearning cho phép dữ liệu được tự động lưu lại trên máy chủ, thông tin này có thể được thay đổi về phía người truy cập vào khóa học. Giáo viên có thể đánh giá các học viên thông qua cách trả lời các câu hỏi kiểm tra và thời gian trả lời những câu hỏi đó. Điều này cung giúp giáo viên đánh giá một cách công bằng học lực của mỗi học viên. Đối với việc đào tạo nói chung: eLearning giúp giảm chi phí học tập. Bằng việc sử dụng các giải pháp học tập qua mạng , các tổ chức (bao gồm cả trường học) có thể giảm các chi phí học tâp như tiền lương phải trả cho giáo viên, tiền thuê phòng học, chi phí đi lại và ăn ở của học viên. Đối với những người thuộc các tổ chức này, học tập qua mạng giúp họ không mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc trong khi di chuyển, đi lại , tổ chức lớp học…,góp phần tăng hiệu quả công việc. Thêm vào đó, giá cả các thiết bị công nghệ thông tin hiện nay cũng tương đối thấp, việc trang bị cho mình những chiếc máy vi tính có thể truy cập vào internet với các phần mềm trình duyệt miễn phí để thực hiện việc học tập qua mạng là điều hết sức dễ dàng. eLearning còn giúp làm giảm tổng thời gian cần thiết cho việc học. Theo thống kê trung bình , lượng thời gian cần thiết cho việc học giảm từ 40 đến 60%. Hỗ trợ triển khai đào tạo từ xa. Giáo viên và học viên có thể truy cập vào khóa học ở bất cứ chỗ nào, trong bất cứ thời điểm nào mà không nhất thiết phải trùng nhau chỉ cần có máy tính có thể kết nối internet. 2.3.2. Khuyết điểm: eLearning là một xu hướng phát triển ở rất nhiều nơi trên thế giới. Việc triển khai hệ thống eLearning cần có những nỗ lực và chi phí lớn, mặt khác nó cũng có những rủi ro nhất định. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, eLearning còn có một số khuyết điểm mà ta không thể bỏ qua cần phải khắc phục sau đây: Do đã quen với những phương pháp học tập truyền thống nên học viên và giáo viên sẽ gặp một số khó khăn về cách học tập và giảng dạy. Ngoài ra họ còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các công nghệ mới. Bởi vì đào tạo từ xa là môi trường học tập phân tán nên mối liên hệ gặp gỡ giữa giáo viên và học viên bị hạn chết cũng làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của học viên. Do đó, học viên cần phải tập trung, cố gắng nỗ lực hết mình khi tham gia khóa học để kết quả học tập tốt. Mặt khác, do eLearning được tổ chức cho đông đảo học viên tham gia, có thể thuộc nhiều vùng quốc gia, khu vực trên thế giới nên mỗi học viên có thể gặp nhiều khó khăn về các vấn đề yếu tố tâm lý, văn hóa. Giáo viên phải mất nhiều thời gian và công sức để soạn bài giảng, tài liệu giảng dạy, tham khảo cho phù hợp với phương thức học tập eLearning. Chi phí xây dựng eLearning. Các vấn đề khác về mặt công nghệ cần phải xem xét các công nghệ hiện thời có đáp ứng được các mục đích của đào tạo hay không, chi phí đầu tư cho các công nghệ đó có hợp lý không.Ngoài ra, khả năng làm việc tương thích giữa các hệ thống phần cứng và phần mềm cũng được xem xét. So sánh giữa phương pháp học tập truyền thống và phương pháp eLearning: Các phương pháp học tập truyền thống Với phương pháp học tập truyền thống, công việc dạy và học hoàn hoàn phụ thuộc vào việc giảng dạy trực tiếp từ thầy tới trò. Với hình thức học tập này, nội dung giảng dạy là những kiến thức cơ sở hoặc có trong sách vở hoặc do giáo viên truyền đạt từ kinh nghiệm bản thân. Phương pháp dạy học ở đây tập trung vào giáo viên, người thầy trở thành trung tâm trực tiếp truyền đạt kiến thức cho học sinh. Như vậy, để kiểm tra mức độ hiểu biết của học trò thì thầy phải trực tiếp hỏi và trao đổi với học trò một cách trực tiếp. Việc quản lý lớp học cũng là do người thầy đảm nhiệm trực tiếp, tất cả mọi hoạt động có liên quan đến lớp học đều do thầy chủ trì. Do vậy phương pháp học tập của học sinh cũng hết sức thụ động, học sinh nghe giảng bài và làm bài tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhìn chung các chức năng của giáo viên trong mô hình giảng dạy và học tập truyền thống như sau: Về sau việc học tập có nhiều thay đổi. Người giáo viên tìm tòi, nghiên cứu ra nhiều phương pháp dạy học tích cực. Với phương pháp này, người thầy không đơn thuần chỉ truyền đạt kiến thức theo kiểu truyền thống mà còn thay đổi phương pháo giảng dạy, theo hướng gợi mở, đặt các câu hỏi gợi ý các vấn đề trong bài giảng, để học sinh trả lời các câu hỏi gợi mở này. Từ đó sẽ lôi cuốn học sinh tham gia học tập một cách chủ động để làm cho lớp học sinh sinh động, hoạt náo hơn. Như vậy sẽ tạo cho học sinh tâm lý thoải mái, có thể hiểu bài ngay tại lớp học. Một phương pháp tiên tiến khác là, người thầy sẽ chia lớp học ra từ nhóm, số thành viên tối đa trong nhóm không cao lắm, khoảng 10 học viên trở lại.Làm như vậy sẽ có thể phân hóa học sinh: nhóm giỏi,khá,trung bình,yếu,…Từ đây sẽ có cách giảng dạy và độ khó của bài học và bài tập phù hợp với trình độ lĩnh hội của từng nhóm. Thêm vào đó,việc học tập bao gồm những buổi thảo luận mà người thầy chỉ ở vai trò là giám sát để tự học sinh thảo luận các vấn đề với nhau. Người thầy sẽ cho ý kiến ai đúng ai sai, và sẽ nhắc nhở khi các học viên của mình thảo luận lạc hướng vấn đề đang được đặt ra. Hiện nay ở Việt Nam, dạy và học vẫn còn theo phương pháp truyền thống: việc dạy theo quy định chính thức, việc học bị lệ thuộc vào việc dạy khi người thầy là đối tượng duy nhất truyền đạt tri thức. Học sinh học một cách thụ động, thầy bảo gì làm nấy, thường là có ít sự sáng tạo. Phương pháp học tập theo một lối mòn, giáo trình học cũ kỹ, xuất bản từ rất lâu, không theo kịp với sự phát triển của xã hội. Mặc dù có sự nâng cao kiến thức xã hội từ việc học hướng ngoại nhưng phần lớn các học viên đều phải đào tạo thêm thậm chí là đào tạo lại kiến thức thu được đầu như chỉ là kiến thức trong sách vở và thiếu thực tế. Trong quá trình học tập, học viên ít được đưa ra ý kiến của mình về việc giảng dạy của thầy giáo, điều đó làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và học tập, thầy giáo thì không biết học sinh của mình muốn học theo hình thức nào còn học viên thì không hài lòng với phương pháp giảng dạy của thầy. Phương pháp eLearning: Sự ra đời của eLearning đã khắc phục được những hạn chế trên: Mô hình hệ thống eLearning trong việc giảng dạy và học tập như sau , ở đây eLearning đóng vai trò là thầy giáo: Hình 2: Các chức năng của hệ thống eLearning Với phương pháp học tập eLearning, học viên chỉ cần ngồi trước máy tính tự thao tác học tập, thực hành và làm bài tập theo ý muốn. Các chức năng như tổ chức biểu diễn tri thức, sau đó thể hiện tri thức đó trên máy tính và việc tổ chức quản lý học tập đều do học viên tự điều chỉnh và thao tác. Với các chức năng ưu việt, eLearning càng ngày càng được biết đến và được sử dụng như là một công cụ trợ giảng đắc lực nhất. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, hệ thống eLearning chưa được triển khai nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập qua hình thức đào tạo từ xa. Muốn mở rộng hệ thống eLearning, cần phải có sự thay đổi dần quan niệm học tập theo phương pháp dạy và học truyền thống và cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức của các doanh nghiệp tổ chức và chính phủ. Nếu làm được như vậy, trong tương lai chắc chắn eLearning sẽ được sử dụng trong việc giảng dạy và học tập theo đúng nghĩa của nó. CHƯƠNG 3. LEARNING OBJECTs, IMS, METADATA Learning Objects (LOs): Phần này sẽ • Giới thiệu tóm tắt Learning Objects (LOs) trong ngữ cảnh của DLNET. • Phác thảo các xử lý mà những tài nguyên bài giảng được sửa đổi thành những LOs bởi DLNET. • Định nghĩa chức năng tốt như là quan điểm có cấu trúc của DLNET LO đưa ra. • Nhiều khái niệm tiên tiến như các LOs lồng nhau (nested LOs) và những cách thức cho việc tái sử dụng LO sẽ được hướng dẫn chi tiết sau đây. Giới thiệu: DLNET là từ viết tắt của Digital Library Network for Engineering and Technology: Mạng thư viện số hóa khoa học kỹ thuật. [3] DLNET đang được phát triển như là một phần của sáng kiến NSDL để thành lập một thư viện số quốc gia mà sẽ thiết lập một mạng trực tuyến của những môi trường học tập và tài nguyên cho ngành giáo dục về khoa học (science), toán học (mathematic), kỹ thuật công trình (engineering), khoa học kỹ thuật (technology), viết tắt là SMETE, ở tất cả các mức độ khác nhau. DLNET sẽ đưa ra một cơ sở dữ liệu về khoa học kỹ thuật liên quan đến những nội dung nhằm vào việc rèn luyện kỹ sư và các kỹ sư công nghệ với mục tiêu của việc “học tập lâu dài” thuận tiện dễ dàng, giáo dục vượt ra ngoài phạm vi lớp học bằng cách sử dụng những thư viện số hóa (digital libraries). Như là một thư viện số hóa, DLNET cung cấp những dịch vụ cho người dùng tìm kiếm thông tin, nâng cấp cũng như duy trì cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh. 3.1.2. Learning Objects: Learning Object trong DLNET được định nghĩa như là một tài nguyên độc lập và có cấu trúc, tóm lược thông tin chất lượng cao trong ngữ cảnh làm cho việc dạy và học dễ dàng hơn. [3] Định nghĩa nhấn mạnh hai khía cạnh của LOs, cụ thể là “learning” và “object” với chủ đề ưu tiên là chất lượng “quanlity”. Chất lượng là thuộc tính cần thiết mà DLNET cố gắng duy trì khi nó đạt được learning objects. Chất lượng liên quan đến những khía cạnh sau: • Tính xác thực và độ chính xác của chủ đề môn học. • Hiệu quả sư phạm và giá trị giáo dục. • Mối liên quan của thông tin trong tài nguyên liên hệ đến mục đích. • Đặc trưng nổi bật của LO là cho phép những học viên và giáo viên sử dụng và tái sử dụng tài nguyên. Thuộc tính của LO: LOs tương tự như mục tiêu sử dụng trong mô hình hướng đối tượng (OOM: object oriented modeling). Những khái niệm chung của OOM như là cách tóm lược, phân loại, hiện tượng nhiều dạng (polymorphism), tính kế thừa và khả năng tái sử dụng có thể được “vay mượn” để miêu tả cách vận hành trên LOs trong DLNET. Ví dụ: • Mỗi LO trong DLNET là sự tóm lược, gói gọn metadata của chính nó và nội dung học tập khi nó được xử lý bởi lược đồ đóng gói nội dung (CP: contentpackaging). Việc tóm lược này cũng có khả năng làm cho LO phân tán thông qua DLNET mà vẫn giữ như cũ và không làm thay đổi như việc duy trì bảo vệ bản quyền tác giả. • LOs trong DLNET có thể được phân loại theo chủ đề môn học, cách định dạng, kích thước, hoặc theo bất kỳ thành phần metadata khác. Điều quan trọng hơn nữa là LOs có thể được phân loại theo thứ bậc dựa trên hướng phân loại (taxonomic path), từ cái tổng quát đến các đặc tả về chủ đề môn học. • LOs trong DLNET sẽ được đóng gói và phân loại để làm cho việc tìm kiếm, khám phá và tái sử dụng được dễ dàng, thuận tiện hơn bởi những người xây dựng các môn học và tài liệu học tập. Đặc điểm của LOs: • Mục tiêu (Objectives): đặc tả những kết quả đạt được sau khi học viên tham gia học tập với chương trình đào tạo từ xa kết thúc bài học, chương, phần, khóa học,… Vì vậy các tác giả nên sử dụng mục này để nói rõ mục đích của module dạy học của mình. Mỗi sự nổ lực, cố gắng học tập nên có một bảng đánh giá để ghi nhận kết quả đạt được của mổi học viên. • Kiến thức yêu cầu cần chuẩn bị trước khi tham gia khóa học (Prerequisites): gợi ý các kiến thức nền tảng yêu cầu của mổi cá nhân học viên phải có khi tham gia khóa học để có thể tiếp thu và hiểu được LO. Những kiến thức yêu cầu là những kiến thức nền tảng có liên quan đến những kiến thức mới của LO. Từ viễn cảnh của việc giáo dục không ngừng, kiến thức liên tiếp và học tập lâu dài, nó đưa ra một cách đo lường trình độ kiến thức mà học viên nên có trước khi tham gia học tập với LO. • Độ khó và thời lượng học tập tối thiểu (Difficulty and Learning Time): Mỗi LO đều có một độ khó tương ứng với sự mong đợi của người dùng. LO cũng xác đinh rõ thời lượng tối thiểu cần thiết để hoàn thành bài tập, bài học, môn học, khóa học. Mức độ khó, thời lượng học tập tối thiểu này là khách quan và do người biên soạn đề ra. Một số yêu cầu chức năng: • Tất cả LOs phải có một file đính kèm chứa metadata (như cấu trúc, quyền sở hữu, quyền sử dụng, kết quả nhắm tới của khán giả,…) • LOs được truy cập thông qua một trang giới thiệu (HTML), trang này cũng sẽ hiển thị những metadata được chọn và điều hướng giúp đỡ (navigation aids). • LOs có một vị trí bắt đầu, vị trí này cho phép những modules học tập khác kết nối tới hoặc phân nhánh. • LOs luôn giữ nguyên hiện trạng và không bị thay đổi bởi thư viện số hay bất kỳ hệ thống quản học tập nào mà nó dược đưa vào hoặc người sử dụng. • LOs được đóng gói theo một phương thức mà chúng có thể được sử dụng một cách độc lập. 3.2. Khái quát về IMS 3.2.1. Giới thiệu: IMS (Instructional Management System) Global Learning Consortium phát triển và xúc tiến các đặc tả mở (không phải chuẩn) để hỗ trợ các hoạt động học tập phân tán trên mạng như định vị và sử dụng nội dung giáo dục, theo dõi quá trình học tập, thông báo kết quả học tập, và trao đổi các thông tin về học viên giữa các hệ thống quản lý. IMS có hai mục tiêu chính: • Xác định các đặc tả kĩ thuật phục vụ cho việc khả chuyển giữa các ứng dụng và các dịch vụ trong học tập phân tán • Hỗ trợ việc đưa các đặc tả của IMS vào các sản phẩm và các dịch vụ trên toàn thế giới. IMS xúc tiến việc thực thi các đặc tả sao cho các môi trường học tập phân tán và nội dung từ nhiều nguồn khác nhau có thể hiểu nhau Bản thân SCORM đưa nhiều nhiều đặc tả của IMS vào bên trong mô hình. 3.2.2. Các đặc tả của IMS: [4]IMS đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra các đặc tả trong eLearning. Các đặc tả sau đó được các tổ chức ở cấp cao hơn như ADL, IEEE, ISO sử dụng, chứng nhận thành chuẩn eLearning dùng ở quy mô rộng rãi. 3.3. Metadata. Các thành phần cơ bản của metadata: Các chuẩn metadata xác định nhiều thành phần yêu cầu và tuỳ chọn: • Title: tên môn học • Language: xác định ngôn ngữ được sử dụng bên trong môn học và có thể có thông tin thêm (như là tiếng Anh thì có thêm thông tin là Anh-Anh hoặc là Anh-Mĩ). • Description: bao gồm mô tả về môn học. • Keyword: gồm các từ khoá hỗ trợ cho việc tìm kiếm. • Structure: mô tả cấu trúc bên trong của môn học: tuần tự, phân cấp, và nhiều hơn nữa. • Aggregation Level: xác định kích thước của đơn vị. 4 tức là môn học, 3 là bài, 2 là chủ đề. • Version: xác định phiên bản của môn học. • Format: quy định các định dạng file được dùng trong môn học. Chúng là các định dạng MIME. • Size: là kích thước tổng của toàn bộ các file có trong môn học. • Location: ghi địa chỉ Web mà học viên có thể truy cập môn học. • Requirement: liệt kê các thứ như trình duyệt và hệ điều hành cần thiết để có thể chạy được môn học. • Duration: quy định cần bao nhiêu thời gian để tham gia môn học. • Cost: ghi xem môn học có miễn phí hoặc có phí Để đảm bảo tính khả chuyển, metadata phải được thu thập và định dạng là XML. CHƯƠNG 4: CHUẨN SCORM 4.1. Tổng quan về SCORM. 4.1.1. Giới thiệu SCORM SCORM là chữ viết tắt của ngữ tiếng Anh “Sharable Content Object Reference Model”- Mô hình tham chiếu Đối tượng nội dung chia xẻ được. Theo định nghĩa, SCORM là một tập hợp các đặc tả và chuẩn được hợp thành một chuỗi “tài liệu kỹ thuật” (Hình). Tất cả các tài liệu này có thể được xem như những tài liệu riêng rẽ tạo thành một thư viện đang phát triển mạnh mẽ. Gần như tất cả các hướng chỉ đạo và các đặc tả đều được lấy từ các tổ chức khác nhau. Các tài liệu kỹ thuật này được nhóm theo 3 chủ đề chính : “mô hình nhóm nội dung” (CAM – Content Aggregation Model), “môi trường thực thi” (RTE – Run time Environment) và “mô hình nối chuỗi và lái nội dung” (SN- Sequencing and Navigation). Mô hình SCORM tích hợp công nghệ giảng dạy từ xa đã được các tác nhân có uy tín trong lĩnh vực này xây dựng từ nhiều năm qua như IMS, AICC, ARIADNE và LTSC của IEEE trong một qui chiếu duy nhất mô tả một cách thức xây dựng nhất quán hệ thống dạy học từ xa cho cả cộng đồng. Mô hình SCORM là một tập hợp các chuẩn và đặc tả được xây dựng nhằm cung cấp những quy tắc điều phối chuẩn hóa cho việc triển khai việc dạy và học tập qua mạng, trong đó yếu tố chia xẻ và sử dụng lại nội dung được đặt lên hàng đầu. Một gói nội dung tôn trọng chuẩn SCORM có thể triển khai trên mọi hệ quản lý dạy và học từ xa (Learning Management System – LMS ) có hỗ trợ chuẩn này. SCORM đang ngày càng chiếm được niềm tin của cộng đồng dạy và học từ xa sử dụng công nghệ Internet trên thế giới và ở Việt Nam. Ngày càng nhiều hệ LMS trên thế giới tuyên bố hỗ trợ SCORM Hình 3 : Thư viện SCORM SCORM giúp định nghĩa các cơ sở kỹ thuật cho một môi trường học tập trên mạng. Dưới dạng đơn giản nhất, đây là một mô hình qui chiếu đến một tập hợp chuẩn, các qui định và các đặc tả kỹ thuật độc lập, được xây dựng nhằm đáp ứng những đòi hỏi bậc cao của việc đào tạo từ xa về mặt nội dung và hệ thống độc lập.””Mô hình nhóm nội dung”và “Mô hình thực thi” cho các đối tượng học tập của SCORM nhằm giúp tạo ra một lỗi giảng tùy biến dựa trên mục tiêu, sở thích và hiệu quả và những yếu tố khác gắn với người học. Tóm lại, SCORM tìm ra cách liên kết lợi ích của các nhóm không thuần nhất trong cộng đồng học tập từ xa. Nó được xây dựng theo cách phối hợp công nghệ và những khả năng nảy sinh với những ứng dụng thương mại và công cộng. 4.1.2. Tại sao lại cần một quy trình chuyển đổi Lợi ích của mô hình SCORM đã được đông đảo công j đồng e-learning thừa nhận. Bằng chứng là càng ngày càng nhiều flatform e-learning tuyên bố hỗ trợ SCORM. Mặt khác, chúng ta nhận thấy Internet thực sự đã và đang là một kho nội dung vô tận. Rất dễ tìm được các nội dung cho việc học từ xa trên Internet. Ngày càng nhiều đại học và các giáo sư công bố các bài giảng của mình lên Internet cho cộng đống tự do truy nhập và tham khảo. Tuy nhiên phần lớn các bài giảng này đều chi là những trang HTML hoặc slide, hoàn toàn không theo một chuẩn nào dạy học từ xa. Việc tích hợp chúng trên một hệ LMS do đó rất khó khăn. 4.1.3. Quá trình phát triển của SCORM Quá trình phát triển của các phiên bản SCORM có thể tóm tắt như sau: ADL SCORM 0.7.3 – năm 1999 SCORM 1.0 – năm 2000 SCORM 1.1 – năm 2001 SCORM 1.2 – năm 2001 SCORM 1.3 – năm 2004 Trong các phiên bản của SCORM thì SCORM 1.2 và SCORM 1.3 đang được hỗ trợ bởi nhiều hệ thống e-leanrning trên thế giới. 4.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến SCORM 4.2.1. Asset Khuôn dạng cơ bản nhất của một tài nguyên học tập được gọi là Asset. Asset là biểu diễn điện tử cỷa media, chăngr hạn tẽt, âm thanh, đối tượng đánh giá hay bất kỳ một mẩu dữ liệu nào có thể hiện thị được bởi trình duyệt Web và đưa tới phía học viên. Nhiều asset có thể được tập hợp lại để xây dựng một asset khác nhau như hình ảnh, audio, video..vv (hình) Hình 4 : Asset 4.2.2. SCO SCO (sharable Content Object) là tập hợp của một hay nhiều Asset, là một tài nguyên học tập có thể được khởi chạy nhờ sử dụng RTE (môi trường thực thi) để có thể giao tiếp được với LMS (Learning Management System – Hệ thống quản lý đào tạo). Trong SCORM, SCO là tài nguyên học tập ở mức thấp nhất được quản lý bới LMSS nhờ sử dụng mô hình dữ liệu (Data model). Chính vì lý do đó mà một tài nguyên học tập đã trở thành một đối tượng, có thể giao tiếp được với LMSS, và qua đó LMS có thể quản lý được tiến trình học tập của học viên đối với từng SCO. Sự khác biệt duy nhất giữa SCO và Asset là ở chỗ SCO giao tiếp với LMS nhờ sử dụng giao diện lập trình ứng dụng (API). Hình 3 mô tả một SCO gồm nhiều asset, mỗi SCO phải chứa tối thiểu hai lời goi hàm là LMSInitialize() và LMSFinish(). Để thiết lập và kết thúc một phiên làm việc, nếu trong quá trình làm việc có sự trao đổi dữ liệu giữa LMS và SCO thì các hàm LMSSetValue() và LMSGetValue() sẽ được gọi Hình 5: SCO Một SCO yêu cầu bắt buộc phải tuân theo những điều kiện được định nghĩa trong SCORM RTE sẽ thỏa mãn những tính chất sau: Bất kỳ một LMS nào hỗ trợ SCORM RTE đều có thể khởi chạy và theo dõi các SCO mà không cần quan tâm đến ai đã tạo ra nó. Bất kỳ LMS nào hỗ trợ SCORM RTE có thể theo dỗi bất kỳ SCO nào và biết khi nào nó bắt đầu và khi nào nó kết thúc. Mọi LMS hỗ trợ SCORM RTE đều có thể khởi chạy bất kỳ SCO nào theo một cách thống nhất. Cấu trúc của SCORM Cấu trúc một gói SCORM phải tuân thủ theo cácđặc trưng sau : Accessibility: Tính chất có thể truy xuất được. Nội dung có thể được xác định và định vị khi cần Interoperability: Tính chất có thể thao tác giữa các phần. Nội dung sẽ hoạt động tốt trong nhiều ứng dụng, môi trường và cấu hình phần cứng mà không quan tâm đến công cụ nào tạo ra nó. Reusability: Tính chất có thể sử dụng lại. Nội dung sẽ độc lập với ngữ cảnh học và có thể sử dụng cho nhiều người học khác nhau. Durability: Tính chất bền vững. Nội dung sẽ không cần sửa đổi để thao tác khi hệ thống LMS thay đổi hay nâng cấp lên phiên bản mới. Cấu trúc của SCORM gồmn 2 thành phần chính sau: CAM (Content Aggregation Model) và RTE (Run time Environment). 4.3.1. SCORM 1.2 4.3.1.1. CAM CAM(Content Aggregation Model)- mô hình tích hợp nội dung. CAM có 2 chức năng chính sau: Cung cấp phương tiện chung cho việc gửi nội dung học cho các tài nguyên có thể phối hợp thao tác, có thể chia xẻ, có thể sử dụng lại và có thể khám phá ra được. Định nghĩa cách mà nọi dung học có thể được xác định và môt tả, tích hợp vào khóa học hoặc một phần của khóa học và đượ di chuyển giữa các hệ thống mà có thể bao gồm LMS và kho dữ liệu. Cấu trúc của CAM bao gồm Content Model, Meta-data, Content Package. Content Model- Mô hình nội dung. Định nghĩa các thành phần nộii dung của quá trình học. Meta-data- Siêu dữ liệu. Một cơ chế mô tả các thành phần của mô hình nội dung. Content Package- Gói nội dung. Định nghĩa cách để biểu diễn hoạt động của một quá trình họ. Định nghĩa cách đóng gói các tài nguyên học cho việc di chuyển giữa các môi trường khác nhau. Content Model bao gồm các thành phần sau: Asset SCO Content Aggregation Tích hợp nội dung. Một bản đồ có thể được dùng để tích hợp các tài nguyên học và các bài học liên quan nhau của việc dạy, bao gồm: Course (khóa học),chapter (chương) và Module. Áp dụng cấu trúc và kết hợp các nguyên tắc phân loại học. Hình 6: Mô hình tích hợp nội dung Meta-data: Mô hình thông tin của Meta-data bao gồm 9 loại sau : General: Bao gồm 9 thu􀓝c tính sau. Identifier – RESERVED Title Catalog Entry (catalog, entry) Language Description Keyword Coverage Structure Aggregation Level Lifecycle Bao gồm 3 thuộc tính sau: Version Status Contribute Role Entity Date Meta-metadata: Bao gồm 5 thuộc tính sau: Identifier – RESERVED Catalog Entry Catalog Entry Contribute Role Entity Date Meta-data Scheme Language Technical: Bao gồm 7 thuộc tính sau: Format SizeLocation Requirement Type Name Minimum Version Maximum Version Installation Remarks Other Platform Requirements Duration Educational: Bao gồm 11 thuộc tính sau: Interactivity Type Learning Resource Type Interactivity Level Semantic Density Intended End User Role Context Typical Age Range Difficulty Typical Learning Time Description Language Rights Bao gồm 3 thuộc tính sau: Cost Copyright and Other Restrictions Description Relation Bao gồm 2 thuộc tính sau: Kind Resource Identifier – RESERVED Description Catalog Entry Catalog Entry Annotation Bao gồm 3 thuộc tính sau: Person Date Description Classification Bao gồm 4 thuộc tính sau: Purpose Taxonpath Source Taxon ID Entry Taxon Description Keyword Content Package- Cấu trúc gói nội dung như sau: Cấu trúc gói nội dung Trong gói nội dung gồm hai phần chính: Manifest: biểu diễn các thông tin cần thiết để mô tả các nội dung của gói Các tệp vật lý: là các tệp vật lý thực như các Asset , các tệp âm thanh hình ảnh,v.v… Các thành phần của Manifest: Meta –data: Siêu dữ liệu mô tả về gói nội dung Organization: Mô tả cấu trúc nội dung hoặc tổ chức các tài nguyên học tập Reourses: định nghĩa các tài nguyên học tập được gộp vào trong gói nội dung. (sub)Manifest(s): mô tả hoàn toàn các gói được gộp vào bên trong gói chính. Mỗi sub-manifest cũng có cùng cấu trúc bao gồm Meta-data, Organizations, Resources, và Sub-manifests. Do đó Manifests có thể chứa các sub-minifest và các sub- minifests khác nữa. 4.3.1.2. RTE RTE (Run Time Enviroment)– môi trường thời gian thực thi. RTE có 2 chức năng chính sau: Cung cấp phương tiện giao tiếp giữa SCO và hệ thống quản lý việc học (LMS). Cung cấp cách thức thông dụng để khởi tạo nội dung và cho nội dung giao tiếp với LMS. Các thành phần dữ liệu được chuyển giữa LMS và nội dung trong suốt quá trình thực thi. Tổng quan mô hình RTE như sau: Tổng quan mô hình RTE 3 khía cạnh trong RTE mà chúng ta cần quan tâm : Launch, Application Program Interface (API) và Data Model. Launch LMS sử dụng địa chỉ URL được định nghĩa bởi tài nguyên học trong gói nội dung để lauch (tải) tài nguyên. Quá trình chỉ lauch Asset và SCO. Application Program Interface (API) API là một tập các hàm được định nghĩa để giúp SCO có thể được gọi từ LMS. Các API đượ thực thi và kết thúc bởi API Adapter. API Adapter phải được cung cấp bởi LMS. Mỗi SCO phải gọi hai hàm API LMSInitialize(“”) và LMSFinish(“”). Data Model Data Model cung cấp mô hình dữ liệu chung để đảm bảo một tập thông tin được định nghĩa về SCO có thể được truy xuất bởi các hệ thống LMS khác nhau. Mô hình dữ liệu được phân chia vào 8 phần sau: Core Thông tin yêu cầu được hoàn thành với tất cả các hệ thống LMS Core bao gồm các thuộc tính sau: cmi.core.student_id cmi.core.student_name cmi.core.lesson_location cmi.core.credit cmi.core.lesson_status cmi.core.entry cmi.core.score.raw cmi.core.lesson_mode supend_data Thông tin duy nhất được tạo bởi SCO và được lưu trữ trong LMS để truyền lại cho SCO trong lần kế tiếp. Thông thường thì suspend_data được dùng cho thông tin khởi tạo. launch_data Thông tin duy nhất được cần thiết bởi SCO trong suốt quá trình launch, được cung cấp bởi người phát triển nội dung trong gói nội dung (sử dụng mở rộng của ADL như: adlcp:datafromlms) comments Cơ chế thu thập và phân phối các ghi chú (comment) đến SCO hay từ SCO: cmi.comments, cmi.comments_from_lms. Objectives Xác định cách mà học viên được biểu diễn trong các đối tượng được phủ bởi SCO. Objectives bao gồm các thuộc tính sau: cmi.objectives.n.id cmi.objectives.n.score cmi.objectives.n.status student_data Thông tin hỗ trợ việc tùy biến một SCO dựa vào sự biểu diễn của học viên. Các thuộc tính của student_data: cmi.student_data.mastery_score cmi.student_data.max_time_allowed cmi.student_data.time_limit_action student_preference: Học viên được lựa chọn các tùy chọn liên quan đến sự biểu diễn của SCO. Bao gồm các thuộc tính sau: cmi.student_preference.audio cmi.student_preference.language cmi.student_preference.speed cmi.student_preference.text interactions: Đo lường quá trình học tập của học viên. Bao gồm các thuộc tính sau: cmi.interactions.n.id cmi.interactions.n.objectives.n.id cmi.interactions.n.time cmi.interactions.n.type cmi.interactions.n.correct_responses.n.pattern cmi.interactions.n.weighting cmi.interactions.n.student_response cmi.interactions.n.result cmi.interactions.n.latency Các thuộc tính (thành phần) của mô hình dữ liệu gồm 2 loại: Loại bắt buộc: Phải được LMS hỗ trợ Loại tự chọn : Có thể hoặc không thể được LMS hỗ trợ Các SCO không yêu cầu để gọi tất cả các mô hình dữ liệu : SCO bắt buộc phải gọi LMSInitialize() và LMSFinish(). LMSSetvalue() và LMSGetvalue() là tùy chọn. Cơ chết giao tiếp giữa LMS và SCO có thể được minh họa qua mô hình xử lý sau: Hình 7. Cơ chế giao tiếp giữa LMS và SCO Một ví dụ cơ bản về cơ chế giao tiếp giữa LMS và SCO LMS và SCO giao tiếp với nhau bằng cách SCO gọi hàm LMSInitialize() từ LMS: Hình III.5 : SCO gọi hàm LMSInittialize() từ LMS SCO kiểm tra nếu trả lời đúng thì lưu điểm và truyền qua cho LMS quản lý: Hình 8 : SCO kiểm tra và truyền cho LMS quản lý LMS lưu lại điểm và kết thúc phiên làm việc bằng cách gọi hàm LMSFinish() từ LMS: Hình : SCO gọi hàm LMSFinish() từ LMS để kết thúc phiên làm việc CHƯƠNG 5. LMS VÀ MOODLE Giới thiệu về các hệ LMS Định nghĩa: Quản lý các quá trình học: LMS là thành phần thuộc bộ phận công nghệ trong hệ thống eLearning. LMS là phần mềm tự động hóa việc quản lý đào tạo. LMS quản lý việc đăng ký khóa học của học viên, tham gia các chương trình có sự hướng dẫn của giảng viên, tham dự các hoạt động đa dạng mang tính tương tác trên máy tính và thực hiện các bảng đánh giá. Hơn thế nữa, LMS cũng giúp các nhà quản lý và giảng viên thực hiện các công việc kiểm tra, giám sát, thu nhận kết quả học tập, báo cáo của học viên và nâng cao hiệu quả việc giảng dạy. LMS quản lý các tài nguyên trong các CSDL nội dung học tập thông qua các hệ thống quản lý đào tạo lớp học cho những ai phân phát việc đào tạo đa phương tiện qua các mạng địa phương và mạng rộng và các mạng Internet và Intranet. Nó cũng bao gồm các hệ thống cung cấp các lớp học ảo. Tóm lại, hiểu theo một cách đơn giản thì LMS có nhiệm vụ quản lý các cơ sở dữ liệu như CSDL nội dung khóa học, CSDL học viên, CSDL theo dõi tiến trình học... Đặc điểm Hệ LMS có hai đặc điểm chính là các thông tin về học viên và khóa học, bao gồm: Quản lý học viên: bao gồm việc ghi lại những thông tin cá nhân chi tiết về học viên như họ tên, nghề nghiệp, địa chỉ liên lạc,... và cung cấp tên truy cập và mật khẩu. Quản lý theo dõi các khóa học, quản lý nội dung các khóa học, ghi nhận lại các thông tin chi tiết về khóa học như: Mục tiêu kết quả sẽ đạt được sau khi kết thúc bài học, chương, khóa học Các điều kiện, kiến thức yêu cầu cần chuẩn bị trước khi tham gia khóa học Chú ý đến thời gian học, thường lượng tối thiểu cần thiết để hoàn thành khóa học Theo dõi tiến trình học của học viên: ghi nhận lại các lần truy cập vào các khóa học, ghi nhận các đánh giá thông qua các câu trả lời của học viện trên các bài kiểm tra tự đánh giá, hay trên các bài tập, bài thi cuối khóa. Các kết quả kiểm tra này cho biết học viên đó có hoàn thành khóa học đó hay không. Chi phí và phí tổn cũng sẽ cần thiết trong nhiều trường hợp Lập báo cáo: việc lập một bản báo cáo tốt là cần thiết và người sử dụng thường xuyên được cung cấp tính linh hoạt trong các dữ liệu được rút ra và trong cách mà nó được đưa ra. Chức năng: Dựa vào các đặc điểm trên, ta có thể đưa ra danh sách các chức năng chính của LMS như sau: - Quản lý quá trình đăng ký học viên, truy nhập và tiến trình học - Quản lý khóa học và lịch học, điều khiển bảng phân công học viên, điều khiển bảng liệt kê khóa học, cập nhật các khóa đào tạo mới, kèm theo nội dung học tập của các khóa học này. - Quản lý giáo viên. - Quản lý hoạt động kiểm tra - Lập các báo cáo về hệ thống, tình hình học và học viên - Tổ chức và quản lý các hoạt động cộng tác: hoạt động cộng tác được phân loại theo công nghệ sử dụng: đồng bộ hay không đồng bộ. LMS tổ chức, đảm bảo duy trì và quản lý các hoạt động này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu hệ thống đào tạo trực tuyến.doc
Tài liệu liên quan