Đề tài Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài thương mại theo luật trọng tài 2010

Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tranh chấp thương mại là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Tranh chấp thương mại đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Một trong những hình thức giải quyết tranh chấp được coi là hiệu quả và được đa số các công ty, doanh nghiệp trên thế giới sử dụng là Trọng tài thương mại. Bài viết sau đây xin đi phân tích tại sao trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp và nội dung của phương thức này.

doc17 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2360 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài thương mại theo luật trọng tài 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tranh chấp thương mại là một hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng. Tranh chấp thương mại đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Một trong những hình thức giải quyết tranh chấp được coi là hiệu quả và được đa số các công ty, doanh nghiệp trên thế giới sử dụng là Trọng tài thương mại. Bài viết sau đây xin đi phân tích tại sao trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp và nội dung của phương thức này. Nội dung I. Những vấn đề lí luận chung về trọng tài thương mại Khái niệm, đặc điểm của trọng tài thương mại: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 (Khoản 1- Điều 3- Luật Trọng tài thương mại 2010). * Đặc điểm của trọng tài thương mại Trọng tài thương mại với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, tồn tại song song với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như: thương lượng, hòa giải, tòa án và các phương thức tranh chấp lựa chọn ADR. Trọng tài và các phương thức ADR nói chung là các phương thức giải quyết ngoài tòa án, không cạnh tranh với tòa án, trọng tài và ADR là các phương thức bổ sung lẫn nhau. Thực tế trọng tài không thể phát triển mà không có sự hợp tác và kiểm soát cuối cùng của tòa án quốc gia. Trọng tài đã trở thành phương thức được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế và hiện là phương thức bắt buộc về mặt pháp lí duy nhất có thể thay thế cho tòa án. Với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại - trọng tài thương mại có những nét đặc thù cơ bản sau đây: - Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài luôn có sự tham gia của bên thứ ba, đó là các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất, với tư cách là “người cầm cân nảy mực”, hoàn toàn độc lập, không “hành động như luật sư cho bên nào cả”. - Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Khi giải quyết tranh chấp tại trọng tài, trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp lện trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó qui định. - Kết quả giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên bố với các bên đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên đương sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với các cụ tranh chấp..), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc với các bên). Trọng tài thương mại với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tồn tại song song với tòa án. Trong trường hợp tranh chấp xảy ra giữa các bên thỏa thuận đưa ra giải quyết tại trọng tài và thỏa thuận này có hiệu lực mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu tòa án giải quyết thì tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Tuy nhiên xuất phát từ bản chất vốn có, trọng tài có những đặc trưng khác hẳn với tòa án thể hiện ở những điểm sau: - Trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp, không do Nhà nước thành lập mà do các trọng tài viên thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Do đó khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước mà nhân danh “quyền lực tư” để đưa ra phán quyết. - Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể tranh chấp đối với trọng tài, có nghĩa là chính các chủ thể tranh chấp với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. - Phán quyết của trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan xét xử có thẩm quyền, vừa thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên trọng tài không phải là cơ quan xét xử nhà nước cho nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Phán quyết chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị bắt buộc với bên thứ ba. Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các chủ thể tranh chấp lựa chọn. Các hình thức tổ chức trọng tài thương mại Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc: Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài đươc lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết. Tính chất vụ việc của hình thức trọng tài này được thể hiện ở chỗ: trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành cố định, không có quy tắc tố tụng riêng cho mình… Khi tiến hành xét xử, hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào bất kì quy tắc tố tụng nào, tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc xét xử khách quan, vô tư và đúng pháp luật. Hoạt động của trọng tài vụ việc rất linh hoạt, phù hợp với những tranh chấp đơn giản. Trọng tài viên do các đương sự thỏa thuận lựa chọn không bị giới hạn bởi các trọng tài viên sẵn có. Thông thường trọng tài viên được chọn có thể là các thương gia có tu nghiệp pháp lí hay là các luật sư làm việc cho các công ty, họ không chỉ nắm vững kiến thức lập pháp mà còn am hiểu về hoạt động kinh doanh. Thỏa thuận trọng tài vụ việc thường được thiết lập khi tranh chấp đã xảy ra cho nên thường phàu hợp với tính chất, điều kiện cụ thể của tranh chấp. Thời gian giải quyết nhanh chóng theo sự định đoạt của đương sự, họ có toàn quyền trong việc xác định quy chế tố tụng. Tuy nhiên để soạn thảo được các thỏa thuận trọng tài vụ việc đòi hỏi các bên phải có luật sư chuyên gia tư vấn pháp lí có chuyên môn trong lĩnh vực trọng tài. Giữa các bên tranh chấp có thiện chí, hợp tác chặt chẽ. Mặt khác, do tính chất không ổn định, không có quy chế hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết các vụ tranh chấp của trọng tài vụ việc là không cao. Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế): Khác với trọng tài vụ việc (ad-hoc), trọng tài thường trực luôn tồn tại không phụ thuộc vào tranh chấp của các bên. Trọng tài thường trực có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. Trọng tài thường trực có thể được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài nằm bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp, hoặc dưới dạng công ty hay hiệp hội có đăng kí. Các tổ chức trọng tài này đều được tiến hành bới các chuyên gia trọng tài có nhiều kinh nghiệm. Với tư cách là cơ quan tài phán thương mại trọng tài thường trực có một số đặc trưng sau đây: - Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là các tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Thể hiện: +, Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành lập bởi cơ quan nhà nước. Do đó chúng không nằm trong hệ thống cơ quan quản lí nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước. + Hoạt động của các trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp kinh phái từ ngân sách nhà nước. + Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết + Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn được đặt dưới sự quản lí và hỗ trợ của Nhà nước thông qua các hoạt động như: ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lí cho việc tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong viêc hủy bỏ hoặc không hủy quyết định trọng tài… - Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau; giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên cấp dưới. - Thứ ba, tổ chức và quản lí ở trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể, trung tâm trọng tài có ban điều hành bao gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch và có thể có tổng thư kí do các chủ tịch trung tâm trọng tài cử ra; các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định. - Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và các quy tắc tố tụng riêng. Việc xây dựng qui tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở một bản quy tắc tố tụng trọng tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín. - Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm đó. 3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại. Khi giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau đây: - Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. - Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật. - Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. - Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. - Phán quyết trọng tài là chung thẩm. Các nguyên tắc này đã được qui định tại điều 4 của Luật trọng tài thương mại năm 2010. II. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam. 1. Điều kiện để giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài Trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp thương mại. Nhưng để một vụ việc tranh chấp thương mại được giải quyết bằng phương thức Trọng tài thì các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Bên cạnh đó, trong các trường hợp mà một bên tham gia thỏa thuận trọng tài mà gặp “vấn đề” như: 1/ nếu là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó; 2/ nếu là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó (trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác). 2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại . Một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại khi thuộc một trong ba trường hợp sau: Một là, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Hai là, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Ba là, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc, nếu được các bên có lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định theo lãnh thổ, theo trụ sở hay chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuân của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kì một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và càng không phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu có thỏa thuận trọng tài. Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào được phát sinh trong lĩnh vực thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và có ít nhất một bên có tham gia hoạt động thương mại hoặc trong những trường hợp mà pháp luật buộc phải giải quyết tại trọng tài. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật Trọng tài thương mại so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới. 3. Trình tự giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại. Tranh chấp giữa các bên có thể được giải quyết tại hội đồng trọng tài do trung tâm trọng tài tổ chức hoặc tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Giải quyết theo hình thức trọng tài nào là do các bên thỏa thuận, quyết định, các bên thỏa thuận lựa chọn trọng tài nào thì chỉ có trọng tài đó mới có thẩm quyền giải quyết. 3.1. Trình tự giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài của trung tâm trọng tài - Đơn kiện và thụ lí đơn kiện: Để giải quyết vụ tranh chấp tại trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi đến đúng trung tâm trọng tài mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Đơn kiện phải được gửi đến trong thời hiệu mà pháp luật qui định đối với từng loại tranh chấp. Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không qui định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là 2 năm, kể từ ngày tranh chấp xảy ra, trừ trường hợp bất khả kháng. Khi nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài phải xem xét vụ kiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình không, nếu thỏa mãn các điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì trung tâm trọng tài sẽ thụ lí đơn và bắt đầu có trách nhiệm giải quyết. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của bên nguyên đơn, những tài liệu kèm theo mà nguyên đơn cung cấp và danh sách trọng tài viên của trung tâm. - Tự bảo vệ của bị đơn Nếu các bên không có thỏa thuận khác, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo của nguyên đơn do trung tâm trọng tài gửi đến, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ Bản tự bảo vệ với nội dung chính là : lí lẽ và dẫn chứng để tự bảo vệ, phản bác một phần hay toàn bộ nội dung đơn kiện của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn về thẩm quyền của trọng tài và thỏa thuận trọng tài; việc lựa chọn trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. - Thành lập hội đồng trọng tài tại Trung tâm trụng tài Thông thường việc giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài do một hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết. Cụ thể, trong đơn kiện của mình, nguyên đơn đã lựa chọn cho mình một trọng tài viên; trong bản tự bảo vệ, bị đơn cũng đã chịn cho mình một trọng tài viên hoặc yêu cầu chủ tịch của trung tâm chỉ định trọng tài viên cho mình. Nếu bị đơn không lựa chọn trọng tài viên thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết hạn qui định, chủ tịch trọng tài sẽ chỉ định một trọng tài viên trong số danh sách trọng tài viên của trung tâm. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày xác định được hai trọng tài viên, các trọng tài viên này phải chọn trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. - Chuẩn bị giải quyết Các trọng tài viên sau khi được chọn hoặc được chỉ định, phải hành các công việc cần thiết cho việc giải quyết như: Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc; Thu thập chứng cứ. - Hòa giải Trong tố tụng trọng tài hòa giải không phải là nguyên tắc, không phải là bắt buộc song hội đồng trọng tài vẫn phải tôn trọng việc tự hòa giải của các bên. Nếu các bên tự hòa giải với nhau thì theo yêu cầu của các bên, hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng. Các bên cũng có thể yêu cầu hội đòng trọng tài tiến hành hòa giải, khi đó các bên có thể yêu cầu hội đồng trọng tài lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận hòa giải thành. - Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và phán quyết trọng tài Trong tố tụng trọng tài, các bên tranh chấp được đảm bảo quyền tự định đoạt tối đa, các bên có thể thỏa thuận cả thời gian giải quyết tranh chấp. Chỉ khi không có thỏa thuận các bên về thời gian tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp thì chủ tịch hội đồng trọng tài mới có quyền quyết định vấn đề này. Phiên họp giải quyết tranh chấp không công khai. Các bên có thể trực tiếp tham dự hoặc có thể ủy quyền cho người đại diện của mình tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp. Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài phải đưa ra đa số được quyết định trọng tài. Quyết định trọng tài được biểu quyết theo nguyên tắc. Quyết định của trọng tài có thể được công bố ngay tại phiên họp hoặc sau đó nhưng chậm nhất là sáu mươi ngày kể từ ngày phiên họp cuối cùng kết thúc. Toàn bộ hồ sơ giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài và quyết định trọng tài được lưu trữ tại trung tâm trọng tài. 3.2 Trình tự giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập. - Đơn kiện Thủ tục này tương tự như việc giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài. Điểm khác ở đây là trọng tài viên của nguyên đơn chọn có thể là trọng tài viên ngoài danh sách hoặc trong danh sách của bất kì trung tâm trọng tài nào của Việt Nam. - Bản tự vệ của bị đơn Nếu không có thỏa thuân gì khác, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn bản tự bảo vệ và tên của trọng tài viên mà mình lựa chọn. Bản tự bảo vệ gửi nguyên đơn cũng như bản tự bảo vệ gửi trung tâm trọng tài - Thành lập Hội đồng trọng tài Theo qui định của luật trọng tài, nếu bị đơn không chọn trọng tài viên và thông báo cho nguyên dơn trong thời gian qui định sẽ bị mất đi quyền chọn trọng tài viên của mình. Về cơ bản việc thành lập hội đồng trọng tài tương tự như tại trung tâm trọng tài nhưng việc chỉ định trọng tài viên thì không bắt buộc phải là trọng tài viên trong danh sách của trung tâm trọng tài. Trình tự tiếp theo của giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài theo các bên thành lập cũng giống như việc giải quyết tranh chấp của các bên tại trung tâm trọng tài. - Chuẩn bị giải quyết - Hòa giải - Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và phán quyết trọng tài 4. Việc thực thi quyết định của trọng tài . Quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực từ ngày công bố. Quyết định của trọng tài không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp, một trong các bên có yêu cầu Tòa án hủy quyết định trọng tài thì quyết định của Trọng tài được thi hành kể từ ngày quyết định của tòa án không hủy quyết định trọng tài có hiệu lực. Luật trọng tài thương mại 2010 qui định : “Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thực hiện quyết định của trọng tài”. Song để đảm bảo cho việc thực thi phán quyết của trọng tài thương mại thì pháp luật còn qui định về sự hỗ trợ của các cơ quan tư pháp đối với việc thực thi này. Cụ thể: Tòa án có thể quyết định thay đổi trọng tài viên; xem xét lại quyết định về thẩm quyền của hội đồng trọng tài; quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; có thể quyết định hủy hay không hủy quyết định trọng tài. Trong Luật Trọng tài thương mại 2010 đã thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả. III. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác 1. So với thương lượng, hòa giải: Xét về bản chất, thương lượng và hòa giải là hai phương giải quyết tranh chấp khác nhau. Chúng có những điểm chung như: đều là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng; chủ thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp ở đây không phải là những cơ quan nhà nước mà chính là các nhà kinh doanh. Thủ tục hòa giải, thương lượng cũng không mang tính chất chặt chẽ như thủ tục giải quyết tranh chấp tai cơ quan tài phán khác. Mặt khác, kết quả mà phương thức hòa giả và thương lượng đạt được cũng không mang tính cưỡng chế, không được bảo đảm thi hành bởi cơ quân thi hành án. Việc thương lượng, hòa giải phụ thuộc hoàn toàn vào sự thiện chí của các bên. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp khác, do không tìm thấy tiếng nói chung, việc thương lượng hòa giải sẽ rơi vào thế bế tắc. Hơn thế, phương thức giải quyết tranh chấp này chưa được pháp luật hiện hành nước ta qui định cụ thể. So sánh với phương thức giải quyết tranh chấp trên thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có những ưu điểm sau: - Tuy các bên đương sự có quyền định đoạt cao về quá trình giải quyết tranh chấp nhưng các trọng tài viên khi được các bên lựa chọn có quyền xét xử và ra quyết định một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở quy định của pháp luật. - Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán. Quyết định trọng tài được ban hành phù hợp với các qui định của pháp luật sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đương sự - Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải tuân thủ theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ, trong khuôn khổ pháp luật thực định, nếu vi phạm quyết định trọng tài sẽ bị hủy theo qui định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có những hạn chế nhất định so với thương lượng hòa giải như: nó bị ràng buộc bởi những nguyên tắc pháp lí và trình tự thủ tục chặt chẽ, tốn kém hơn về mặt thời gian, chi phí… 2. So với Tòa án Việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán của Nhà nước thực hiện. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên được xác định trước, thời gian cũng được ấn định trước cho quá trình tố tụng. Đặc biệt trong các phiên tòa bao giờ cũng có sự tham gia của viện kiểm sát làm chức năng công tố và viện kiểm sát tuân thủ theo pháp luật. So sánh với tòa án, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có những điểm mạnh sau: - Tố tụng trọng tài diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và đảm bảo dân chủ trong quá trình giải quyết tranh chấp, hạn chế đến mức cao nhất sự gián đoạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các bên đương sự có quyền định đoạt quá trình tố tụng và quyết định thủ tục giải quyết tranh chấp. Họ có nhiều phương án lựa chọn để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp nhất. - Tố tụng trọng tài sẽ đảm bảo bí mật kinh doanh và bảo vệ uy tín của các bên đương sự trên thương trường. Cón tòa án việc xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự có thể không đảm bảo được bí mật và không giữ được uy tín của chủ thể tranh chấp. - Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nói chung thấp hơn so với giải quyết tại tòa án. Bản thân tố tụng trọng tài là một cấp và quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm. Điều đó đã giúp cho các chủ thể giải quyết tranh chấp không phải tốn mất nhiều thời gian và tiền bạc. Bên cạnh những mặt mạnh ở trên, tố tụng trọng tài so với tố tụng tòa án có những điểm yếu : việc đảm bảo thi hành cần đến sự tự nguyện của các bên cũng như sự hỗ trợ từ phái nhà nước bởi vì quyết định trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự, không nhân danh quyền lực nhà nước. IV. Thực trạng việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam. Thực tiễn thương mại trên thế giới đã chứng tỏ rằng, trọng tài là một phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp thương mại. Phương thức này đã xuất hiện từ lâu và ngày càng được sử dụng rộng rãi, nhất là trong lĩnh vực thương mại ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Theo con số thống kê, ở các nước này, trên 90% các tranh chấp thương mại được giải quyết tại trọng tài thương mại. Mặc dù giải quyết bằng trọng tài đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp nhiều thuận lợi, tuy nhiên qua nghiên cứu của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thời gian qua cho thấy, hiện cả nước có trên 3000 doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp tìm đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là rất it. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có 7 trung tâm trọng tài, trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) là trung tâm trọng tài có số lượng những vụ tranh chấp là lớn nhất nên chúng ta lấy thống kê dưới đây của VIAC để xem xét số lượng các vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài: (Theo số liệu thống kê của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC) Như vậy, các số liệu thực tế trên đã nói lên sự ảm đảm cũng như “sự nhàn rỗi” của các trung tâm trọng tài cũng như tình cảnh trớ trêu cho phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam. Song nếu xét cả một thời gian dài thì hiện nay việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng đã có biến chuyển lớn. Chẳng hạn, một tín hiệu khả quan cho thấy các  Doanh nghiệp kinh  doanh  xuất nhập khẩu đang dần  có  xu hướng dùng  các  biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, trong các hợp đồng ít thấy các  bên  đồng  ý  sử  dụng  tòa  án quốc gia hay luật quốc gia để giải quyết tranh chấp. So với 20 năm trước, cộng đồng Doanh nghiệp Việt   Nam đã  có  một  bước  tiến  dài  trong việc  lựa  chọn một  phương  thức vốn dĩ rất phổ biến trong thương mại  quốc  tế.  Sử  dụng  trọng  tài trong  giải  quyết  tranh  chấp  có ưu điểm: Phán quyết trọng tài có giá  trị chung  thẩm; Thủ  tục  linh hoạt; Thời gian giải quyết nhanh chóng;  Nội  dung  tranh  chấp được giữ bí mật; Trọng tài viên có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn cao; Phạm vi thi hành phán quyết rộng (tại trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ). Song vẫn còn nhiều Doanh nghiệp ngộ nhận rằng, phán quyết trọng tài  không  có  hiệu  lực  và  rằng, việc  đưa  vụ  việc  ra  trọng  tài  mang tính hình thức. Nhận thấy thực trạng này, kể  từ  Pháp  lệnh  Trọng  tài  năm 2003  và  Luật  Trọng  tài  Thương mại  2010,  thì  phán  quyết  trọng tài  là chung  thẩm,  tức  là có hiệu lực  như  phán  quyết  của  tòa  án.“Với  việc  ban  hành  Pháp lệnh Trọng  tài và Luật Trọng  tài Thương  mại,  Nhà  nước  đã  đặt niềm  tin vào  các định  chế ngoài xã hội, đặt dấu bằng giữa các  tổ chức ngoài xã hội với tòa án. Một bản  án  nhân  danh  nước  Cộng hòa XHCN  Việt Nam  và  một bản  án  nhân  danh  công  lý  của chính  những  người  do  các  bên liên  quan  chỉ  định  đều  có  hiệu lực ngang nhau” (luật sư Trần Huỳnh khẳng định). V. Đánh giá Xét cho cùng thương mại là lĩnh vực rộng lớn, nhất là trong thời kì kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới thì việc học hỏi kinh nghiệm điều này và các tham gia vào sân chơi lớn này thì chúng ta phải tìm cho mình một hướng đi để không bị thua thiệt bị động khi xảy ra tranh chấp thương mại quốc tế. Mà như đã phân tích ở trên thì mỗi phương thức tranh chấp đều có ưu và nhược điểm. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được xem có ưu điểm hơn so với các phương thức khác thì nguyên nhân gì khiến nó “chưa có đất dụng võ tại Việt Nam”. Đó là do: Các doanh nghiệp vẫn còn tâm lí e dè, thích hình sự hóa quan hệ kinh tế; việc nâng cao hiểu biết và tuyên truyền pháp luật về giải quyết tranh chấp cho doanh nghiệp của Nhà nước còn chưa thật sự tạo nên một sự chuyển biến lớn,.. Hi vọng với Luật trọng tài 2010 thì việc áp dụng hình thức này sẽ trở nên phổ biến và giúp ích cho doanh nghiệp hơn trong việc kinh doanh. Kết luận Hiểu biết và nắm vững về mỗi phương thức là cơ hội và chìa khóa để các doanh nghiệp tìm ra được con đường giải quyết tranh chấp thích hợp nhất cho mình. Tuy nhiên còn những vấn đề liên quan tới các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại chưa được quy định đầy đủ và hợp lí trong hệ thống văn bản pháp luật nước ta, việc áp dụng các phương thức để phát huy tối đa vai trò của chúng trong nền kinh tế là một nhu cầu bức thiết. Với việc ban hành Luật trọng tài thương mại cũng như ý thức và trình độ nhận thức pháp luật ngày càng được cải thiện thì việc Trọng tài thương mại được doanh nghiệp tin dùng hơn sẽ thúc đẩy sự phát triển về kinh tế cũng như để pháp luật điều chỉnh hiệu quả quan hệ kinh tế hơn nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài thương mại theo luật trọng tài 2010.doc
Tài liệu liên quan