Đề cương ôn tập môn Luật Hành chính

Câu 1. Khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật HC VN? TRẢ LỜI: 1. Khái niệm: Luật HC là một ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta, bao gồm các QPPL điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý HC của các cơ quan HC NN, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan NN xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động quản lý HC đối với các vấn đề do pháp luật qui định. 2. Đối tượng điều chỉnh: Đối tượng điều chỉnh của Luật HC là các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý NN. Những quan hệ này gọi là quan hệ quản lý HC NN hay quan hệ chấp hành – điều hành. Nội dung của chúng thể hiện: - Hoạt động quản lý các công tác xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh chính trị trong cả nước, ở từng địa phương hay từng ngành. - Hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan NN trong quá trình thực hiện pháp luật của cơ quan đó. - Xử lý hành vi vi phạm trật tự quản lý HC NN. - Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc và hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan NN . các quan hệ quan hệ quản lý được QPPL HC điều chỉnh rất đa dạng, đó là các quan hệ quản lý được hình thành trong quá trình các cơ quan HC NN thực hiện chức năng chấp hành – điều hành trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Chúng bao gồm các quan hệ điển hình: a, Giữa cơ quan HC cấp trên với cơ quan HC cấp dưới theo hệ thống dọc mà đặc biệt là những cơ quan hành chíng cấp trên với cơ quan HC cấp dưới trực tiếp. b, Giữa cơ quan cơ quan HC NN có thẩm quyền chung với cơ quan HC NN có thhẩm quyền chuyên môn cùng cấp. c, Giữa cơ quan HC NN có thẩm quyền chuyên môn cấp trên với cơ quan hành chíng NN có thẩm quyền chung ở cấp dưới nhằm thực hiện chức năng theo pháp luật. d, Giữa những cơ quan HC NN có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp. e, Giữa cơ quan hành chíng NN ở địa phương với các đơn vị trực thuộc trung ương đóng tại địa phương đó. g, Giữa cơ quan HC NN với các đơn vị trực thuộc. h, Giữa cơ quan HC NN với các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh i, Giữa các cơ quan HC NN với các tổ chức xã hội. k, Giữa cơ quan HC NN với công dân và người không quốc tịch, người nước ngoài cư trú, làm ăn sinh sống ở VN. Ngoài ra còn có một số quan hệ không điển hình, giữa cơ quan HC NN với đối tượng quản lý của nó. Bên cạnh những quan hệ quản lý kể trên, Luật HC còn điều chỉnh một số quan hệ quản lý khác như: các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cơ quan NN xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan, nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình; các quan hệ quản lý hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được NN trao quyền thực hiện hoạt động quản lý HC NN trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật qui định.

doc39 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 5645 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương ôn tập môn Luật Hành chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vô ý: Chủ thể của vi phạm HC trong lĩnh vực hải quan chính là chủ thể bị kiểm tra, giám sát hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan. Các đối tượng này nhận thức được nghĩa vụ pháp lý của mình trong lĩnh vực quản lý NN về hải quan nhưng đã cố ý hoặc vô ý không thực hiện các nghĩa vụ đó nên phải bị xử phạt theo quy định của pháp luật. - Hành vi đó không phải là tội phạm. - hành vi đó được pháp luật quy định phải bị xử phạt HC. Câu 23. Vấn đề cải cách thủ tục HC trong lĩnh vực hải quan và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý NN về hải quan trong giai đoạn hiện nay? TRẢ LỜI:            Nhằm thực hiện mục tiêu: tạo thuận lợi cho thương mại, phát triển đầu tư trong nước, nước ngoài và phát triển du lịch, bảo vệ cộng đồng, an ninh quốc gia, hỗ trợ VN thực hiện các cam kết của Tổ chức thương mại thế giới, trong đó có mục tiêu tạo thuận lợi và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, vấn đề cải cách thủ tục HC trong lĩnh vực hải quan được chính phủ ta hết sức quan tâm.            Quá trình triển khai Chương trình cải cách, hiện đại hóa hải quan mà ngành Hải quan thực hiện thời gian qua đã đạt được một số kết quả: quản lý rủi ro đã bước đầu được triển khai áp dụng trong hoạt động hải quan; thủ tục hải quan đã đơn giản, thuận lợi hơn, bước đầu được chuẩn hóa theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, được cộng đồng doanh nghiệp và dư luận xã hội đồng tình ủng hộ; nhận thức của cán bộ, công chức hải quan về cải cách, hiện đại hóa, cải cách thủ tục HC tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đã được nâng lên.            Tuy nhiên, so với yêu cầu và mục tiêu đề ra, nhìn chung công tác cải cách, hiện đại hóa hải quan hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, tiến độ triển khai còn chậm, chưa đồng bộ; một bộ phận cán bộ, công chức hải quan không tích cực ủng hộ hoặc tỏ thái độ hoài nghi về mục tiêu của chương trình cải cách, hiện đại hóa hải quan; tình trạng cán bộ, công chức hải quan gây phiền hà, sách nhiễu cho doanh nghiệp hoặc tiêu cực, cố tình làm trái quy định để vụ lợi khi thực thi công vụ vẫn còn. Điều đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả triển khai Chương trình cải cách, hiện đại hóa hải quan và mục tiêu tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.            Để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư và du lịch, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế VN, Bộ Tài chính đã đề ra một số gải pháp nâng cao hiệu quả quản lý NN về hải quan trong giai đoạn hiện nay: 1- Đẩy nhanh việc thực hiện Kế hoạch cải cách, hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2008 - 2010 ban hành kèm theo Quyết định số 456/QĐ-BTC ngày 14/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và tiến độ thực hiện Dự án “Hiện đại hóa Hải quan” Lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan cần tiếp tục quán triệt nghiêm túc và sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, công chức hải quan về mục tiêu, yêu cầu và kế hoạch triển khai các chương trình cải cách, hiện đại hóa Hải quan.            2- Khẩn trương sơ kết việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử giai đoạn 2 và mở rộng trong hoạt động hải quan, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất, nhập khẩu.            3- Về cải cách thủ tục hải quan: Rà soát, sửa đổi và đơn giản hóa các thủ tục có liên quan đến hoạt động xuất, nhập khẩu trong phạm vi quản lý của Bộ Tài chính. Đồng thời tập trung rà soát, sửa đổi để thống nhất thủ tục hải quan áp dụng cho phương thức thủ công truyền thống và giao dịch điện tử. Triển khai ngay việc chuẩn bị cho xây dựng Nghị định quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan trên cơ sở kết hợp việc quy định về thủ tục hải quan điện tử với sửa đổi Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan.            4- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại trong các lĩnh vực: Phân tích, phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, xác định trị giá, chống gian lận về số lượng, chủng loại, ưu đãi đầu tư về thuế, trong quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu,… nhằm chống thất thu thuế, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu không thống nhất, xác định giá, thuế suất, ưu đãi thuế,… không đúng quy định.            5- Sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện trong ngành Hải quan Chỉ thị số 32/2006/CT-TTg ngày 07/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương HC trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp.            Tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh, quyết liệt thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật HC, phòng chống các biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức Hải quan.            Thủ trưởng các cấp trong ngành Hải quan phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ và hoạt động nghiệp vụ tại các đơn vị hải quan cơ sở, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động tự kiểm tra, tăng cường kiểm tra đột xuất. Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh đối với các trường hợp gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong thi hành công vụ, xử lý nghiêm khắc trách nhiệm người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong đơn vị hoặc trong lĩnh vực mình phụ trách.            6- Cùng với việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả thiết thực cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ngành Hải quan phải đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục truyền thống, giáo dục ý thức nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm với công tác tài chính, công tác hải quan. Câu 24. Quản lý NN về văn hoá? TRẢ LỜI: 1. Khái niệm và phương thức quản lý NN về văn hoá: Quản lý NN về văn hoá là những hoạt động của bộ máy NN nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hoá VN. NN tiến hành quản lý văn hoá bằng chính sách và pháp luật về văn hoá. 2. Một số nội dung cơ bản của quản lý NN về văn hoá: Có thể chia hoạt động quản lý NN về văn hoá thành các mảng cơ bản sau: - Quản lý NN về văn hoá nghệ thuật. - Quản lý NN về văn hoá – thông tin. - Quản lý NN về văn hoá – xã hội. - Quản lý NN về hoạt động bảo tồn, bảo tàng, phát huy giá trị các di sản văn hoá. a. Quản lý NN về văn hoá nghệ thuật: NN tạo điều kiện để công dân có quyền bình đẳng trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và sáng tạo nghệ thuật. NN quy định quyền và nghĩa vụ của những người lao động nghệ thuật. ban hành các chế độ thù lao nghệ thuật hợp lý. NN bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm của cá nhân hoặc tổ chức đã công bố hoặc chưa công bố. NN thực hiện chính sách bảo trợ vật chất ở mức độ khác nhau cho những loại hình văn hoá nghệ thuật không thể tự tồn tại và phát triển trong quan hệ kinh tế thị trường. NN đặc biệt quan tâm đối với loại hình nghệ thuật điện ảnh là loại hình nghệ thuật tổng hợp có ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng, tình cảm, nâng cao dân trí và trình độ thẩm mĩ góp phần đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của nhân dân. NN khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo trong các loại hình nghệ thuật, mạnh dạn trong các hình thức biểu hiện, trân trọng nhân cách, tài năng của văn nghệ sĩ. Các cấp quản lý khắc phục, ngăn ngừa sự can thiệp thô bạo vào các vấn đề văn hoá nghệ thuật. b. Quản lý NN về văn hoá - thông tin: NN thực hiện hoạt động quản lý văn hoá thông tin nhằm phát huy vai trò của công tác thông tin trong sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. NN đã có nhiều biện pháp nhằm phát triển công tác thông tin như: - Tăng cường và hiện đại hoá công tác thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng, nội dung phù hợp với các loại đối tượng, các dân tộc và mở rộng thông tin tới các vùng xa xôi hẻo lánh; tiếp tục phủ sóng phát thanh truyền hình trên phạm vi cả nước. - Khôi phục và phát triển hệ thống thư viện từ trung ương đến cơ sở. - Củng cố sắp xếp lại tổ chức và hoạt động của ngành văn hó – thông tin, củng cố các hoạt động báo chí, xuất bản, in ấn, phát hành, phổ biến rộng rãi những tác phẩm có giá trị về tư tưởng, nghệ thuật. - Coi trọng công tác tuyên truyền đối ngoại, mở rộng giao lưu quốc tế trong lĩnh vực văn hoá – thông tin. - Tăng cường hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về văn hoá – thông tin. Trong quản lý NN về văn hoá – thông tin, một số nội dung được đặc biệt chú ý là công tác quản lý về báo chí, xuất bản, thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về văn hoá – thông tin, thực hiện hợp tác quốc tế về thông tin. c. Quản lý NN về văn hoá – xã hội: Trong quản lý văn hoá – xã hội, chủ thể mquản lý cần: - Nhận thức đúng đắn những vấn đề cơ bản của lối sống, nếp sống gắn liền với tình hình diễn biến trên phạm vi thế giới và trong nước. - Do lối sống gắn liền với phương thức sản xuất nên điều căn bản để xây dựng một lối sống văn minh, hiện đại là làm thế nào để nâng cao năng suất lao động. con người có thể thoả mãn những nhu cầu của mình bằng lao động chân chính. - Cần phát huy tính tích cực chính trị - xã hội trong mỗi con người để mỗi người đều có ý thức về một lối sống đẹp, sống đạo đức. - Khôi phục những thuần phong, mĩ tục và xây dựng nếp sống mới. Cần phân biệt những lễ giáo phong kiến với những nét truyền thống đẹp về lối sống đạo đức. d. Quản lý NN về hoạt động bảo tồn, bảo tàng, phát guy giá trị các di sản văn hoá: NN thống nhất quản lý các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. Nội dung quản lý gồm: - Kiểm kệ, đăng ký, công nhận và xác định các loại hình di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. - Quy định chế độ bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh và tổ chức thực hiện các chế độ đó. - Thanh tra việc thu hành những quy định của pháp luật về việc bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. Câu 25. Quản lý NN về hộ tịch, hộ khẩu? TRẢ LỜI: 1. Quản lý HC NN về hộ tịch: Quản lý HC NN về hộ tịch là một loại quản lý NN cụ thể trong lĩnh vực hành pháp do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện nhằm tác động, điều chỉnh, giải quyết các vấn đề về hộ tịch theo quy định của pháp luật. Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì đăng ký hộ tịch là việc cơ quan NN có thẩm quyền: - Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; nhận ch, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm; ngày tháng năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nhhận nuôi con nuôi. - Căn cứ vào quyết định cơ quan NN có thẩm quyền ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ hôn trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc những sự kiện khác do pháp luật quy định. Quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các cơ quan NN có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình. Chính phủ thống nhất quản lý hộ tịch trong phạm vi cả nước. 2. Đăng ký và quản lý hộ khẩu: Đăng ký và quản lý hộ khẩu là một hoạt động quản lý NN rất quan trọng liên quan mật thiết đến quyền tự do cư trú của công dân và sự điều chỉnh của NN về dân số. Một trong những quyền cơ bản của công dân là quyền tự định đoạt nơi cư trú của mình. Hiến pháp nước CHXHCNVN quy định: công dân có quyền đi lại và tự do cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. Nơi cư trú được xác định theo quy định của pháp luật. Đăng ký và quản lý hộ khẩu là biện pháp quản lý HC của NN nhằm xác định việc cư trú của công dân, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, tăng cường quản lý xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật nước ta quy định: công dân nước CHXHCNVN có quyền và nghĩa vụ thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ khẩu với cơ quan công an theo quy định. Mọi công dân phải đăng ký hộ khẩu ở nơi cư trú gọi là hộ khẩu thường trú. Khi chuyển đến cư trú ở nơi mới phải thực hiện đầy đủ chế độ đăng ký, quản lý hộ khẩu lại theo quy định, trừ một số đối tượng bị hạn chế đăng ký hộ khẩu là những người đang trong thời gian thi hành bản án của toà án và những người đang phải thi hành quyết định cư trú bắt buộc, chịu sự quản lý HC của chính quyền địa phương thì chưa được chuyển đến đăng ký hộ khẩu thường trú nơi khác. Những người đang thi hành bản án, quyết định của toà án hoặc quyết định của cơ quan NN có thẩm quyền cấm cư trú thì không được đăng ký hộ khẩu thường trú ở khu vực bị cấm. Những người có quan hệ về gia đình, cùng ở chung một nhà thì đăng ký thành một hộ gia đình, mỗi hộ gia đình phải có một người đứng tên chủ hộ. Những người đang làm việc trong các cơ quan NN, các tổ chức kinh tế - xã hội sống độc thân tại nhà ở tập thể cơ quan thì đăng ký theo nhân khẩu tập thể và từng người phải trực tiếp đăng ký hộ khẩu vối cơ quan công an. Đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, công nhân, nhân viên của quân đội nhân dân và Công an nhân dân ở trong doanh trại hoặc nhà tập thể của quân đội, công an thì đăng ký, quản lý hộ khẩu theo quy định riêng của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Những công dân đang trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự thì không được đăng ký hộ khẩu gia đình. Chính phủ giao Bộ Công an phụ trách việc đăng ký, quản lý hộ khẩu. Câu 26. Quản lý NN trong lĩnh vực hỗ trợ tư pháp? TRẢ LỜI: Quản lý HC NN trong các lĩnh vực hỗ trợ tư pháp có vai trò rất quan trọng thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực thi quyền lực tập trung, thống nhất của NN CHXHCNVN. Các lĩnh vực hỗ trợ tư pháp gồm: Công chứng, chứng thực, luật sư, tư vấn pháp luật và thi hành án dân sự. 1. Quản lý NN trong lĩnh vực công chứng, chứng thực: Quản lý HC NN về công chứng, chứng thực là hoạt động chấp hành, điều hành của các chủ thể quản lý HC NN trên cơ sở quy định của pháp luật đối với tổ chức và hoạt động công chứng, chứng thực. - Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác và thực hiện các việc khác theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực. - Chứng thực là việc UBND cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực. Chính phủ thống nhất quản lý công chứng, chứng thực trong phạm vi cả nước. Bộ tư pháp giúp chính phủ thực hiện quản lý thống nhất về công chứng, chứng thực trong phạm vi cả nước. Bộ ngoại giao thực hiện quản lý NN về công chứng của cơ quan đại diện VN ở nước ngoài. UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý NN về công chứng, chứng thực trong địa phương mình. Với nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Sở tư pháp giúp UBND cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. UBND cấp huyện thực hiện quản lý NN về công chứng, chứng thực trong địa phương mình. Với nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Phòng tư pháp giúp UBND cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. 2. Quản lý HC NN về tổ chức hoạt động của luật sư: Theo pháp luật hiện hành: Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Tổ chức luật sư ở nước ta hiện nay là các Đoàn luật sư được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để giúp công dân và các tổ chức về mặt pháp lý. Đoàn luật sư được NN khuyến khích, giúp đỡ và chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của NN theo quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động luật sư. Chính phủ quản lý thống nhất tổ chức và hoạt động luật sư trong phạm vi cả nước. Bộ tư pháp hướng dẫn thủ tục thành lập đoàn luật sư; kiểm tra việc thực hiện quy chế của các Đoàn luật sư và luật sư; hướng dẫn bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho các luật sư; tổng kết, phổ biến kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động luật sư. HĐND, UBND cấp tỉnh phối hợp với uỷ ban mặt trận tổ quốc thường xuyên giám sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của Đoàn luật sư ở địa phương mình, có những kiến nghị cần thiết và kịp thời với ban chủ nhiệm Đoàn luật sư. Các cơ quan khác của NN, các tổ chức xã hội có nhiệm vụ giúp đỡ Đoàn luật sư và các luật sư trong khi thực hiện nhiệm vụ. Về tổ chức, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thành lập một đoàn luật sư. 3. Quản lý HC NN về thi hành án dân sự: Quản lý HC NN về thi hành án dân sự là hoạt động chấp hành điều hành của các chủ thể quản lý HC NN trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Chính phủ thống nhất quản lý NN về công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước. Bộ tư pháp giúp chính phủ quản lý NN về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự. UBND cấp tỉnh, huyện thực hiện việc quản lý NN về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định của Chính phủ. Các cơ quan tư pháp địa phương giúp UBND cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý NN về công tác thi hành án dân sự. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ tư pháp giúp chính phủ quản lý NN về công tác thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự và tổ chức các cơ quan thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự. Câu 27. Quản lý HC NN trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của luật sư? TRẢ LỜI: Theo pháp luật hiện hành: Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Tổ chức luật sư ở nước ta hiện nay là các Đoàn luật sư được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để giúp công dân và các tổ chức về mặt pháp lý. Đoàn luật sư được NN khuyến khích, giúp đỡ và chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của NN theo quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động luật sư. Chính phủ quản lý thống nhất tổ chức và hoạt động luật sư trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp hướng dẫn thủ tục thành lập đoàn luật sư; kiểm tra việc thực hiện quy chế của các Đoàn luật sư và luật sư; hướng dẫn bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho các luật sư; tổng kết, phổ biến kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động luật sư. Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền đình chỉ thi hành và đề nghị sửa đổi những quy định của Đoàn luật sư trái với quy định của pháp luật về luật sư. HĐND, UBND cấp tỉnh phối hợp với uỷ ban mặt trận tổ quốc thường xuyên giám sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của Đoàn luật sư ở địa phương mình, có những kiến nghị cần thiết và kịp thời với ban chủ nhiệm Đoàn luật sư. Các cơ quan khác của NN, các tổ chức xã hội có nhiệm vụ giúp đỡ Đoàn luật sư và các luật sư trong khi thực hiện nhiệm vụ. UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ giúp đỡ cơ sở vật chất cho Đoàn luật sư khi ,ới thành lập và tạo điều kiện thuận lợi khác cho Đoàn luật sư và các luật sư hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thủ tục thành lập đoàn luật sư: theo quy định của pháp luật. Về tổ chức Đoàn luật sư và các luật sư: Tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thành lập một đoàn luật sư. Đối với những tỉnh địa bàn rộng, số lượng luật sư đông có thể đặt thêm chi nhánh giao dịch; mỗi chi nhánh ít nhất phải có từ 2 luật sư trở lên. Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư cử người phụ trách chi nhánh. Mọi hoạt động của chi nhánh chịu sự lãnh đạo thống nhất của Ban chủ nhiệm. Điều kiện gia nhập Đoàn luật sư được quy định tại Điều 11, Pháp lệnh tổ chức luật sư và Điều 6 Quy chế Đoàn luật sư. Con dấu của Đoàn luật sư được quy định tại Điều 2 Quy chế Đoàn luật sư. Dấu có hình dạng và kích thước như con dấu của các tổ chức, đơn vị công tác chuyên môn, sự nghiệp hoạt động độc lập trực thuộc UBND tỉnh. Việc hướng dẫn kiểm tra về tổ chức và hoạt động của Đoàn luật sư: - Bộ tư pháp thực hiện việc hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức và hoạt động của Đoàn luật sư theo Điều 5 Pháp lệnh tổ chức luật sư và Điều 45 Quy chế Đoàn luật sư. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nói trên, Bộ trưởng Bộ tư pháp uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tư pháp tiến hành một số việc sau: + Hướng dẫn thủ tục chuẩn bị thành lập Đoàn luật sư. + Theo dõi tình hình hoạt động của Đoàn luật sư và kiểm tra việc thực hiện Quy chế Đoàn luật sư tại địa phương để báo cáo với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và UBND cùng cấp. + Tiến hành các biện pháp nhằm bảo đảm cho luật sư thực hiện được các quyền của mình trong hoạt động tố tụng. + Phối hợp với các cơ quan chức năng ở địa phương tham mưu cho UBND tỉnh tạo điều kiện giúp đỡ về vật chất cho Đoàn luật sư và thực hiện chế độ, chính sách đối với các luật sư. + Sưu tập và cung cấp các tài liệu cần thiết cho Đoàn luật sư và các luật sư; giúp Bộ tiến hành một số công tác chuẩn bị việc bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho các luật sư. Trong khi thực hiện những công việc do Bộ trưởng uỷ quyền, nếu có ý kiến khác nhau giữa Sở Tư pháp và UB mặt trận tổ quốc tỉnh, thì kịp thời báo cáo với Bộ trưởng Bộ Tư pháp. - Theo quy chế Đoàn luật sư, các Đoàn luật sư có nhiệm vụ định kỳ báo cáo hoạt động của mình lên Bộ Tư pháp, UBND, UB mặt trận tổ quốc tỉnh. Đối với những việc mà Giám đốc Sở Tư pháp được Bộ trưởng uỷ quyền, khi Đoàn luật sư gửi báo cáo lên các cơ quan nói trên cần đồng thời gưỉ cho Giám đốc Sở Tư pháp để theo dõi. Câu 28. Thanh tra và cơ quan thanh tra NN? TRẢ LỜI: 1. Thanh tra: Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý HC NN, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỹ luật trong quản lý NN, thực hiện quyền dân chủ XHCN do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành thông qua hoạt động tự kiểm tra, xem xét, kiểm soát và kiểm tra, xem xét các đối tượng có liên quan trong việc thực hiện pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch được giao nhằm pháp huy nhân tố tích cự, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, bảo vệ lợi ích của NN; các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức góp phần nâng cao hiệu lực quản lý NN. Đặc điểm của thanh tra: - Là một bộ phận của quản lý NN thuộc chức năng thiiết yếu. - Là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật. - Là biện pháp bảo đảm quá trình dân chủ hoá XHCN. - Là hoạt động phong phú, đa dạng, tác động đến nhiều đối tượng khác nhau của các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý HC NN. 2. Cơ quan thanh tra NN: Các tổ chức thanh tra NN có nhiệm vụ, quyền hạn chung sau: 1. Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch NN của các cơ quan, tổ chức và c1 nhân, trừ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, kiểm sát của các cơ quan điều tra, kiểm soát, toà án và việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của cơ quan trọng tài kinh tế. 2. Xem xét, kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết hoặc giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo. 3. Trong phạm vi chức năng của mình, chỉ đạo về tổ chức và hoạt động thanh tra đối với cơ quan, tổ chức hữu quan. 4. Tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về thanh tra. 5. Kiến nghị với cơ quan NN có thẩm quyền những vấn đề về quản lý NN cần sửa đổi, bổ sung, hoặc ban hành các quy định phù hợp với yêu cầu quản lý NN. Hệ thống tổ chức thanh tra: Hệ thống thanh tra ở nước ta được tổ chức theo một trật tự, có mối liên hệ mật thiết với nhau từ trung ương đến địa phương và trong các đơn vị cơ sở: a. Thanh tra NN: Là cơ quan của chính phủ Cơ quan ngang Bộ, có chức năng quản lý NN về công tác thanh tra, thực hiện quyền thanh tra trong cả nước. Thanh tra NN gồm có: Tổng thanh tra NN, các Phó tổng thanh tra NN và các thành viên. b. Tổ chức thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ: Căn cứ vào Pháp lệnh thanh tra, Bộ trưởng sau khi thống nhất với Tổng thanh tra NN ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ. Mỗi Bộ chỉ thành lập một tổ chức Thanh tra Bộ bao gồm các hoạt động thanh tra NN thuộc Bộ; chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng và sự chỉ đạo về công tác tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra NN. Bộ máy của Thanh tra Bộ tuỳ tình hình cụ thể của mỗi Bộ có thể thành lập các phòng hoặc tổ thanh tra theo từng lĩnh vực hoặc thực hiện theo quy chế thủ trưởng trực tiếp với thanh tra viên, chuyên viên. Đối với Bộ quản lý chỉ đạo theo ngành dọc hoặc theo ngành dọc là chủ yếu thì tổ chức và mối quan hệ chỉ đạo của Thanh tra Bộ với tổ chức thanh tra của cơ quan có chức năng quản lý NN trực thuộc Bộ được quy định trong quy chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ. Thanh tra Bộ có chánh thanh tra và Phó chánh thanh tra. Chánh thanh tra chịu trách nhiệm trực tiếp trước Bộ trưởng, đồng thời chịu trách nhiệm trước Tổng thanh tra NN về toàn bộ công tác thanh tra trong phạm vi quản lý NN của Bộ. c. Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Được tổ chức theo quy định tại Điều 16, 17, 18 của Pháp lệnh thanh tra và Điều 3 của Nghị định 244 – HĐBT ngày 30/06/1990.Thanh tra tỉnh có Chánh thanh tra, Phó chánh thanh tra, các cơ quan giúp việc. d. Tổ chức thanh tra sở: Thanh tra sở là tổ chức chuyên trách, có Chánh thanh tra và một phó chánh thanh tra. Chánh thanh tra chịu trách nhiệm trực tiếp trước Giám đốc sở và chánh thanh tra tỉnh về toàn bộ công tác thanh tra trong phạm vi quản lý NN của sở. tổ chức và biên chế của Thanh tra sở do Giám đốc sở đề nghị, Chánh thanh tra tỉnh trình Chủ tịch UBND tỉnh quyết định. e. Tổ chức thanh tra quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh: Mỗi quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải thành lập một tổ chức thanh tra NN chuyên trách, Thanh tra huyện có Chánh thanh tra và một Phó chánh thanh tra. Chánh thanh tra chịu trách nhiệm trực tiếp trước UBND huyện và chánh thanh tra tỉnh về toàn bộ công tác thanh tra trong phạm vi quản lý NN của UBND huyện. g. Thanh tra NN xã, phường, thị trấn: không hình thành tổ chức thanh tra mà chức năng thanh tra NN ở đây do UBND cùng cấp đảm nhận, do Chủ tịch UBND trực tiếp phụ trách, mỗi uỷ viên Ub có trách nhiệm thanh tra theo từng lĩnh vực mình phụ trách. Câu 29. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại? TRẢ LỜI: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định HC, hành vi HC hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. - Chủ thể khiếu nại: Điều 1 Luật khiếu nại, tố cáo quy định: Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định HC hoặc hành vi HC của cơ quan HC NN, của người có thẩm quyền.... cán bộ, công chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật. - Quyền của người khiếu nại: Luật khiếu nại, tố cáo quy định người khiếu nại có các quyền cụ thể như sau: Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại; Được nhận văn bản trả lời về việc thụ lý giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải quyết khiếu nại; Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; Được khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện vụ án HC tại Toà án theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng HC; Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại. - Nghĩa vụ của người khiếu nại: Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết; Trình bày trung thực vụ việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định, giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật. - Quyền của người bị khiếu nại: Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi HC bị khiếu nại; Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại của người giải quyết khiếu nại tiếp theo đối với khiếu nại mà mình đã giải quyết nhưng người khiếu nại tiếp tục khiếu nại. - Nghĩa vụ của người bị khiếu nại: Tiếp nhhận, giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi HC bị khiếu nại; thông báo bằng văn bản về việc thụ lý để giải quyết, gửi quyết định giải quyết cho người khiếu nại và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình; trong trường hợp khiếu nại do cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách niệm chuyển đến thì phải thông báo việc giải quyết hoặc kết quả giải quyết cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo; giải trình về quyết định, hành vi HC bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định, giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi HC trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật. - Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại: Luật khiếu nại, tố cáo quy định rõ thẩm quyền của Chủ tịch UBND các cấp; của thủ trưởng các cơ quan chuyên ngành, chuyên môn ở địa phương; của thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; Của Tổng thanh tra NN và Chánh thanh tra các cấp; của Thủ tướng Chính phủ. Và phân định thhẩm quyền giải quyết khiếu nại. - Thủ tục giải quyết khiếu nại: Luật khiếu nại, tố cáo quy định một số nội dung chủ yếu về thủ tục khiếu nại như sau; Thứ nhất, người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người đã ra quyết định HC hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi HC mà người khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thứ hai, thời hiệu khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định HC hoặc biết được có hành vi HC. Trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khá mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian trở ngại đó không tính. Thứ ba, trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì đơn khiếu nại phải thể hiện những nội dung chính sau: ngày, tháng, năm khiếu nại; họ tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; yêu cầu của người khiếu nại. đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên. Nếu người khiếu nại thông qua người đại diện thì người đại diện phải xuất trình giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và theo thủ tục nêu trên. Câu 30. Tố cáo và giải quyết tố cáo? TRẢ LỜI: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do luật định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tở chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của NN, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. - Người tố cáo có các quyền: Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình; yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức cói thẩm quyền bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù. - Người tố cáo có các nghĩa vụ sau: trình bày trung thực về nội dung tố cáo; nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật. - Người bị tố cáo có các quyền sau: Được thông báo về nội dung tố cáo; đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra; yêu câù cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật. - Nghĩa vụ của người bị tố cáo: Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu câu; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quản do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. - Thẩm quyền giải quyết tố cáo: thẩhm quyền giải quyết tố cáo được quy định trong Luật khiếu nại, tố cáo. - Thủ tục giải quyết tố cáo: Cơ quan NN nhhận được đơn tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau: + Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải thụ lý để giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật khiêú nại, tố cáo. Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền thì chậm nhất trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được phải chuyển đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo và các tài liệu, chứng cứ liên quan cho người có thẩm quyền giải quyết. + Trường hợp đơn tố cáo không ghi rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo nhưng có nội dung rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì thủ trưởng cơ quan NN có thẩm quyền quyết định việc xem xét, xử lý đơn tố cáo đó. + Trường hợp tố cáo hành vi phạm tội thì chuyển cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xử lý theo quy định. + Trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của NN, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân thì cơ quan nhận đơn phải báo ngay cho cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn. Việc tiếp nhận đơn thư hoặc nội dung tố cáo được thực hiện theo các thủ tục sau: + Trường hợp người tố cáo trình bày trực tiếp thì người tiếp nhận phải ghi rõ nội dung tố cáo, họ tên, địa chỉ người tố cáo. Bản ghi nội dung tố cáo phải cho người tố cáo đọc lại, nghe lại và ký xác nhận. + Khi tiếp nhận thông tin, tài liệu do người tố cáo, người bị tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thì người giải quyết tố cáo phải làm giấy biên nhận. Việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình xác minh, giải quyết tố cáo phải được thực hiện theo đúng pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Căn cứ vào kết quả xác minh, kết luận về nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo tiến hành xử lý như sau: + Trường hợp người bị tố cáo không vi phạm pháp luật, không vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ thì phải có kết luận rõ ràng và thông baó bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan NN có thẩm quyền xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật. + Trường hợp người bị tố cáo có vi phạm pháp luật, có vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ phải bị xử lý kỷ luật, xử phạt. vi phạm HC thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan NN có thẩm quyền xử lý, đồng thời áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để quyết định, kiến nghị xử lý được chấp hành nghiêm chỉnh. + Trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Người giải quyết tố cáo phải gửi văn bản kết luận vụ việc tố cáo, quyết định xử lý tố cáo cho cơ quan thanh tra, cơ quan NN cấp trên trực tiếp; thông báo cho người tố cáo kết quả giải quyết nếu họ có yêu cầu, trừ những nội dung thuộc danh mục bí mật NN. Câu 31: So sánh cơ quan HC NN có thẩm quyền chũng và thẩm quyền riêng? Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức thì có thể so sánh như sau: Các cơ quan có thẩm quyền chung hay thẩm quyền riêng (chuyên môn) đều tham gia vào quản lý HC NN, sử dụng quyền lực NN để quản lý các công việc của NN nhằm phục vụ lợi ích chung hay lợi ích riêng hợp pháp của công dân -Cơ quanHC NN có thẩm quyền chung: Được thành lập theo Hiến pháp và pháp luật, có chức năng quản lý HC NN tổng hợp đối với xã hội. Được sử dụng quyền lực NN và công cụ pháp luật để điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người. Các công chức lãnh đạo được hình thành theo cơ chế bầu cử hoặc kết hợp giữa bầu cử và bổ nhiệm. Phương thức lãnh đạo tập thể, quyết định theo đa số và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu Ký thay mặt tập thể lãnh đạo trên các văn bản pháp quy (nghị quyết, nghị định...). - Cơ quan HC NN có thẩm quyền riêng (cơ quan chuyên môn) Được thành lập theo Luật NN hoặc văn bản dưới luật có chức năng QLHCNN về ngành hoặc lĩnh vực. Được sử dụng quyền lực NN để điều chỉnh một hoặc một số quan hệ nhất định đối với xã hội. Công chức lãnh đạo chủ yếu là bổ nhiệm - Phương thức lãnh đạo là chế độ một thủ trưởng. Người đứng đầu (thủ trưởng) cơ quan HCNN thẩm quyền riêng không ký thay mặt. Câu 32: Không có luật HC, thì không thể quản lí xã hội ?  Theo mình thì có thể nhìn vào đối tượng điều chỉnh, Luật HC điều chỉnh các quan hệ xã hội, gồm ba nhóm sau: + Những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan HC NN. + Những quan hệ xã hội mang tính chấp hành và điều hành trong tổ chức và hoạt động nội bộ của các cơ quan quyền lực NN, tòa án và viện kiểm sát + Những hoạt động mang tính chấp hành và điều hành của hệ thống các cơ quan NN khác và các tổ chức xã hội được NN trao quyền hành pháp. * Hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống các cơ quan HC NN làm nảy sinh nhiều quan hệ xã hội, được chia thành những nhóm quan hệ xã hội chủ yếu sau: -Thứ nhất, những quan hệ nảy sinh giữa cơ quan NN cấp trên và cơ quan NN cấp dưới trong quá trình hoạt động quản lí HC NN; -Thứ hai, những quan hệ giữa hai bên là cơ quan HC NN cùng cấp, thực hiện các quan hệ phối hợp, phục vụ lẫn nhau; -Thứ ba, những quan hệ là một bên là cơ quan HC NN có thẩm quyền với một bên là các tổ chức sự nghiệp và tổ chức kinh doanh cảu các thành phần kinh tế trong xã hội; -Thứ tư, những quan hệ giữa một bên là cơ quan HC NN cơ thẩm quyền với với một bên là các tổ chức xã hội và các đoàn thể nhân dân; -Thứ năm, những mối quan hệ giữa một bên là cơ quan HC NN có thẩm quyền và một bên là công dân. Những mối quan hệ trên hằng ngày, hằng giờ phát sinh trong cuộc sống, đòi hỏi phải có một hệ thống các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh, đó là luật HC. Hệ thống luật HC bao trùm các quan hệ giữa một bên chủ thể bắt buộc là cơ quan HC NN nhân danh NN, dùng quyền lực NN để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Luật HC cũng chỉ là một ngành luật trong hệ thống pháp luật VN góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngoài ra, Bộ luật dân sự, hình sự, lao động, … cũng điều chỉnh các quan hệ đó. Hay nhìn vào phương pháp điều chỉnh, luật HC sử dụng bằng phương pháp quyết định một chiều hay chỉ huy, mệnh lệnh, dùng quyền uy để quản lí Câu 33: phân biệt Công chức, cán bộ, viên chức: Trả lời: + THEO NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH: 1: Cán bộ là những người được bầu vào giữ một chức vụ công vụ trong hệ thống bộ máy NN. 2: Công chức là những người được tuyển dụng ,bổ nhiệm vào giữ một nhiệm vụ công vụ thường xuyên trong..........nt........... 3: Viên chức là những người được tuyển dụng ,bổ nhiệm hoặc qua thi tuyển vào làm việc tại các cơ quan HC sự nghiệp. +PHÂN BIỆT THEO MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH TRONG CÔNG VIÊC: 1: Viên chức và công chức có chế độ làm việc cả đời, độ ổn đinh cao. 2: Cán bộ chỉ làm viêc theo nhiêm kỳ, nếu hết nhiêm kỳ có thể đươc bầu lại hoặc chuyển công tác khác, không ổn định như Công chức và Viên chức +PHÂN BIỆT THEO CHẾ ĐỘ HƯỞNG LƯƠNG: 1: Cán bộ và Công chúc hưởng lương trực tiếp từ ngân sách NN. 2: Viên chức ngoài hương lương từ ngân sách NN ra còn được hưởng thêm từ nguồn thu của đơn vị sự nghiệp +CÁC CHẾ ĐỘ ƯU ĐẢI KHÁC: 1: Cán bộ có được chế độ ưu đãi cao hơn như được hỗ trợ nhà ở ,phương tiện đi lại.v.v......... 2: Công chức và viên chức không có được những ưu đãi đặc biệt đó. Cách so sánh khác: 1.Cơ sở hình thành (hay phương thức tuyển dụng) : -Cán bộ được hình thành thông qua con đường bầu cử -Công chức thì được tuyển dụng,bổ nhiệm vào một ngạch CC. 2.Thời gian làm việc : -Cán bộ làm việc theo nhiệm kì ; -Công chức thì thơì gian làm việc lâu dài ,ổn định .( nếu không bị buộc thôi việc,híhí ). 3.Tính chất công việc : -Hoạt động của cán bộ mang tính chính trị nhiều hơn so với công chức, hoạt động bị chi phối nhiều từ hoạt động chính trị .( ví dụ như các chức danh :CTN,TTg CP..). 4.Đối tượng tuyển dụng : -Đối tượng tuyển dụng để trở thành cán bộ là những đã và đang công chức đang làm việc trong cơ quan NN . -Còn CC thì các bạn xem trong nghị định nhá (NĐ 117/2003 của CP và công văn 237/2004 của BNV ) 5.Ngoài ra thì có thể thêm một số tiêu chí như :Phương thức tuyển dụng, vị trí công tác, hay về số lượng . Còn phân biệt CBCC với VC thì đơn giản hơn,có thể theo các tiêu chí sau : -VC làm việc trong các đơn vị sự nghiệp ,nguồn chi trả lương từ hoạt động của đơn vị đó chứ không do NN trả như CB,CC. -Thứ 2 nữa là công việc của VC liên quan đến hoạt động sx phi vật chất, chỉ thực thi nhiệm vụ với tính chất nghề nghiệp chuyên môn thuần tuý ,còn CBCC làm việc ổn định,CBCC thực thi công vụ ,thực hiện nhiệm vụ quản lí NN. Câu 34: “ So sánh giữa quản lý HC NN và quản lý NN” Xuất phát từ khaí niệm quản lý NN là hoạt động của NN trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối ngoại của NN , ta thấy giữa 2 hoạt động quản lý NN nói chung và quản lý HC nói riêng ( tức là quan lý NN chỉ trong lĩnh vực hành pháp đólà hoạt động chỉ đạo thực hiện pháp luật gọi là quản lý HC NN). Có những điểm riêng sau: Quản lý NN Quản lý HC NN * Khái niệm : rộng hơn Quản lý NN = chỉ đạo hoạt động + lập pháp + Hành pháp + Tư pháp Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của NN. * Chủ thể: - NN và các cơ quan NN . - các tổ chức xã hội và cá nhân được trao quyền lực NN, nhân danh NN . * Khách thể : Trật tự quản lý NN mới được xác định bởi QPPL. * Khái niệm : Hẹp hơn . Quản lý HC NN= hoạt động chỉ đạo pháp luật ( hành pháp) Bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh nghị quyết, của cơ quan quyền lực NN (cơ quan dân chủ) * chủ thể: - cơ quan HC NN . - cán bộ NN có thẩm quyền . *Khách thể : Đảm bảo hoạt động chấp hành, điều hành trên cơ sở pháp luật để chỉ đạo thực hiện pháp luật. *Tóm lại: Hoạt động quản lý HC NN (tức là hoạt động hành pháp bằng chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở pháp luật) là một hoạt động rộng lớn thường xuyên quan trọng trong quản lý NN nhưng nằm trong khuôn khổ của NN . Câu 35: “Chứng minh rằng phương pháp điều chỉnh của luật HC là phương pháp mệnh lệnh đơn phương bắt buộc”. Xuất phát từ khái niệm về luật HC là một ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta bao gồm các QPPL điều chỉnh những quuan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động qủan lý HC NN của các cơ quan HC NN. Trong nội bộ cơ uan HC NN và trong quá trình các cá nhân hay tổ chức được trao quyền hay tổ chức thực hiện tổ chức quản lý HC NN đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy định. Mặy khác phương pháp điều chỉnh của một ngành luật nói chung là cách thức tác động của ngành luật ấy nên đối tượng của nó. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật HC là cách thức mà luật HC tác động đến các nhóm đối tượng của luật HC. Vậy thực tiễn nhất phương pháp điều chỉnh của luật HC là do xuất phát từ việc thực hiện chấp hành, điều hành nên phương pháp điều chỉnh của luật HC là mệnh lệnh, đơn phương được hình thành từ quan hệ “ Quyền lực-phục tùng ” giưã một bên có quyền nhân danh NN ra những mệnh lệnh bắt buộc thi hành đối với một bên có nghĩa vụ, phục tùng các mệnh lệnh đó. Chính quan hệ này đã thể hiện sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý HC NN . Những biểu hiện sau đây làm sáng tỏ thêm phương pháp điều chỉnh của luật HC là phương pháp bất bình đẳng về ý chí : - chủ thể quản lý có quyền nhân danh NN để áp đặt ý chí của mình nên đối tượng quản lý. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lý nên đối tượng quản lý cũng được thực hiện trong nhiều trường hợp khác : + Hoặc bên có thẩm quyền đơn phương ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra thực hiện chúng. phía bên kia phải thực hiện các mệnh lệnh, các quy định đó. Ví dụ : Chính phủ ra mệnh lệnh cho các cấp, các ngành phải tích cực phòng chống lụt bão trong mùa mưa bão đồng thời kiểm tra đôn đốc việc thực hiện này đối với các cấp, các ngành, Chính phủ đặt ra các quy định về xử phạt vi phạm HC ...Các đối tượng quản lý có liên quan phải tuân thủ và thực hiện các mệnh lệnh và những quy định đó . + Hoặc bên có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật để đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị của đối tượng quản lý. Trong trường hợp này quyền quyết định vẫn thuộc về cơ quan có thẩm quyền, Vì vây nếu có sự trùng hợp ý chí .Ví dụ : Công dân có quyền làm đơn yêu cầu UBND huyện cấp giấy sử dụng đất hay giấy xây dựng nhà ở ,UBND huyện có thể chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu này của công dân. + Hoặc cả 2 bên đều có quyền hạn nhất định nhưng ở bên này quyết điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn cùng phối hợp quyết định. Khi đó phải có sự phối hợp giữa nhiều chủ thể nhân danh NN mới thực hiện việc áp đặt ý chí đối với đối tượng uản lý. Ví dụ : cơ quan công an cần bắt giữ đối tượng quản lý phải có sự phối hợp đồng ý của cơ quan Viện kiểm sát, lệnh bắt phải có sự phê chuẩn của Viện trưởng viện kiếm sát nhân dân thì mới được áp dụng - biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng còn thể hiện ở chỗ một bên có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế HC nhằm buộc đối tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý HC NN luôn biểu hiện rõ nét không phụ thuộc vào các quan hệ đó. Sự không bình đẳng giữa các bên là cơ quan HC NN với các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, công dân và các đối tượng quản lý khác không bắt nguồn từ quan hệ tổ chức mà bắt nguồn từ quan hệ “ phục tùng ”trong các quan hệ đó cơ quan HC NN, nhân danh nhà nứơc để thực hiện chức năng chấp hành - điều hành đối với đối tượng quản lý, các đối tượng quản lý phải phục tùng ý chí của NN mà người đại diện là cơ quan HC. Sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý HC NN còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương bắt buộc của các quyết định HC NN và các chủ thể quản lý HC đưa vào thẩm quyền của mình trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình, có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp cưỡng chế NN. Tuy nhiên không phải bao giờ cũng là cưỡng chế mà còn dựa vào các biện pháp khác như giáo dục thuyết phục không có hiệu quả mới dùng đến cưỡng chế. Kết luận : Phương pháp điều chỉnh của luật HC là phương pháp mệnh lệnh đơn phương bắt nguồn từ quan hệ “ quyền lợi- phục tùng”. Phương pháp này được xây dựng trên những Ng.tắc cơ bản sau : + Xác nhận sự không bình đẳng giữa các bên tham gia qquan hệ HC, một bên được nhân danh NN, sử dụng quyền lực NN để đưa ra các bên quyết định HC còn bên kia phải phục tùng các quyết định đó . + Bên nhân danh NN, sử dụng quyền lực NN có quyền quyết định công việc một cách đơn phương xuất phát từ lợi ích chung của NN, của xã hội trong phạm vi quyền hạn của mình để chấp hành pháp luật. + Quyết định đơn phương cử bên sử dụng quyền lực NN co hiệu lực bắt buộc thi hành đối với bên hữu quan và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế NN. Câu 57: “Phân biệt viên chức là công chức với viên chức không phải là công chức. Việc phân biệt có ý nghĩa gì? cũng một vi phạm thì viên chức NN chịu nhiều nhất là mấy trách nhiệm pháp lý” Để phân biệt viên chức là công chức với viên chức không phải là công chức ta cần căn cứ vào định nghĩa (Khái niệm) và căn cứ vào đặc điểm riêng, tính chất công việc theo bảng so sánh sau: *Viên chức không phải là công chức *Viên chức là công chức - Định nghĩa: Viên chức NN là người lao động làm trong các cơ quan NN do được bầu hoặc bổ nhiệm hay tuyển dụng giữ một chức vụ nhất dịnh hoặc bằng hoạt động của mình góp phần vào việc thực hiện một chức vụ nhất định hoặc trả lương theo chức vụ hoặc hoạt động đó, - Công việc được bầu theo nhiệm kỳ . - Đối tượng sau đây mới gọi là viên chức không phải là viên chức +Sỹ quan, hạ sỹ quan trong quân đội, bộ đội biên phòng . + Là người giữ chức vụ trong cơ quan quyền lực NN, cơ quan HC NN, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử được bầu hoặc cử theo nhiệm kỳ + là người làm việc trong các đơn vị cơ sow thuộc bộ máy quản lý bộ máy HC NN . - viên chức NN không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nhưng bằng hoạt động của mình họ bảo đảm việc lãnh đạo kiểm tra quá trình đó. Xác định phương hướng phát triển khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất . thực hiện biện pháp có tổ chức . - Hoạt động của họ tạo điều kiện hoặc trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quuuan hệ cụ thể. - Định nghĩa: công chức NN là công dân VN được bổ nhiệm hoặc tuyển dụng giữ một công việc thường xuyên trong công sở NN ở trung ương hay địa phương,ở trong nước hay ngoài nước được xếp vào ngạch bậc và được hưởng lương từ ngân sách NN. - Công việc của viên chức là công chức bao giờ cũng thường xuyên. - Đối tượng sau đây được gọi là công chức. + là người làm việc trong cơ quan HC NN ở trung ương, tỉnh, huyện và cấp tương đương. + Là người làm việc trong cơ quan đại diện sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài . +Những người làm việc trong trwơngd học, viện nghiên cứu, ở đài phát thanh. đài truyền hình, cơ quan báo chí được hưởng lương từ ngân sách. + Các nhân viên dân sự làm việc trong cơ quan bộ quốc phòng . + Những người được tuyển dụng bổ nhiệm để giữ một công việc thường xuyên trong cơ quan kiểm sát, xét xử . + Những người được tuyển dụng bổ mhiệm để giữ một công việc thường xuyên trong bộ máy NN như: Văn phòng Quốc Hội .UBTVQH. HĐND các cấp và ngững người khác theo quy định của pháp luật . - Hoạt động của họ gián tiếp làm phát sinh., thay đổi hay chấm dứt các QHPL cụ thể. * việc phân biệt giữa viên chức là công chức với viên chức không phải là công chức có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy quuản lý NN ta. Giúp cho các cơ quan chức năng có thể: - xây dựng và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ . - áp dụng chế độ đúng và chính xác đối với đội bgũ công chức . - Tạo điều kiện cho công cuộc cải cách HC, thúc đẩy công việc đổi mới của đất nước, * Cũng một vi phạm thì viên chức NN chịu nhiều nhất là 4 trách nhiệm là: - Trách nhiệm hình sự - Trách nhiệm dân sự . - Trách nhiệm kỷluật . - Trách nhiệm HC. Tương ứng với mỗi loại trách nhiệm là các hình thức cưỡng chế để truy cứu trách nhiệm Qua đây ta thấy nếu viên chức NN vi phạm pháp luật có thể chịu nhiều nhất 3 loại trách nhiệm : hình sự , dân sự , kỷ luật .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề cương ôn tập môn Luật Hành chính.doc
Tài liệu liên quan