Đề tài Kỹ năng luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội

Trong những năm gần đây thực tiễn xét xử cho thấy rằng tỷ lệ các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được các toà án đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ đáng kể. Vấn đề này thật đáng báo động, là mối quan tâm của toàn xã hội nói chung và của các ngành lập pháp, tư pháp nói riêng. Theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan chức năng thì người chưa thành niên phạm tội là những người từ đủ 14 đến chưa đủ 18 tuổi. Do tâm sinh lý còn chưa hoàn chỉnh, việc trang bị những kiến thức cần thiết về các lĩnh vực tự nhiên và xã hội còn nhiều khiếm khuyết, và nhất là các kiến thức về pháp luật. Vì vậy, năng lực hành vi tố tụng có phần hạn chế, các đối tượng này được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước từ góc độ hình sự cũng như tố tụng hình sự, được bảo hộ đặc biệt của Nhà nước cũng như xã hội về các quyền và lợi ích hợp pháp. Xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc trưng như vậy nên bộ luật tố tụng hình sự nước ta dành hẳn một chương riêng (Chương 32) quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Là luật sư trong tương lai, tôi chọn đề tài “ Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội” nhằm mục đích góp một phần làm rõ các các chính sách của Nhà nước đối với người chưa thành niên để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi phạm tội. Luật sư vận dụng chính sách nhân đạo thông qua các quy định của pháp luật, giúp cho người chưa thành niên phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

doc24 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2728 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kỹ năng luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong những năm gần đây thực tiễn xét xử cho thấy rằng tỷ lệ các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được các toà án đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ đáng kể. Vấn đề này thật đáng báo động, là mối quan tâm của toàn xã hội nói chung và của các ngành lập pháp, tư pháp nói riêng. Theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan chức năng thì người chưa thành niên phạm tội là những người từ đủ 14 đến chưa đủ 18 tuổi. Do tâm sinh lý còn chưa hoàn chỉnh, việc trang bị những kiến thức cần thiết về các lĩnh vực tự nhiên và xã hội còn nhiều khiếm khuyết, và nhất là các kiến thức về pháp luật. Vì vậy, năng lực hành vi tố tụng có phần hạn chế, các đối tượng này được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước từ góc độ hình sự cũng như tố tụng hình sự, được bảo hộ đặc biệt của Nhà nước cũng như xã hội về các quyền và lợi ích hợp pháp. Xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc trưng như vậy nên bộ luật tố tụng hình sự nước ta dành hẳn một chương riêng (Chương 32) quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Là luật sư trong tương lai, tôi chọn đề tài “ Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội” nhằm mục đích góp một phần làm rõ các các chính sách của Nhà nước đối với người chưa thành niên để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi phạm tội. Luật sư vận dụng chính sách nhân đạo thông qua các quy định của pháp luật, giúp cho người chưa thành niên phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. **** NỘI DUNG CƠ BẢN : VAI TRÒ LUẬT SƯ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN CÓ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI. I/ Khái niệm và các quy định của pháp luật về người chưa thành niên : 1. Khái niệm người chưa thành niên : Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật hình sự năm 2009 (sau đây gọi chung là Bộ Luật hình sự) ,ộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên. Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội. 2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra Điều 12 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.  2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là: -Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. - Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc được quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự: “1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. 2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. 3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. 4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.” … Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh) khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây: Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm. Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so với tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và yếu tố pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được xem là “cần thiết” khi hội đủ 3 điều kiện sau đây ( 1 ) : - Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu. - Tội phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng. - Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường, đưa vào trường giáo dưỡng không có hiệu quả để cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần áp dụng hình phạt đối với họ. Từ những phân tích trên có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa thành niên gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng... Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất với khái niệm người chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực hiện hành vi phạm tội, còn khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra là khái niệm dùng để chỉ tội phạm đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên). 3. Một số vấn đề rút ra trong công tác phòng ngừa, điều tra tội phạm và xử lý người chưa thành niên phạm tội Người chưa thành niên do chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và nhân cách nên việc bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên; việc phòng ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người chưa thành niên phạm tội là vấn đề vừa mang tính pháp lý vừa mang tính nhân văn. Khi tiến hành phòng ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người chưa thành niên phạm tội chúng ta cần chú ý: - Xác định đối tượng tác động trong phòng ngừa tội phạm: Trong các kế hoạch phòng ngừa tội phạm phải xác định đối tượng là trẻ em hay người chưa thành niên hay thanh, thiếu niên. Mỗi đối tượng đó rõ ràng khác nhau về độ tuổi, do vậy khác nhau về đặc điểm tâm lý cho nên phương pháp tác động của chúng ta cũng phải khác nhau. - Tính thân thiện trong điều tra tội phạm: Cán bộ Cảnh sát nhân dân trong khi tiến hành điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài việc vận dụng đúng các quy định pháp luật, sử dụng linh hoạt nghiệp vụ, cần phải là người có kiến thức sâu sắc về tâm lý, đặc biệt là tâm lý thân thiện với người chưa thành niên. Thái độ của cán bộ công an, lời nói và biện pháp được sử dụng, môi trường và các điều kiện vật chất để tiến hành điều tra luôn luôn gắn với tính từ “thân thiện”. Trong giai đoạn điều tra, cán bộ điều tra phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên như việc bắt, tạm giữ, tạm giam; việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội; việc bào chữa; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức. Cũng có nghĩa là, thái độ hà khắc, gây gắt, vô cảm và những biện pháp cứng nhắc, vi phạm tố tụng là điều “cấm kị” đối với cán bộ Cảnh sát nhân dân trong hoạt động điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Tính cụ thể, nhân văn trong xử lý người chưa thành niên phạm tội: Không phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều phải xử lý bằng hình sự. Trong công tác điều tra, cán bộ Cảnh sát nhân dân cần thu thập thông tin, chứng cứ để không chỉ làm rõ tất cả những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự mà còn nhằm xác định rõ những vấn đề khác theo quy định tại Điều 302 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phải vận dụng một cách có căn cứ những nguyên tắc quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự. Chúng ta thấu hiểu và đồng tình với quan niệm “Nhà tù là lựa chọn cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội”. Và đương nhiên, khi không phải lựa chọn một biện pháp nào để xử lý người chưa thành niên phạm tội mới là điều tốt lành không chỉ là lý tưởng mà còn là những hành động chiến lược lâu dài và rất cụ thể của tất cả chúng ta./. - Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội là trường hợp đặc biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chổ hình phạt được quy định nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Sở dĩ người chưa thành niên được hưởng chính sách giảm trách nhiệm Hình sự của Nhà nước khi có hành vi phạm tội vì họ có những đặc điểm đặc biệt về nhân thân. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu chính chắn và đặc biệt họ dễ bị kích động, lôi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục chu đáo, người chưa thành niên dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn đến phạm pháp. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý thức phạm tội của người chưa thành niên nói chung chưâ sâu sắc, họ dể tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình để từ bỏ con đường phạm tội. Do vậy, không thẻ coi người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm Hình sự giống như người đã thành niên. Chính vì thế, hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên. Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, trước hết tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Người chưa thành niên có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình cơ quan tổ chức nhận giám sát giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết  và phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với người chưa thành niên phạm tội thì không phạt tù trung thân hoặc tử hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung, không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuỏi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người thành niên đã phạm tội tương ứng. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Theo Bộ luật hình sự 1999 và Luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2009, việc quyết định hình phạt được tiến hành như sau: + Đối với phạt tiền: Nếu như BLHS năm 1985 trước khia chưa quy định áp dụng phạt tiền đối với người chưâ thành niên phạm tội thì BLHS năm 1999 đã quy định phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội nếu họ ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên đồng thời việc áp dụng phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp này vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt. Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không vượt qúa 1/2  mức phạt tiền mà điều luật quy định. + Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1999 quy định giới hạn hình phạt áp dụng cho người thành niên phạm tội không vượt quá 1/2  thời hạn và điều luật quy định. Đồng thời, do người chưa thành niên hầu như chưa có thu nhập hoặc tài sản riêng nên BLHS năm 1999 đã không khấu trừ thu nhập của họ khi bị kết án. + Đối với hình phạt tù có thời hạn: BLHS năm 1999 đã phân hóa người chưa thành niên ra làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi với đường lối xử lí khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì được xử lí nhẹ hơn người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi. Trong từng đối tượng cụ thể nói trên, nhà làm luật tách thành hai trường hợp ( trường hợp quy định hình phạt tù chung thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn ) tương ứng với mức hình phạt khác nhau phù hợp với độ tuổi của người thành niên cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về chất của BLHS năm 1999 khi quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể, Điều 74 quy định như sau: 1.” Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù và chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không vượt quá 18 năm tù; nếu là tù có thờ hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù có thời hạn. 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù: nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2  mức phạt tù mà điều luật quy  định” Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt được áp dụng như sau: Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật này ( Khoản 1 Điều 75) Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung ấp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội ( Khoản 2 Điều 75) Thực tiễn vận dụng điều 75 Bộ Luật hình sự cho thấy nảy sinh vấn đề cần giải quyết, đó là việc xác định tội nặng nhất. Thực tiễn xét xử đã xác định tội nặng nhất là tội có mức hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất cao hơn. Trong trường hợp có mức hình phạt tối đa bằng nhau thì thì tội nặng hơn là tội có mức hình phạt khởi điểm khung hình phạt cao nhất cao hơn. Cách xác định này một lần nữa được khẳng định tại Thông tư số 01/98 TANDTC – VKSNDTC – BNV ngày 02/1/1998. Tuy nhiên, có những trường hợp không thể xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất của hai tội ngang bằng nhau và cao nhất cũng ngang bằng nhau. Trong khoa học luật Hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau . Ý kiến thứ nhất cho rằng: “Cơ sở để xác định tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm là căn cứ và hình phạt cụ thể mà tòa án đã tuyên cho từng tội. Tội nào có hình phạt cao nhất thì đó là tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm”. Ý kiến thứ hai cho rằng “ Trường hợp không thể xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất là hai tội bằng nhau và hình phạt khởi điểm của khung có hình phạt cao nhất cũng bằng nhau thì trường hợp này tội nặng hơn là tội có hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn. Nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì tội nặng hơn là tội có hình phạt khởi điểm của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn.” Tôi cho rằng ý kiến thứ nhất tuy có ưu điểm là đơn giản hóa việc vận dụng khái niệm tội nặng hơn trong thực tế nhưng không hợp lí vì không thể coi tội trộm cắp tài sản nặng hơn tội giết người nếu ở trường hợp cụ thể, người phạm tội trộm cắp tài sản bị phạt 10 năm tù, còn ở tội giết người, bị cáo chỉ bị phạt có 7 năm tù. Theo chúng tôi, ý kiến thứ hai hợp lí hơn nhưng chưa đủ để giải quyết những vướng mắc còn lại. Cụ thể là nếu hình phạt tối đa và hình phạt tối thiểu của khung hình phạt có hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì việc xác định tội nặng hơn sẽ như thế nào? Theo chúng tôi, nếu tội nào có quy định hình phạt bổ sung thì tội đó nặng hơn. Tuy nhiên, nếu cả hai tội đều quy định hình phạt bổ sung thì tội nặng hơn sẽ là tội có khác thể quan trong hơn. Quá trình vận dụng Điều 74 Bộ Luật hình sự vào thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc khác. Đó là do hạn chế về kỷ thuật lập pháp. Cụ thể là Điều 74 quy định : “ …nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình” hoặc “ … không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy” hoặc… “ không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định”. Bởi vì, điều luật quy định về tội phạm cụ thể có thể có một hoặc nhiều khung hình phạt trong khi đó Điều 74 chỉ dùng từ chung chung là “ điều luật” mà không chỉ rõ khung hình phạt bị áp dụng. Mặt khác, cần hiểu rằng nhà làm luật quy định giảm nhẹ hình phạt cho người thành niên phạm tội so với trong cùng một khung hình phạt ( trong điều kiện các tình tiết khác tương đương ). Do đó, quy định chung chung như trên dễ gây hiểu nhầm và vận dụng không thống nhất. Ví dụ: Bị cáo E phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 BLHS năm 1999, khi phạm tội bị cáo tròn 15 tuổi. Với quy định chưa rõ như trên của Điều 74, bởi vì, tội cướp tài sản có quy định hình phạt tù chung thân, tử hình. Nếu vận dụng khoản 2 đoạn 1 Điều 74 thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng cho bị cáo không quá 12 năm tù trong khi đó mức cao nhất của khoản 1 Điều 133 chỉ là 10 năm tù ( thấp hơn mức 12 năm tù ) vả mặc dù đã áp dụng Điều 74 nhưng hình phạt tuyên cho bị cáo tuyên cho bị cáo có thể còn cao hơn cả trong trường hợp chưa giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trong trường hợp nếu hiểu đúng tinh thần của Điều 74 thì phải vận dụng đoạn 2 khoản 2 Điều 74 thì mới đúng vì bị cáo E phạm tội theo Điều 133 khoản 1 và điều 133 khoản 1 quy định hình phạt áp dụng cho bị cáo là tù có thời hạn. Trường hợp này mức hình phạt cao nhất mà tòa án tuyên cho bị cáo không quá 5 năm tù – không quá 1/2 mức cao nhất của khoản 1 Điều 133. Như vậy, nếu áp dụng đoạn 2 khoản 2 Điều 74 thì hình phạt áp dụng cho bị cáo rõ ràng được giảm nhẹ hơn hẳn so với người đã thành niên phạm tội. Mặt khác, cách diễn đạt “ mức hình phạt cao nhất không quá 18 năm tù” hoặc  “ không quá 3/4 mức phạt tù”… của Điều 74 là còn chưa rõ nên có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất cách hiểu phổ biến hiện nay là Bộ Luật hình sự (BLHS) đã khống chế mức tối đa của khung hình phạt được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong sự so sánh với người đã thành niên phạm tội và BLHS đã không khống chế mức tối thiểu. Mức hình phạt cao nhất mà người chưa thành niên chấp hành phải thấp hơn mức hình phạt cao nhất áp dụng cho người đã thành niên. Các hiểu thứ hai cho rằng mặc dù Điều 74 quy định như trên nhưng thực chất điều luật này vẫn còn khống chế mức hình phạt tối đa và mức tối thiểu quy định cho người đã thành niên. Tôi cho rằng để các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được áp dụng có hiệu quả trong thực tế, Điều 74 BLHS hiện hành cần khắc phục kịp thời những hạn chế đã phân tích ở trên để các quy định này thực sự là công cụ hữu hiệu của Nhà Nước trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm./. 4. Một số vụ án người chưa thành niên phạm tội - Ý kiến của Luật sư và những người liên quan : + Ngày 10-8, TAND TPHCM lại đưa ra xét xử vụ “phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”. Trong 4 bị cáo, hết 3 người chưa thành niên (tuổi từ 15 đến 17) và thuộc thành phần lao động nghèo. Lần lượt hỏi từng bị cáo lý do đi cắt trộm dây điện, HĐXX đều nhận được câu trả lời: “Cắt để bán ve chai lấy tiền chơi game”. Hỏi : “Có biết cắt trộm dây điện đang vận hành là phạm tội phá hủy công trình an ninh quốc gia, có thể lãnh án chung thân hoặc tử hình không?”, cả ba run sợ nói: “Dạ không. Bị cáo nghĩ là cắt đây điện để lấy dây đồng bán...”. HĐXX mời cha mẹ bị cáo lên, họ cùng cho rằng: “Ở nhà nó ngoan lắm. Suốt ngày lo đi làm phụ giúp gia đình”. Tuy nhiên, khi được hỏi có biết con kết bạn với ai, làm gì sau giờ đi làm không, họ đều mù mờ: “Dạ, thì nó đi uống cà phê hay chơi game với bạn một chút, khuya về ngủ...”. Theo luật sư Nguyễn Phi Điệp (Đoàn Luật sư TPHCM), cái gốc vẫn là gia đình. Không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh và cái nghèo, bỏ mặc con cái muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, chơi với ai cũng được, rồi khi con hư lại đẩy trách nhiệm về phía xã hội. Như thế là vô trách nhiệm. Chỉ cần để ý đến con một chút, quản lý con chặt chẽ hơn sẽ hạn chế được phần nào hành vi phạm tội của đứa trẻ. Ví dụ thấy con đem chiếc xe lạ về nhà, hỏi xem con lấy xe ở đâu, của ai..., nó cũng e dè hơn. Không hỏi han gì cũng là một kiểu dung túng cho con làm bậy. Hoặc như 11 - 12 giờ đêm mà trẻ vẫn lang thang cùng bạn bè ngoài đường là điều không thể dễ dàng thỏa hiệp, chấp nhận... Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh Thy (Đoàn Luật sư TPHCM) phân tích: “Thực ra, ở lứa tuổi 13 - 17, trẻ thường liên hệ và chịu sự tác động của bạn bè nhiều hơn gia đình. Nếu được tiếp tục đến trường, nguy cơ phạm tội được hạn chế phần nào. Tuy nhiên, chương trình học hiện nay quá nặng, nhất là đối với những học sinh học lực trung bình, yếu lại không có khả năng đi học thêm. Không theo kịp bạn bè, chúng dễ nản rồi đòi nghỉ học. Trong khi đó, gia đình lại thiếu động viên, đôi khi cũng do không trang trải nổi chi phí học hành, họ buông xuôi. Nghỉ học trong khi những công việc dành cho lứa tuổi này không nhiều, thời gian rảnh, các em bắt đầu kết bè, kết bạn. “Gần mực thì đen”... Thêm vào đó, xã hội ngày càng phát triển, bên cạnh những mặt tích cực cũng kéo theo nhiều hệ lụy. Nếu không được trang bị kiến thức văn hóa, ứng xử, nhận thức hạn chế, thiếu sự giám sát của gia đình, các em dễ dàng đua đòi, sa vào những kiểu vui chơi không lành mạnh. Để có tiền đáp ứng được những nhu cầu cá nhân, ắt phải làm bậy. Và vì còn nhỏ, các em không ý thức hết việc mình làm, hành động phạm tội của các em vì thế thường dẫn đến hậu quả nghiêm trọng”. Mới đây, TAND TPHCM đã tổ chức hội thảo về thực trạng người chưa thành niên phạm tội. Theo Tòa Hình sự TAND TP, từ năm 2002 đến 2006, tỉ lệ người chưa thành niên phạm tội tăng gần 100%. Một điều đáng nói nữa là, người chưa thành niên phạm tội thường đóng vai trò chủ động, trong nhiều trường hợp là những người tổ chức, cấu kết thành băng nhóm. Có thể nhận thấy, giáo dục lối sống đạo đức chưa thực sự được coi trọng, giáo dục pháp luật chưa đưa vào học đường nên hiểu biết pháp luật của người chưa thành niên rất hạn chế. Tuy nhiên, gia đình vẫn là quan trọng nhất. Một thẩm phán nói: “Đưa những bị cáo tuổi đời còn quá trẻ ra xét xử như thế này, chúng tôi rất đau lòng. Nhưng buồn nhất là khi ra tòa, các bậc phụ huynh vẫn chưa thấy hết trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái, cũng không thấy mức độ nghiêm trọng của vụ việc. Để rồi, khi nghe con bị tuyên án bao nhiêu năm tù, họ mới giật mình nhận ra, thì lý lịch của đứa trẻ đã kịp có vết nhơ rồi...”. II. Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội. 1. Vai trò của Luật sư khi tham gia vụ án có người chưa thành niên phạm tội : Trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa. Quy định này vừa thể hiện tính dân chủ của hoạt động tố tụng vừa là một điều kiện bảo đảm hiệu quả của quá trình giải quyết các vụ án hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội. Do đó khi tham gia với tư cách là người bào chữa vào quá trình giải quyết các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, ngoài những kỹ năng chung nếu luật sư còn biết vận dụng những kỹ năng đặc thù thì hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án đặc thù mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì công việc bào chữa của luật sư sẽ đạt hiệu quả cao hơn và sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ một cách tốt nhất. Trong bất kỳ vụ án nào và đặc biệt là trong vụ án bị can là người chức thành niên, việc bị can hoặc gia đình bị can mời luật sư bào chữa ngay trong giai đoạn điều tra thể hiện sự bức xúc của chính bị can hoặc gia đình bị can. Họ muốn nhận được sự trợ giúp pháp lý của luật sư thông qua sự tư vấn, khuyên nhủ và giúp đỡ thực hiện những công việc cụ thể mà bản thân họ không thể thực hiện được. Vì vậy việc tiếp xúc với gia đình bị can, bản thân bị can là rất quan trọng. Trước hết sự tiếp xúc này giải tỏa về mặt tâm lý cho bị can rằng trong những lúc khó khăn nhất khi đang bị khởi tố điều tra họ vẫn có gia đình, có luật sư là người am hiểu pháp luật bên cạnh động viên, an ủi giúp đỡ. Sau nữa, sự tiếp xúc giữa luật sư với bị can, gia đình bị can còn làm cho người thân của bị can an tâm hơn, không sợ bị can bị oan sai hoặc bị bức, ép trong quá trình hỏi cung từ phía cơ quan điều tra và điều tra viên. Mục đích của việc tiếp xúc với bị can và gia đình bị can là để luật sư thu nhận về những thông tin về sự việc đã xảy ra, về nhân thân bị can và về những vấn đề khác như hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ cuả bị can với gia đình và bạn bè ở trường học hoặc nơi cư trú. Qua đó để thu thập được những thông tin chính xác, luật sư cần phải có thái độ cởi mở, chân tình, cảm thông chia sẽ với bị can và gia đình bị can. Đối với những bị can là người lớn, người đã thành niên nếu không có sự hợp tác của bị can, gia đình bị can, luật sư có thể ngay lập tức từ chối bào chữa, nhưng đối với bị can là người chưa thành niên thì luật sư không được làm như vậy mà nếu gặp tình huống này bằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp và kiến thức pháp luật, luật sư cần thuyết phục bị can cung cấp những thông tin chính xác, khai ra các đồng phạm khác (nếu điều đó không làm xấu đi tình hình của bị can), thuyết phục gia đình sớm khắc phục hậu quả, chủ động gặp gỡ, thoả thuận với bên bị hại để sau này được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Người chưa thành niên là những người trong độ tuổi mà tâm lý chưa ổn định , luôn cần sự tác động nhẹ nhàng, tình cảm vì vậy nếu có luật sư am hiểu về tâm sinh lý với họ thì họ dễ dàng khai báo sự thật và điều này giúp cho luật sư có những luận cứ chính xác trong việc xây dựng bài bào chữa của mình theo hướng có lợi nhất cho họ. Theo quy định của tố tụng hình sự, sự tham gia của luật sư, người bào chữa trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên là bắt buộc. Điều này có nghĩa là, sau khi một người chưa thành niên bị khởi tố bị can nếu bị can hoặc gia đình bị can không mời luật sư bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng mà cụ thể là cơ quan điều tra có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư cử luật sư bào chữa cho bị can. Tuy nhiên, trong thực tế ở nước ta hiện nay, nhiều trường hợp khi vụ án chuyển sang toà án thì Toà án mới yêu cầu cử luật sư, còn trong giai đoạn điều tra, truy tố, bị can không có luật sư bào chữa. Vì vậy trong mọi trường hợp, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo khi có một trong hai điều kiện: - Bị can, bị cáo hoặc gia đình bị can, bị cáo mời - Đoàn luật sư chỉ định trên cơ sở đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng . Sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự là rất cần thiết, bằng hoạt động của mình, luật sư giúp bị can, bị cáo là người chưa thành niên thực hiện tốt hơn nữa quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật, đồng thới giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết và xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nhìn chung vai trò của luật sư trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự có sự tương đồng. Dù tham gia ở thời điểm nào, trong giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm thì việc đầu tiên của luật sư là nghiên cứu lại toàn bộ các quy định mà pháp luật Hình sư và Tố tụng hình sự về trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội và trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội. Các quy định trên đây là căn cứ pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình. Góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật. Trong các hoạt động tố tụng, quá trình điều tra vụ án hình sự có những đặc thù riêng so với các hoạt động tố tụng khác. Đối với những vụ án mà người chưa thành niên phạm tội ngoài những đặc thù riêng so với các hoạt động tố tụng khác, còn có các đặc thù về trong thủ tục tố tụng và một số nét đặc trưng riêng của vụ án này. Những đặc thù của giai đoạn này có ảnh hưởng, tác động nhất định đến hoạt động bào chữa được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can và kết thúc khi cơ quan này ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 164 BLTTHS hoặc làm bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố theo các quy định. So với các giai đoạn khác, hoạt động bào chữa trong giai đoạn này có những đặc điểm riêng, đó là không có sự cọ xát chứng cứ trực tiếp giữa bên buộc tội với bên gỡ tội như ở giai đọan xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm. Những thông tin, tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho cho việc xác định sự thật vụ án đối với luật sư không nhiều nhưng những thông tin tài liệu chứng cứ đó lại rất quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi cho bị can. Do vậy luật sư phải biết tập trung thời gian, công sức trí tuệ để nghiên cứu đánh giá tính hợp pháp, tính có căn cứ của những quyết định, những biên bản về hoạt động điều tra trong giai đoạn này, kịp thời đưa ra những kiến nghị phù hợp như triệu tập thêm người làm chứng, huỷ bỏ, thay thế các biện pháp ngăn chặn. Ngoài ra luật sư còn phải kiểm tra xem xét việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo có đúng quy định của pháp luật không nhất là biện pháp tạm giam. Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên, cơ quan điều tra hầu như không lưu giữ trong bản hồ sơ bản sao giấy khai sinh của bị can, chính vì vậy, việc xác định trách nhiệm của bị can đôi khi không được chính xác. Khi tiếp xúc với gia đình bị can, luật sư cần tìm hiểu chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị can. Trong nhiều trường hợp, một việc làm tưởng như đơn giản này lại có tác dụng rất lớn, nó có thể dẫn đến việc đình chỉ vụ án, thay đổi biện pháp ngăn chặn áp dụng cho bị can từ nghiêm khắc sang ít nghiêm khắc hơn. Song song với quy định bị can là người chưa thành niên phải có luật sư bào chữa, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định về vai trò của người giám hộ, người đại diện hợp pháp của bị can. Những người này phải có mặt khi hỏi cung bị can và các bản hỏi cung của bị can chỉ có giá trị pháp lý khi có chữ ký của ngưới giám hộ, người đại diện hợp pháp kèm theo các chữ ký của bị can và điều tra viên. Xuất phát từ các quy định trên, qua tiếp xúc với gia đình bị can, luật sư có thể thoã thuận với người giám hộ, người đại diện hợp pháp của bị can. Cũng qua việc tiếp xúc với gia đình bị can, luật sư có kế hoạch cụ thể tìm hiểu về nhân thân của bị can, về những mối quan hệ của bị can với các bạn cùng trường, cùng nơi cư trú. Trong trường hợp cần thiết luật sư phải tìm hiểu ai là người xúi giục, mua chuộc, lôi kéo bị can thực hiện hành vi phạm tội. 2. Vai trò Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự khi tham gia vụ án có người chưa thành niên phạm tội : Luật sư có vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra. Thông qua việc thực hiện các quyền năng tố tụng của mình theo quy định của pháp luật luật sư góp phần tích cực vào việc giúp cơ quan điều tra thu thập chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, không chỉ làm rõ những chứng cứ có tội, tình tiết tăng nặng mà đặc biệt còn làm rõ những chứng cứ vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, hạn chế được oan sai và vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra, tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử, khác với giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử xác định dứt điểm bị cáo có tội hay không có tội và mức hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội đó, được xác định tại Điều 9 BLTTHS. Trong gia đoạn xét xử sơ thẩm luật sư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội. Những sai lầm dù nhỏ nhất trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, nếu không được phát hiện cũng có thể dẫn đến việc kết tội oan sai, ảnh hửng đến quyền lợi của bị cáo. Do vậy luật sư trong giai đoạn xét xử góp phần thiết thực vào việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo, giúp Toà án ra một bản án có căn cứ, hợp pháp và có sức thuyết phục. Vai trò của luật sư trong giai đọan xét xử sơ thẩm thể hiện rõ nét nhất thông qua việc tham gia phiên toà xét xử. Tuy nhiên, để tham gia phiên toà có hiệu quả trong giai đoạn xét xử sơ thẩm luật sư phải biết vận dụng những kỹ năng, quyền hạn của mình trong khuôn khổ của pháp luật để bảo vệ bị cáo. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà, luật sư phát hiện những tình tiết có lợi cho bị cáo, nếu phát hiện có căn cứ để thay đổi kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch, thì luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định nếu những người này tiến hành hoặc tham gia sẽ làm cho việc giải quyết vụ án không khách quan hoặc không đúng quy định của pháp luật tố tụng đối với người chưa thành niên quy định tại Điều 307 BLTTHS. Pháp luật tố tụng hình sự của nước ta quy định điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng đối với những vụ án người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh và phòng chống tội phạm của những người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn quy định trên đây khó được áp dụng bởi khả năng đang còn rất hạn chế của điều tra viên, thẩm phán về lĩnh vực nêu trên. Vì vậy việc đề nghị những người tiến hành tố tụng có được trình độ về tâm ly, giáo dục nhận trách nhiệm giải quyết vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên là rất kho. Thế nhưng luật sư hoàn toàn có thể yêu cầu toà án thành lập Hội đồng xét xử trong đó có hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà luật sư còn xem xét xem phiên toà xét xử hôm nay có mặt ngừơi đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo không, nếu người này vắng mặt do sư sai xót của cơ quan tiến hành tố tụng không triệu tập hoặc vì lý do nào khác mà không phải do người đại diện hợp pháp của gia đình của bị cáo cố ý vắng mặt thì cũng có thể đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. Trường hợp tại phiên toà vắng mặt người làm chứng mà sự vắng mặt của họ không có lợi cho bị cáo mà mình bảo vệ thì đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Trong phần xét hỏi tại phiên toà, luật sư theo dõi, phát hiện những điểm quan trọng có liên quan đến việc bảo vệ cho bị cáo, những tình tiết có mâu thuẫn với các chứng cứ khác trong vụ án hoặc những tình tiết không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án cần được làm rõ. Từ đó luật sư đặt câu hỏi nhằm làm rõ những tình tiết có lợi cho bị cáo mà mình bảo vệ. Có thể yêu cầu Hội đồng xét xử cách ly bị cáo với bị cáo khác(nếu thấy cần thiết). Luật sư có thể hỏi đại diện gia đình, nhà trường để làm rõ nguyên nhân, điều kiện học tập, sinh hoạt của bị cáo. Luật sư cũng có thể đề nghị Hội đồng xét xử cho phép đại diện gia đình, nhà trường được trình bày các chứng cứ, đưa ra các yêu cầu. Đồng thời đề nghị với Hội đồng xét xử hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án, trình bày nhận xét của mình về vật chứng của vụ án được đưa ra xem xét tại phiên toà, nhân xét về kết luận giám định và hỏi những vấn đề chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong kết luận giám định, những vấn đề cần làm rõ khi xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo. Vì người chưa thành niên thường là người chưa quen ứng xử trong nhữnh chỗ đông người đặc biệt là trước công đường, vì vậy trước khi mở phiên toà xét xử với những hiểu biết về tâm lý luật sư gặp lại bị can động viên, an ủi và giúp họ chuẩn bị tốt tinh thần là điều rất quan trọng đối với họ. Thường những người chưa thành niên là những người phạm tội lần đầu, khi bị đưa ra xét xử thì hay hoang mang, thậm chí sợ hãi, có khi quên hết diễn biến vụ án và những điều đã khai ở giai đoạn điều tra. Luật sư sẽ động viên giúp họ nhớ lại nội dung khai trước đây để trả lời tại phiên toà thống nhất với lời khai tại giai đoạn điều tra cũng như trước Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố. Luật sư có thể cho bị can biết được những chứng cứ bất lợi cho bị can và hướng dẫn cách lập luận để bác lại các chứng cứ khi đối chất tại toà. Trong việc tranh luận tại phiên toà luật sư cũng có vai trò quan trọng, sau khi kiểm sát viên trình bày lời buộc tội. Luật sư được trình bày quan điểm của mình để bảo vệ bị cáo. Có thể nói, quyền tranh luận tại phiên toa là phương tiện để luật sư tiến hành phân tích, đưa ra luận cứ có tính thuyết phục để bảo vệ bị cáo. Tuy nhiên, để việc tham gia phiên toà có hiệu quả và vai trò của luật sư thể hiện đúng nghĩa thì ngoài sự hiểu biết về pháp luật một cách sâu sắc, luật sư còn phải có kỹ năng bào chữa thành thạo, đặc thù trong kỹ năng bào chữa cho bị cáo là người chưa thành niên so với bị cáo là người đã thành niên tại phiên toà là phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự, tái phạm, định tội danh, quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên toà áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuỳ thuộc vào tính chất trong từng vụ án cụ thể, luật sư trong lời bào chữa của mình ngoài những lập luận phản bác lại lời buộc tội của viện kiểm sát nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án như trong bất kỳ vụ án nào. Luật sư có thể đưa ra những tình tiết giảm nhẹ khác nhau, liên quan tới hoàn cảnh gia đình, tâm lý, lứa tuổi, vai trò thứ yếu của bị cáo trong vụ án, nguyên nhân và điều kiện dẫn tới hành vi phạm tội của bị cáo. Khi tham gia đối đáp tại phiên toà luật sư phải tận dụng cơ hội đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội bị cáo do Viện kiểm sát đưa ra không có cơ sở. Luật sư phải lắng nghe để có thể đáp lại những ý kiến mà mình không đồng ý một cách linh hoạt, kịp thời, chính xác trên cơ sở pháp luật. Từ đó, đề xuất với Hội đồng xét xử có những quyết định có lợi cho bị cáo như miễn trách nhiệm hình sự , miễn hình phạt áp dụng điều luật khác nhẹ hơn mức tối thiểu của khung hình phạt, áp dụng hình phạt không phải là tù, áp dụng án treo. Những tình tiết này có ý nghĩa rất lớn trong việc xem xét và quyết định hình phạt đối với bị cáo. Khi tuyên án, luật sư theo dõi và ghi lại những nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh và hình phạt, quyết định của bản án có liên quan đến bị cáo mà mình bảo vệ để có thể giúp bị cáo kháng cáo nếu không đồng ý với bản án sơ thẩm mà Toà án đã tuyên đối với bị cáo. Sau khi tuyên án, luật sư cũng có thể xem biên bản phiên toà trường hợp phát hiện biên bản phiên toà có những điểm ghi không đúng, luật sư yêu cầu toà án sửa chữa cho phù hợp với diễn biến của phiên toà. Khác với các vụ án bị can, bị cáo là người đã thành niên, trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, sau phiên toà sơ thẩm hay pháuc thẩm,công việc bào chữa của luật sư chưa thể coi là kết thúc. Là người bào chữa luật sư có quyền kháng cáo độc lập theo quy định tại điều 231 BLTTHS đề nghị toà án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Viết đơn khiếu nại đối với bản án, quyết định của cấp phúc thẩm nếu không thoả mãn với nội dung của chúng. Luật sư cũng có thể kiến nghị đối với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định những vấn đề có liên quan tới việc thi hành án, giảm và miễn thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên mà theo quy định của pháp luật họ được hưởng. **** KẾT LUẬN Trong xã hội khi mà tính nghiêm minh của pháp luật được thừa nhận thì vai trò của luật sư càng được xã hội công nhận và tôn trọng. Vai trò của Luật sư càng trở nên quan trọng hơn khi tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và nhất là bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy Nhà nước đặc biệt quan tâm đến người chưa thành niên phạm tội quy định thành một chương riêng trong Bộ luật hình sự (chương X), tố tụng hình sự (chương XXXII) nhằm điều chỉnh đối tượng đặc biệt này, điều này cũng thể hiện chính sách riêng của Đảng và nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội. Luật sư là người có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi họ là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự. Một đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt do đặc điểm tâm sinh lý chưa hoàn chỉnh nên khi tham gia phiên toà hình sự Luật sư phải thay mặt thân chủ để nói lên những điều họ muốn nói, đồng thời trình bày cho hội đồng xét xử biết những diễn biến tâm lý bất thường của lứa tuổi chưa thành niên này. Khi pháp chế xã hội chủ nghĩa đã đi vào cuộc sống hàng ngày của mọi người. Điều đó cũng là tính nghiêm minh, tôn trọng pháp luật ngày càng được đặt thành vấn đề quan trọng trong sinh hoạt thường nhật thì luật sư càng có vai trò quan trọng, đặc biệt quan trọng trong bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo và nhất là người chưa thành niên phạm tội mà còn góp phần vào việc xây dựng củng cố và hoàn thiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. ****

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKỹ năng luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội.doc