Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ Đại hội Đảng lần thứ 2 (2/1951) Đảng ta đã khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh đối với Cách Mạng Việt Nam. Đến Đại hội Đảng lần thứ 7 (6/1991). Đảng ta trân trọng ghi vào văn kiện ĐH: Đảng lấy tư tưởng Lenin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động. Đến Đại hội Đảng lần thứ 9 (4/2001) Đảng ta lại khẳng định và làm rõ thêm những nội dung cơ bản của tư tưởng HCM.

doc54 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2110 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áng tạo chủ nghĩa CN Mác – Lênin,  TTHCM vào giải đáp đúng đắn những vấn đề thực tiễn của đất nước, xây dựng CNXH từ một nước lạc hậu, trải qua 30 năm chiến tranh tàn phá hậu quả chiến tranh rất nặng nề, bỏ qua chế độ TBCN bị các thế lực thù địch chống phá, chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông âu không còn, khó khăn chồng chất, nhưng với bản lĩnh Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới lấy dân làm gốc, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dựa vào dân tham khảo kinh nghiệm các nước không sao chép máy móc các mô hình sẵn có nào, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tinh thần cách mạng chiến công, thực chất chúng ta là quay lại tư tưởng của Bác, nhờ đó CM nước ta thoát khỏi hiểm nghèo, kinh tế phát triển nhanh, đất nước ta bước vào thời kỳ rất sáng, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.   2. Nội dung vận dụng 2.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH Đẩy mạnh giáo dục chủ nghĩa yêu nước, gắn liền chủ nghĩa yêu nước với lý tưởng XHCN. Trong đêm trường nô lệ, HCM đã tìm được con đường đúng đắn nhất của dân tộc ta là độc lập dân tộc và CNXH. Bất chấp khó khăn thách thức, dân tộc ta vững vàng trên con đường đó và đạt được những thắng lợi vĩ đại. Ngày nay con đường này còn nhiều chướng ngại, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục kiên định con đường đã chọn, vượt mọi khó khăn để gắn chủ nghĩa yêu nước với CNXH. Bác nói: ngày nay yêu nước là yêu CNXH, yêu CNXH làm cho yêu nước thì càng thấm thía hơn.   2.2. Quán triệt tư tưởng dân là gốc Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Do đó cần phải phát triển nguồn nhân lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức làm chủ cho nhân dân.   2.3. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất Khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa Kinh và Thượng, giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54 dân tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối.   2.4. Làm tốt công tác xây dựng đảng và xây dựng chính quyền Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước, coi đây là nhân tố quyết định thắng lợi vào sự nghiệp đổi mới. tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Hồ Chí Minh - người khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hoà, trực tiếp đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước đi lên con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài trong ngày 2/9/1945. Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của các bậc tiền bối như “nước lấy dân làm gốc” hay “người đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định” (Nguyễn Trãi) trong truyền thống dân tộc; đã xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về Nhà nước pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và lý luận đó vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của Người cũng là quá trình tìm kiếm một nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam, bởi lẽ trong mọi cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước luôn luôn là vấn đề cơ bản. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh sống trong cảnh nước mất nhà tan, từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ hà khắc, bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Khi bôn ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước phương Tây, ý tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh. Bởi vậy khi có điều kiện thể hiện ý tưởng ấy của mình, Người đã chớp thời cơ, đấu tranh để có được trước hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật. Năm 1919, Hội nghị Vécxây họp sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Người đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên quan tới vấn đề pháp quyền. Cụ thể là: Điều 1: Yêu cầu ân xá đối với tất cả chính trị phạm. Điều 2: Đòi cải cách nền công lý ở Đông Dương nhằm đảm bảo cho người bản xứ được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu. Người nói: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu”. Điều 7: Đòi thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Điều 8: Đòi có đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ cử ra tại Nghị viện Pháp. Và Người đã chuyển bản yêu sách trên thành “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi cho mọi người, trong đó có hai câu: “Bảy xin hiến pháp ban hành Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ đầu tiên. Sau khi tìm được con đường cứu nước, Người đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do độc lập cho Tổ quốc. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ địa, các khu giải phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng Tám 1945, mặc dù tình hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập Đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời đảm bảo tính hợp pháp của chính quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân Đồng minh đổ bộ vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào sự “khai sinh” của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh kỳ diệu của mình đã giành được độc lập tự do và kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập ấy. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Chính phủ lâm thời là hợp pháp, hợp công lý. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là: “Phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước dân chủ, hợp pháp, một Nhà nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là ý chí chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp hành pháp luật và Đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng việc đưa Hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống. Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thể hiện tư tưởng này của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu Nhà nước ta phải là nhà nước có bộ máy hành chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ phải được thể chế trong hiến pháp, trong các bộ luật và đòi hỏi công dân phải tuân theo. Hồ Chí Minh đòi hỏi tính nghiêm túc không trừ một ai trong thi hành pháp luật, nhất là cán bộ ngành tư pháp càng phải nêu cao tinh thần “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Người nói: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các uỷ ban làng hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ cũng đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ- đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.” Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Việt Bắc. Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người nói: “Không xử phạt là không đúng, song chút gì cũng trừng phạt là không đúng”. “Nhà nước phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Người nói: “ Pháp lụât của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp” Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, "Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân." Nội dung đầu tiên, cơ bản nhất về Nhà nước của dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Dân bầu ra chính quyền Nhà nước ở Trung ương và chính quyền các cấp. “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh vác một phần” và bản thân Người đã hoạt động không mệt mỏi nhằm thức tỉnh toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền, sự thống nhất của dân tộc Việt Nam. Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử...”. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm chủ đất nước. Chính quyền là vấn đề cốt tử của cách mạng, mà chính sách bầu cử, ứng cử là để cho toàn dân giải quyết vấn đề đó, tính lập hiến trong việc hình thành bộ máy nhà nước: tự do hay hạn chế; bình đẳng hay phân biệt; giả hay thật; áp đặt hay tự do lựa chọn; cũng là một chuẩn mực để xem xét bộ máy chính quyền thực sự của dân hay không. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Có như thế dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu cấp bách của tình hình phải chuyển từ Chính phủ lâm thời sang chính thức để đối phó với những âm mưu của kẻ thù định xoá nền độc lập và chính quyền non trẻ của nước ta lúc bấy giờ. Đó thực sự là một ý tưởng tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân. Bác Hồ thǎm hỏi chiến sỹ thi đua Phạm Trung Pồn, bị mù cả hai mắt nhưng đã có nhiều sáng kiến cải tiến nông cụ. Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng một nhà nước của dân không chỉ trong ý tưởng, trong thiết kế, mà bằng hành động thực tiễn của Người. Trước vận mệnh của đất nước hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc”, để đoàn kết dân tộc và giữ vững chính quyền nhân dân non trẻ, Người đã đề nghị bổ sung 70 ghế đại biểu quốc hội cho Việt Nam Quốc dân Đảng. Đây là một sáng kiến kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm tập hợp lực lượng, lôi kéo các đảng phái, các tầng lớp xã hội tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Được sự uỷ nhiệm của Quốc hội, trong “Lời tuyên bố sau khi thành lập Chính phủ mới”, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái...Kết quả là, có những vị có tài năng nhận lời tham gia Chính phủ: như Cụ Huỳnh, vì tuổi già sức yếu mà cố từ, nhưng vì tôi lấy đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ cũng gắng ở lại. Lại có nhiều vị đứng ngoài sẵn sàng ra sức giúp đỡ: như Cụ Bùi Bằng Đoàn, linh mục Phạm Bá Trực...Dầu ở trong hay ngoài Chính phủ, ai nấy đều hứa sẽ cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân... Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam. Bắc tham gia” Quyền bính của nhân dân cũng được thể hiện rõ trong việc nhân dân có quyền kiểm tra, kiểm soát và bãi miễn đại biểu. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”. Để nhân dân có thể kiểm tra, kiểm soát , Người yêu cầu cơ quan nhà nước phải có cách tổ chức thuận tiện cho nhân dân thực hiện quyền của mình, tránh “cửa quyền”, hách dịch, chống “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “đè đầu cưỡi cổ,ức hiếp dân”, thực hiện quyền khiếu tố của nhân dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Người thường nhắc nhở: Nạn lãng phí, tham ô, là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà nước gây ra...Vì vậy, cần có cơ quan thanh tra nhà nước, chẳng những chống lãng phí tham ô mà còn chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp đỡ các cơ quan nhà nước cải tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà nước. “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại. Ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn.” Người còn nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người là quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân phì gia...Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc chính phủ.” Hồ Chí Minh yêu cầu: Để nhà nước thực sự là của dân thì cán bộ nhà nước phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lấy ý kiến tín nhiệm hay không tín nhiệm, khen, chê rõ ràng. Vì theo Người: kiểm soát, giám sát là một nguyên tắc để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân: nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình. Những người trong bộ máy các cấp phải là “công bộc của dân, do dân cử ra trực tiếp hay gián tiếp thực thi quyền lực của dân, là người phục vụ nhân dân”. bản thân Hồ Chí Minh tự nhận là “Người lính già vâng mệnh lệnh của quốc dân ra mặt trận”. Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do dân. Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra Nhà nước mà còn phải tham gia vào công việc quản lý nhà nước, Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ...". “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.” Bao nhiêu nhiệm vụ, quyền hạn đều của dân, xây dựng đất nước trách nhiệm của dân. Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I ngày 18 tháng 12 năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người nói: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương. Dân bầu ra người đại diện cho mình và sử dụng cơ quan quyền lực thông qua người đại diện đó, đồng thời dân có quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ không làm tròn sự uỷ thác. Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra nhân dân giải quyết, nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội đồng ý (điều 22 Hiến pháp 1946). Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan tự quản của dân, do dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.” Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt... Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo quyền dân chủ rộng rãi và có hiệu quả trong đời sống xã hội. Đây là tư tưởng nhất quán, nổi bật trong đời hoạt động của Người từ những năm bôn ba ở nước ngoài cho đến khi trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam, của Nhà nước Việt Nam. Chỉ sau hơn một tháng thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong thư “Gửi các Uỷ ban nhân dân, các bộ, tỉnh, huyện và làng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.” Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về một con người suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người yêu cầu mọi quy định của pháp luật đều phải vì dân, cán bộ từ Trung ương đến địa phương phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phải thực sự gương mẫu, thực sự trong sạch, phải lo trước thiên hạ và hưởng sau thiên hạ, thực hành tiết kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Sau khi Nhà nước Việt Nam mới ra đời (1945), Người đã nhìn thấy trước một loạt các vấn đề phức tạp xuất hiện ở một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất đình trệ. Trong hoàn cảnh đó, dễ nảy sinh những tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đề phòng tệ nạn đó, Người nêu bật những đòi hỏi trên đối với người cán bộ là có ý nghĩa rất thiết thực. Bản thân Hồ Chí Minh là con người không có tham vọng quyền lực, chức vụ của Người đảm nhiệm là trọng trách mà Người phải gánh vác trước nhân dân, đất nước mà thôi...”Tôi tuyệt nhiên không muốn công danh phú quý chút nào, bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải cố gắng làm...Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì đến vòng danh lợi.” Đây quả là điều tuyệt vời trong đạo đức Hồ Chí Minh. Người nhận thấy rõ rằng những kẻ quá ham muốn quyền lực sẽ dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc đoán, sa vào chủ nghĩa cá nhân, làm cho nhà nước biến dạng. Nhà nước kiểu mới không cho phép như vậy. Nói chuyện với đồng bào trước lúc sang Pháp đàm phán với Chính phủ Pháp về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh bày tỏ: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Khi tôi ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội, xông pha nơi hiểm nghèo vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, giành được chính quyền, uỷ thác tôi gánh vác việc của Chính phủ, tôi lo lắng ngày đêm, nhẫn nhục, cố gắng là vì mục đích đó.“ Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc sau tháng 8 năm 1945, Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: 1.”Làm cho dân có ăn 2. Làm cho dân có mặc 3. Làm cho dân có chỗ ở 4. Làm cho dân có học hành” Người còn nói: “Chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.” Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Trong lời dạy của Người thể hiện rõ sự kế thừa có sáng tạo các tư tưởng của những bậc tiền bối: Dân là gốc, là quý và phải đối đãi dân như thế nào thì dân mới kính mến, yêu nhà cầm quyền. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân còn là nhà nước sống trong lòng dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi ích của Nhà nước gắn chặt với lợi ích của quần chúng nhân dân. Như vậy, Nhà nước ta do dân xây dựng, phải là Nhà nước hoạt động vì lợi ích của con người. Con người ở đây trước hết là nhân dân lao động nói chung, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và các giai tầng xã hội khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp ấy là lực lượng của toàn dân tộc, là những người chung lưng đấu cật cho sự nghiệp chấn hưng dân tộc, gắn vận mệnh của mình với vận mệnh dân tộc. Vì dân, vì con người, vì sự nghiệp thúc đẩy tiến bộ của con người, của dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để có được một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở phải xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh với những bệnh tật như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền và lợi ích của nhân dân lao động. Nhà nước vì dân còn là Nhà nước có trách nhiệm trước dân. Nhiều lần Người căn dặn: “bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân, nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.” Trong lịch sử, tư tưởng Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân và vì dân được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung, với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học, nhân đạo về bản chất nhà nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu như nước “lấy dân làm gốc” là tư tưởng chính trị truyền thống thì đến Hồ Chí Minh, tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự nhiên: "Dân là gốc nước" đúng như mấy câu thơ của Người: “Gốc có vững thì cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và lấy tư tưởng về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho chúng ta trong công cuộc xây dựng đó. Với những kết quả đạt được trong qúa trình đổi mới, cũng như những khó khăn, tồn tại quả hơn 18 năm đổi mới, hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá trình đổi mới đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện nhà nướ chiện nay là công việc còn khó khăn cả về lý thuyết và thực tiễn. Điều đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần có những bước đi và giải pháp vừa khẩn trương, vừa vững chắc trong hiện thực, tiếp tục cải cách triệt để hơn nữa tổ chức và hoạt động của Nhà nước để đáp ứng được tình hình mới của đất nước trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập hiện nay. PGS.TS Lê Doãn Tá tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Hồ Chí Minh - người khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hoà, trực tiếp đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước đi lên con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của các bậc tiền bối như “nước lấy dân làm gốc” hay “người đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định” (Nguyễn Trãi) trong truyền thống dân tộc; đã xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về Nhà nước pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và lý luận đó vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của Người cũng là quá trình tìm kiếm một nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam, bởi lẽ trong mọi cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước luôn luôn là vấn đề cơ bản. Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của các bậc tiền bối như “nước lấy dân làm gốc” hay “người đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định” (Nguyễn Trãi) trong truyền thống dân tộc; đã xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về Nhà nước pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và lý luận đó vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của Người cũng là quá trình tìm kiếm một nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam, bởi lẽ trong mọi cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước luôn luôn là vấn đề cơ bản. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh sống trong cảnh nước mất nhà tan, từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ hà khắc, bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Khi bôn ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước phương Tây, ý tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh. Bởi vậy khi có điều kiện thể hiện ý tưởng ấy của mình, Người đã chớp thời cơ, đấu tranh để có được trước hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật. Năm 1919, Hội nghị Vécxây họp sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Người đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên quan tới vấn đề pháp quyền. Cụ thể là: Điều 1: Yêu cầu ân xá đối với tất cả chính trị phạm. Điều 2: Đòi cải cách nền công lý ở Đông Dương nhằm đảm bảo cho người bản xứ được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu. Người nói: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu”. Điều 7: Đòi thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Điều 8: Đòi có đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ cử ra tại Nghị viện Pháp. Và Người đã chuyển bản yêu sách trên thành “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi cho mọi người, trong đó có hai câu: “Bảy xin hiến pháp ban hành Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” Sau khi tìm được con đường cứu nước, Người đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do độc lập cho Tổ quốc. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ địa, các khu giải phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng Tám 1945, mặc dù tình hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập Đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời đảm bảo tính hợp pháp của chính quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân Đồng minh đổ bộ vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào sự “khai sinh” của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh kỳ diệu của mình đã giành được độc lập tự do và kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập ấy. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Chính phủ lâm thời là hợp pháp, hợp công lý. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là: “Phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước dân chủ, hợp pháp, một Nhà nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là ý chí chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp hành pháp luật và Đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng việc đưa Hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống. Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thể hiện tư tưởng này của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu Nhà nước ta phải là nhà nước có bộ máy hành chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ phải được thể chế trong hiến pháp, trong các bộ luật và đòi hỏi công dân phải tuân theo. Hồ Chí Minh đòi hỏi tính nghiêm túc không trừ một ai trong thi hành pháp luật, nhất là cán bộ ngành tư pháp càng phải nêu cao tinh thần “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Người nói: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các uỷ ban làng hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ cũng đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ- đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.” Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Việt Bắc. Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người nói: “Không xử phạt là không đúng, song chút gì cũng trừng phạt là không đúng”. “Nhà nước phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Người nói: “ Pháp lụât của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp” Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, "Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân." Nội dung đầu tiên, cơ bản nhất về Nhà nước của dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Dân bầu ra chính quyền Nhà nước ở Trung ương và chính quyền các cấp. “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh vác một phần” và bản thân Người đã hoạt động không mệt mỏi nhằm thức tỉnh toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền, sự thống nhất của dân tộc Việt Nam. Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử...”. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm chủ đất nước. Chính quyền là vấn đề cốt tử của cách mạng, mà chính sách bầu cử, ứng cử là để cho toàn dân giải quyết vấn đề đó, tính lập hiến trong việc hình thành bộ máy nhà nước: tự do hay hạn chế; bình đẳng hay phân biệt; giả hay thật; áp đặt hay tự do lựa chọn; cũng là một chuẩn mực để xem xét bộ máy chính quyền thực sự của dân hay không. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Có như thế dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu cấp bách của tình hình phải chuyển từ Chính phủ lâm thời sang chính thức để đối phó với những âm mưu của kẻ thù định xoá nền độc lập và chính quyền non trẻ của nước ta lúc bấy giờ. Đó thực sự là một ý tưởng tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân. Bác Hồ thǎm hỏi chiến sỹ thi đua Phạm Trung Pồn, bị mù cả hai mắt nhưng đã có nhiều sáng kiến cải tiến nông cụ. Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng một nhà nước của dân không chỉ trong ý tưởng, trong thiết kế, mà bằng hành động thực tiễn của Người. Trước vận mệnh của đất nước hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc”, để đoàn kết dân tộc và giữ vững chính quyền nhân dân non trẻ, Người đã đề nghị bổ sung 70 ghế đại biểu quốc hội cho Việt Nam Quốc dân Đảng. Đây là một sáng kiến kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm tập hợp lực lượng, lôi kéo các đảng phái, các tầng lớp xã hội tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Được sự uỷ nhiệm của Quốc hội, trong “Lời tuyên bố sau khi thành lập Chính phủ mới”, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái...Kết quả là, có những vị có tài năng nhận lời tham gia Chính phủ: như Cụ Huỳnh, vì tuổi già sức yếu mà cố từ, nhưng vì tôi lấy đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ cũng gắng ở lại. Lại có nhiều vị đứng ngoài sẵn sàng ra sức giúp đỡ: như Cụ Bùi Bằng Đoàn, linh mục Phạm Bá Trực...Dầu ở trong hay ngoài Chính phủ, ai nấy đều hứa sẽ cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân... Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam. Bắc tham gia” Quyền bính của nhân dân cũng được thể hiện rõ trong việc nhân dân có quyền kiểm tra, kiểm soát và bãi miễn đại biểu. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”. Để nhân dân có thể kiểm tra, kiểm soát , Người yêu cầu cơ quan nhà nước phải có cách tổ chức thuận tiện cho nhân dân thực hiện quyền của mình, tránh “cửa quyền”, hách dịch, chống “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “đè đầu cưỡi cổ,ức hiếp dân”, thực hiện quyền khiếu tố của nhân dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Người thường nhắc nhở: Nạn lãng phí, tham ô, là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà nước gây ra...Vì vậy, cần có cơ quan thanh tra nhà nước, chẳng những chống lãng phí tham ô mà còn chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp đỡ các cơ quan nhà nước cải tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà nước. “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại. Ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn.” Người còn nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người là quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân phì gia...Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc chính phủ.” Hồ Chí Minh yêu cầu: Để nhà nước thực sự là của dân thì cán bộ nhà nước phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lấy ý kiến tín nhiệm hay không tín nhiệm, khen, chê rõ ràng. Vì theo Người: kiểm soát, giám sát là một nguyên tắc để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân: nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình. Những người trong bộ máy các cấp phải là “công bộc của dân, do dân cử ra trực tiếp hay gián tiếp thực thi quyền lực của dân, là người phục vụ nhân dân”. bản thân Hồ Chí Minh tự nhận là “Người lính già vâng mệnh lệnh của quốc dân ra mặt trận”. Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do dân. Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra Nhà nước mà còn phải tham gia vào công việc quản lý nhà nước, Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ...". “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.” Bao nhiêu nhiệm vụ, quyền hạn đều của dân, xây dựng đất nước trách nhiệm của dân. Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I ngày 18 tháng 12 năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người nói: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương. Dân bầu ra người đại diện cho mình và sử dụng cơ quan quyền lực thông qua người đại diện đó, đồng thời dân có quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ không làm tròn sự uỷ thác. Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra nhân dân giải quyết, nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội đồng ý (điều 22 Hiến pháp 1946). Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan tự quản của dân, do dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương. Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.” Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt... Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo quyền dân chủ rộng rãi và có hiệu quả trong đời sống xã hội. Đây là tư tưởng nhất quán, nổi bật trong đời hoạt động của Người từ những năm bôn ba ở nước ngoài cho đến khi trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam, của Nhà nước Việt Nam. Chỉ sau hơn một tháng thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong thư “Gửi các Uỷ ban nhân dân, các bộ, tỉnh, huyện và làng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.” Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về một con người suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người yêu cầu mọi quy định của pháp luật đều phải vì dân, cán bộ từ Trung ương đến địa phương phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phải thực sự gương mẫu, thực sự trong sạch, phải lo trước thiên hạ và hưởng sau thiên hạ, thực hành tiết kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Sau khi Nhà nước Việt Nam mới ra đời (1945), Người đã nhìn thấy trước một loạt các vấn đề phức tạp xuất hiện ở một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất đình trệ. Trong hoàn cảnh đó, dễ nảy sinh những tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đề phòng tệ nạn đó, Người nêu bật những đòi hỏi trên đối với người cán bộ là có ý nghĩa rất thiết thực. Bản thân Hồ Chí Minh là con người không có tham vọng quyền lực, chức vụ của Người đảm nhiệm là trọng trách mà Người phải gánh vác trước nhân dân, đất nước mà thôi...”Tôi tuyệt nhiên không muốn công danh phú quý chút nào, bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải cố gắng làm...Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì đến vòng danh lợi.” Đây quả là điều tuyệt vời trong đạo đức Hồ Chí Minh. Người nhận thấy rõ rằng những kẻ quá ham muốn quyền lực sẽ dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc đoán, sa vào chủ nghĩa cá nhân, làm cho nhà nước biến dạng. Nhà nước kiểu mới không cho phép như vậy. Nói chuyện với đồng bào trước lúc sang Pháp đàm phán với Chính phủ Pháp về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh bày tỏ: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Khi tôi ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội, xông pha nơi hiểm nghèo vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, giành được chính quyền, uỷ thác tôi gánh vác việc của Chính phủ, tôi lo lắng ngày đêm, nhẫn nhục, cố gắng là vì mục đích đó.“ Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc sau tháng 8 năm 1945, Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: 1.”Làm cho dân có ăn 2. Làm cho dân có mặc 3. Làm cho dân có chỗ ở 4. Làm cho dân có học hành” Người còn nói: “Chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.” Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Trong lời dạy của Người thể hiện rõ sự kế thừa có sáng tạo các tư tưởng của những bậc tiền bối: Dân là gốc, là quý và phải đối đãi dân như thế nào thì dân mới kính mến, yêu nhà cầm quyền. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân còn là nhà nước sống trong lòng dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi ích của Nhà nước gắn chặt với lợi ích của quần chúng nhân dân. Như vậy, Nhà nước ta do dân xây dựng, phải là Nhà nước hoạt động vì lợi ích của con người. Con người ở đây trước hết là nhân dân lao động nói chung, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và các giai tầng xã hội khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp ấy là lực lượng của toàn dân tộc, là những người chung lưng đấu cật cho sự nghiệp chấn hưng dân tộc, gắn vận mệnh của mình với vận mệnh dân tộc. Vì dân, vì con người, vì sự nghiệp thúc đẩy tiến bộ của con người, của dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để có được một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở phải xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh với những bệnh tật như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền và lợi ích của nhân dân lao động. Nhà nước vì dân còn là Nhà nước có trách nhiệm trước dân. Nhiều lần Người căn dặn: “bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân, nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.” Trong lịch sử, tư tưởng Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân và vì dân được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung, với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học, nhân đạo về bản chất nhà nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người nói: “Không xử phạt là không đúng, song chút gì cũng trừng phạt là không đúng”. “Nhà nước phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, "Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân." Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử...”. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm chủ đất nước. Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử...”. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm chủ đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề cương tư tưởng Hồ Chí Minh.doc
Tài liệu liên quan