Cuộc đấu tranh chống đồng hóa về văn hóa và tư tưởng của dân tộc Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc với việc bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay

Qua thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân dân Việt Nam đã tìm và biết được một Trung Hoa cao cả và tốt đẹp của nhân dân Trung Hoa chống lại cái Trung Hoa tàn bạo, qua các đế chế Hán – Đường. Một kỷ nguyên mới được mở ra. Bối cảnh chính trị tốt đẹp này chính là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phục hưng đất nước, phục hưng văn hóa. Hiện nay, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong thời đại ngày nay, hội nhập là xu hướng tất yếu.

pdf14 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 3144 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc đấu tranh chống đồng hóa về văn hóa và tư tưởng của dân tộc Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc với việc bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 97 CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỒNG HÓA VỀ VĂN HÓA VÀ TƯ TƯỞNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM THỜI KỲ BẮC THUỘC VỚI VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY NGUYỄN MINH TRÍ* TÓM TẮT Giao lưu và tiếp biến văn hóa là quy luật phát triển văn hóa, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con người hiện tại. Bất kỳ nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam thời Bắc thuộc nào cũng đặt ra câu hỏi tại sao một quốc gia nhỏ như Việt Nam lại bảo vệ được chủ quyền của dân tộc là làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc trong suốt hơn nghìn năm Bắc thuộc? Đây là vấn đề cực kỳ hấp dẫn đối với những nhà nghiên cứu! Thông qua cuộc đấu tranh chống đồng hóa về văn hóa – tư tưởng tác giả làm rõ nguyên nhân thắng lợi trong cuộc đấu tranh này đồng thời liên hệ với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Đây là vấn đề thời sự và đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Thông qua bài nghiên cứu tác giả khơi dậy tư tưởng yêu nước của tầng lớp thanh thiếu niên trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ABSTRACT The fight against asimilation of Vietnamese cultures and thoughts in the period of domination by Northern invaders together with the fight for preservation and developmennt of national traditions in globalization Cultural exchange is a cultural development rule, an integral part of life and a natural demand of humans. No historian can study about Vietnamese thoughts in the period of domination by Northern invaders without asking himself a question why such a small country like Vietnam could manage to protect its sovereignty and enrich its national traditions during over 1000 years under domination. This question is particularly * ThS, Khoa Lý luận Chính trị, Trường ĐH Kỹ thuật Công nghệ Tp. HCM Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 98 appealing to historical researchers. Through the fight against assimilation of Vietnamese cultures and thoughts, the author points out the reasons for its victory as well as finds a cultures and thoughts, the author points out the reasons for its victory as well as finds a connection with the preservation and development of these cultural traditions in globalization nowadays. His report helps to provoke the young’s patriotism in building and protecting our country. 1. Mở đầu “Giao lưu và tiếp biến văn hóa là quy luật phát triển văn hóa, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con người hiện tại”1. Xét về thực chất, giao lưu văn hóa chính là sự tác động biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát triển. Trong đó yếu tố nội sinh, mà trọng tâm là con người, giữ vai trò quyết định trong việc định hướng mối quan hệ của chúng với các yếu tố ngoại sinh. Ngược lại, yếu tố ngoại sinh ảnh hưởng mạnh mẽ dưới dạng kích thích hay kìm hãm sự tiến triển của yếu tố nội sinh. Kinh nghiệm của thế giới cũng như các nước trong khu vực cho thấy, không một nền văn hóa nào phát triển được bên ngoài sự giao lưu với các nền văn hóa khác. Hơn lúc nào hết, đồng thời với việc xây dựng kinh tế, phải tích cực, chủ động giao lưu và tiếp biến văn hóa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới. Mỗi dân tộc đều có một truyền thống văn hóa của mình, phát triển văn hóa dân tộc chính là góp phần làm cho văn hóa của các dân tộc trong khu vực và thế giới thêm phong phú. Quá trình giao lưu đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa Á Đông và thế giới càng làm cho văn hóa dân tộc thêm phong phú và sẽ góp phần làm giàu thêm cho văn hóa thế giới. Với cách ứng xử ấy cho phép một xã hội, một nền văn hóa biến đổi mà không mất đi tính độc đáo và bản sắc riêng của mình; vừa biết tiếp nhận những yếu tố từ bên ngoài mà không để mình bị tha hóa, biến chất. Như vậy giao lưu văn hóa giữa các quốc gia là cần thiết và có lợi cho mỗi dân tộc. Việt Nam sau bước hội nhập đầu tiên vào Asean, nay đã trở thành thành viên của WTO, như thế đã thực sự tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Quá trình toàn cầu hóa tạo ra cho Việt Nam những thời cơ thuận lợi, có thể “đi tắt đón đầu” để phát triển cùng các quốc gia phát triển trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra nhiều thách thức mà dân tộc Việt Nam phải vượt qua. Đó là thách thức trong việc giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Những thách thức đó bao gồm cả nguy cơ suy thoái, đặc biệt là nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận người Việt Nam hiện nay. Đó là hệ lụy của lối sống “xã hội tiêu dùng” đang ảnh hưởng ngày càng sâu Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 99 rộng trong một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ. Chính lối sống như vậy đã làm băng hoại những nguyên tắc luân lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đông và dân tộc, là biểu hiện quan niệm “lệch chuẩn”, đối lập với quan niệm truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nhận định: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp”2. Chính vì vậy, đối với nước ta, chưa bao giờ, việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc lại được đặt ra một cách bức xúc như hiện nay. Bởi đây không chỉ là điều kiện để phát triển lành mạnh con người và xã hội mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, để từng bước xây dựng được cuộc sống văn minh, hạnh phúc, Đảng và nhân dân Việt Nam đã đề ra mục tiêu: cùng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mở cửa giao lưu nhằm hội nhập văn hóa là một trong những con đường đúng đắn, con đường tối ưu của việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề trên, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”3. Bởi văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu để phát triển lành mạnh con người và xã hội mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Để góp phần vào việc giải quyết nhiệm vụ chung đó, tôi chọn “Cuộc đấu tranh chống đồng hóa về văn hóa và tư tưởng của dân tộc Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc với việc bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay” làm nội dung nghiên cứu góp phần vào quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 2. Nội dung Trong lịch sử cổ đại, Trung Quốc là một nước lập quốc sớm và trở thành một trong những trung tâm văn minh lớn của phương Đông. Khi mới thành lập nước (vào thế kỷ XXI TCN) địa bàn Trung Quốc chỉ mới là một vùng ở trung lưu lưu vực Hoàng Hà. Từ cuối thế kỷ thứ III TCN Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống nhất. Từ đó nhiều triều đại của Trung Quốc đã bành trướng sang các nước xung quanh và phát triển thành một đế chế lớn, đất rộng, người đông. Quá trình dựng nước của Trung Quốc gần như đi đôi với quá trình bành Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 100 trướng với hệ tư tưởng làm nền tảng của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc là thuyết “bình thiên hạ”. Từ đời Chu, các vua Trung Quốc tự xưng là “Thiên tử” (con trời), làm vua theo “Thiên mệnh” (mệnh trời). Đó là sự thần thánh hóa quyền uy, chức năng của nhà vua và cả bản thân nhà vua theo quan niệm tôn quân tuyệt đối. Do đó, tất cả đất đai, con người dưới gầm trời đều là của vua. “Quân tử” là mẫu người lý tưởng của giai cấp thống trị, sinh ra thực hiện cái đạo “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Khái niệm “thiên hạ” từ đó trở thành tham vọng đi bành trướng của giai cấp thống trị Trung Quốc. Đây là học thuyết chính trị được khoác màu tôn giáo nhằm biện hộ cho hoạt động bành trướng. Sau khi đánh bại An Dương Vương, Triệu Đà nhập nước Âu Lạc vào nước Nam Việt. Bắt đầu thời kỳ dân tộc Việt Nam chịu ách thống trị của ngoại bang. Ách thống trị ngoại bang kéo dài hơn nghìn năm, nhưng không liên tục. Ách thống trị ngoại bang kéo dài hơn nghìn năm, trải qua các triều đại Tây Hán (111TCN - 08CN), Đông Hán (23 - 220), Ngô (220 - 280), Tấn (280 - 420), Thời kỳ Nam – Bắc triều (420 - 602), Tùy (602 - 618), Đường (608 - 905). Các triều đại Trung Quốc xâm lược Việt Nam là những thế lực có tiềm năng về mọi mặt như binh hùng, tướng mạnh, chiến lược, chiến thuật quân sự giỏi, vũ khí hiện đại hơn dân tộc ta rất nhiều. Trong hơn nghìn năm xâm lược và đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp đồng hóa nhân dân, biến nước ta thành một bộ phận đất đai của Trung Quốc. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ và vô cùng gian khổ, quyết liệt đó, đã nhiều lần, nhân dân ta giành thắng lợi, đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi, xây dựng chính quyền tự chủ, tự định đoạt công việc của mình. Công cuộc đấu tranh đó cũng là cơ sở cho nhân dân ta giữ gìn và phát triển sản xuất, phát triển nền kinh tế. Mặc dù, từ Triệu đến Đường, chính quyền đô hộ ra sức cai trị, vơ vét rất tàn bạo nhưng vẫn không khuất phục được tinh thần đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta. “Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện hết sức quật cường cũng như sự vươn lên kỳ diệu của một tộc người”4. Trần Quốc Vượng đã nhận định: “Thời kỳ này gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục”5. Với âm mưu biến nước ta thành một bộ phận của Trung Quốc, sau khi xâm lược chúng đã thực hiện chính sách đồng hóa trên tất cả mọi lĩnh vực thể hiện: Chính sách về chính trị – xã hội, thiết lập bộ máy đô hộ, đưa quan lại, pháp luật sang để cai trị; dùng chính sách mua chuộc bằng vật chất, dụ dỗ hoặc phá rối các quốc gia và các cộng đồng láng giềng, xúi giục họ đánh nhau rồi mượn Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 101 cớ can thiệp; thiết lập nền thống trị chính trị – hành chính khắc nghiệt, bóc lột đè nặng, với quan đô hộ, quân chiếm đóng và một bè lũ quan lại thu cống phẩm, tô thuế, vơ vét của cải của các vùng đất chinh phục; đồng hóa cư dân bản địa, dựa trên sự hủy diệt mọi tinh hoa văn hóa dân tộc rồi áp đặt lên vùng đất đai và cư dân bị chinh phục cái gọi là “chính quốc Trung Quốc”. Phan Huy Lê nhận định: “Tuy nhà Hán đã đặt được bộ máy đô hộ ở cấp châu, cấp huyện. Song chính giới thống trị Hán tộc cũng phải thú nhận rằng chúng chỉ có thể “dùng tục cũ mà cai trị”, chúng không nắm được huyện vì ở huyện vẫn phải theo chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt. Điều đó có nghĩa là đẳng cấp quý tộc Việt cổ truyền vẫn giữ được thế mạnh là uy quyền của dân tộc mà cai quản dân Việt”6. Chính sách về kinh tế, chính sách bao trùm của tất cả các chính quyền phong kiến Trung Quốc là ra sức vơ vét tài nguyên và của cải trên toàn cõi Việt cổ. Tuy nhiên biện pháp của mỗi thời kỳ khác nhau. Dựa vào một tổ chức quan lại, quân đội tương đối chặt chẽ và khá mạnh, chính quyền đô hộ ra sức bóc lột và đàn áp nhân dân các châu, quận. Chúng ra sức chiếm đất, xây dựng cơ sở kinh tế riêng để duy trì lâu dài nền thống trị nước Việt thể hiện: thứ nhất, là thực hiện chính sách đồn điền; thứ hai, chúng bắt nhân dân Việt cống nạp, đây cũng là một trong những hình thức bóc lột nặng nề mà chính quyền đô hộ sử dụng; thứ ba, đại bộ phận nhân dân Việt phải nộp tô thuế và chịu lao dịch cho chính quyền đô hộ. Chính sách tô thuế của chính quyền thống trị ngoại tộc rất nặng, có đến hàng trăm thứ thuế, dân nghèo thậm chí phải bán vợ, đợ con để trang trải thuế má và kết quả dẫn đến nhiều nơi nông dân phá sản. Ngoài ra, hàng năm nhân dân Việt còn phải đi lao dịch rất cực khổ. Dưới thời nhà Ngô, chúng bắt hàng nghìn, hàng vạn trai tráng đất Việt đi lính, làm bia thịt trong cuộc hỗn chiến Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô. Ngoài ra, chính quyền phong kiến Trung Quốc đưa những thành tựu kinh tế của họ vào nước ta nhằm phục vụ chính sách bóc lột như cày bừa bằng trâu, sử dụng phân bón, Trong hơn nghìn năm, các triều đại phong kiến phương Bắc đã “tích cực” thực hiện mọi biện pháp nhằm đàn áp nhân dân ta về quân sự, vơ vét về kinh tế, đồng hóa xã hội, biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Chính sách về văn hóa, các thế lực phong kiến Trung Quốc muốn thủ tiêu văn hóa bản địa như trang phục, lễ nghi, phong tục, tập quán để đồng hóa nhân dân ta. Mặt khác, chúng đưa dân Trung Quốc di cư sang nước Việt hòng mang sang phong tục tập quán lễ nghi, quy phạm đạo đức phong kiến Trung Quốc để truyền bá văn hóa một cách tự nhiên vào nước ta thông qua giao tiếp đời sống thường nhật. Ở dưới thời thống trị của Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 102 nhà Triệu và đặc biệt là nhà Tây Hán do di dân Hán sang đất Việt ngày càng đông, lại “ở lẫn với người Việt”, do đó dần dần giữa hai phương thức Việt và Hán có sự dung hòa và chuyển hóa lẫn nhau. Chính sách về tư tưởng, phong kiến Phương Bắc đặt chân đến đất Nam không chỉ chuyên chở ý đồ chính trị mà còn kéo theo văn hóa bản địa. Hành trang chủ yếu của văn hóa bản địa là Nho giáo, Lão – Trang, Đạo giáo và Phật giáo (có nguồn gốc từ Trung Quốc) với nội dung phục vụ cho mục tiêu đồng hóa. Không có tài liệu thật chính xác về thời gian du nhập và truyền bá Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo vào Việt Nam. Nhưng có lẽ từ đầu Công nguyên, cả tam giáo đều được người Việt Nam tiếp nhận bằng tâm thức của mình, thích nghi và bản địa hóa, nhưng cơ bản chỉ tiếp thu một số nghi lễ, triết lý phù hợp với tâm hồn người nông dân Việt Nam. Dưới ách thống trị ngoại bang kéo dài hơn nghìn năm đã đè nặng lên vai dân tộc ta. Với tinh thần quật khởi, bất khuất, các tầng lớp nhân dân Âu Lạc, từ người dân thường, quân sĩ đến quan lại, hào trưởng, đã liên tục đứng lên chống lại ách đô hộ khắp các nơi từ đồng bằng cũng như miền núi, những cuộc khởi nghĩa dù nhỏ hay lớn, dù lâu hay mau, dù thành công hay bị đàn áp đã tỏ ra khí phách ngoan cường và khẳng định bản lĩnh trường tồn của một dân tộc anh hùng. Sau một nghìn năm Bắc thuộc chẳng những dân tộc không bị đồng hóa mà trái lại làm cho nền văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng thể hiện bản lĩnh của người Việt. Trong cuộc đấu tranh chống “Hán hóa”, dân tộc Việt đã kế thừa một cách chọn lọc thể hiện trên các lĩnh vực: Văn hóa chính trị: một nghìn năm Bắc thuộc, bọn xâm lược ngoại bang đã ra sức tìm mọi cách truyền bá Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo vào nước ta. Nhưng số người học theo Nho không nhiều, còn Phật giáo, Đạo giáo lại đi sâu vào dân gian, hòa lẫn vào trong tín ngưỡng bản địa. Sự du nhập của Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam không thể lấn át hoặc đồng hóa bản sắc văn hóa Việt Nam. “Người Việt Nam tiếp thu Nho giáo không phải như gáo nước lạnh xối trên cát khô mà là có phê phán, chọn lọc từ Nho giáo những gì là tinh túy nhất để bổ sung, phát triển, làm giàu cho nền văn hóa truyền thống của mình”7. Qua cuộc đấu tranh chống kẻ thù phương Bắc càng ngày càng mạnh mẽ và có hệ thống bởi sự trưởng thành của chính lực lượng chống Bắc thuộc. Trong quá trình đấu tranh chống lại âm mưu của các triều đại phong kiến, các thủ lĩnh người Việt qua các thế hệ đã trưởng thành lên rất nhiều về tư duy chính trị, ý thức tổ chức nhà nước. Mô hình nhà nước kiểu Hán đã được các thế hệ thủ lĩnh người Việt tiếp thu và học tập ở một mức độ nhất định và lấy làm hình mẫu xây dựng nhà nước riêng của người Việt. Xu hướng đấu Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 103 tranh giành lại chủ quyền và xây dựng nhà nước theo mô hình Hán ngày càng được củng cố và nâng cao thành lý luận. Đây chính là thành tựu tư duy của dân tộc để chống lại chính sách của kẻ thù, đồng thời nó là điểm kế thừa và phát triển sáng tạo của dân tộc Việt. Bên cạnh đó, lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước tính chất phụ quyền trong gia đình người Việt cổ còn mờ nhạt), mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cố ở một mức độ nhất định những truyền thống của dân tộc Việt Nam, ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt được tôn trọng khác với Trung Hoa. Văn hóa sản xuất: trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Hán, dưới áp lực của cưỡng bức, hoặc cũng có thể là tự nguyện người Việt cổ thấy hay, thấy có lợi thì làm theo, biểu hiện: Trong nông nghiệp: công cụ bằng sắt ngày càng phổ biến, kỹ thuật dùng trâu bò làm sức kéo ngày càng phổ biến, nhờ đó diện tích đất trồng trọt ngày càng mở rộng, các công trình thủy lợi có điều kiện phát triển. Nhân dân ta còn biết bón phân để tăng độ phì nhiêu cho đất. Trải qua quá trình lâu đời từ một nền nông nghiệp thâm canh, tổ tiên ta đã phát triển lên trồng lúa hai mùa từ rất sớm. Mặc dù kinh tế nông nghiệp có bước chuyển biến rõ rệt nhưng chính sách bóc lột nặng nề, phiền nhiễu, vơ vét triệt để của chính quyền đô hộ và bộ máy quan lại ngoại tộc đông đảo đã làm cho đời sống nhân dân hết sức khốn cùng. Trong thủ công nghiệp: nhân dân ta vốn nổi tiếng khéo tay, thành thạo trong lĩnh vực thủ công nghiệp từ lâu đời. Vì vậy, khi giao lưu đã có thêm bước tiến đáng kể và nhiều ngành mới ra đời do học hỏi nước ngoài thể hiện: kỹ thuật rèn sắt, nghề gốm phát triển. Từ chỗ tiếp thu kỹ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã chế tác những loại giấy tốt, chất lượng có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Quốc. Bên cạnh đó, nghề dệt và nghề đan lát là nghề phụ quan trọng và phổ biến của nhân dân ta. Ngoài ra, do nhu cầu quân sự nên chính quyền đô hộ đã cho thiết lập một hệ thống giao thông đường thủy và đường bộ ở nước ta. Hệ quả khách quan của thực tế này là quá trình giao lưu văn hóa giữa các địa phương, giữa các nước Đông Nam Á, và một số nước Tây Á được đẩy mạnh. Nhìn chung sự tiếp thu những thành quả của văn hóa Hán trên lĩnh vực văn hóa vật chất đã nâng cao thêm, ở một mức độ nhất định, chất lượng đời sống của một bộ phận dân cư Việt, ở một số vùng, miền nhất định. Nhưng cần ghi nhận một điều là ách tô thuế lao dịch nặng nề của chính quyền đô hộ đè lên đầu, lên cổ hầu như toàn bộ người dân Việt đương thời. Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 104 Văn hóa sinh hoạt: Biểu hiện rõ nét trong văn hóa sinh hoạt của dân tộc ta là sự bảo tồn tiếng nói của dân tộc, tiếng mẹ đẻ, và xây dựng hệ thống ngôn ngữ văn học, với thành quả mà tổ tiên ta làm được thật là kỳ diệu. Nhân dân ta đã tiếp thu ảnh hưởng của Hán ngữ độc đáo và sáng tạo, đã Việt hóa những từ ngữ ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành lớp từ sau này gọi là từ Hán – Việt. Văn minh Văn Lang - Âu Lạc chưa tìm thấy chữ viết. Nhưng qua thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã chấp nhận văn tự Hán, lắp ráp chữ Hán để tạo nên chữ Nôm. Cùng với phong tục dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ gìn như tục cạo tóc hay búi tóc, xăm mình, chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục nhuộm răng, ăn trầu cau, Cố nhiên, trên đà phát triển của tiến trình lịch sử, nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay, từ tục ở nhà sàn, dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng. Văn học nghệ thuật, âm nhạc phát triển. Tuy chịu ảnh hưởng của những nền văn minh lớn như Trung Hoa, Ấn Độ và sự giao lưu xã hội với Trung Hoa dưới hình thức cưỡng bức, nhân dân ta vẫn biết tiếp biến những yếu tố vay mượn thành tài sản của dân tộc đặng bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc. Điều đặc biệt, khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện tinh thần sáng tạo phù hợp với truyền thống của dân tộc. Sau nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt không những không bị diệt vong, không bị đồng hóa, mà còn lớn lên về mọi mặt để có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần chiến thắng chủ nghĩa đại Hán, giành độc lập dân tộc. Điều này cho thấy sức mạnh tinh thần của dân tộc Việt Nam là vô cùng to lớn. Sức mạnh đó, theo chiều dài lịch sử, phát triển đủ mạnh để bảo tồn bản thể đặc sắc của mình trong cuộc đấu tranh chống lại sức mạnh đồng hóa của nền văn hóa Hán đồng thời làm phong phú vốn văn hóa của mình bằng chính thành quả tri thức của kẻ xâm lược. Bất kỳ ai đọc lịch sử Việt Nam cũng tự đặt ra câu hỏi: vậy sức mạnh nào đã giúp cho dân tộc đang trong giai đoạn hình thành như thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc (cách đây khoảng 2500 năm) có thể vượt qua những thách thức dưới chính sách đồng hóa thâm độc của các triều đại phương Bắc, giữ vững được bản sắc văn hóa của riêng mình? Ý nghĩa quan trọng của việc khẳng định bản sắc dân tộc bảo tồn nòi giống và bảo tồn độc lập trước các thế lực ngoại bang? Có thể lý giải những câu hỏi ấy từ chính thực tiễn sinh động của cuộc đấu tranh chống đồng hóa của dân tộc Việt Nam: Dân tộc Việt Nam đã sớm định hình nền văn hóa dân tộc với bản sắc riêng. Từ thuở bình minh dựng nước, các liên minh bộ lạc của các tộc Lạc Việt đã cùng nhau sinh sống lâu đời trên một lãnh thổ ổn định ở lưu vực sông Hồng (Bắc bộ và Bắc Trung bộ). Cũng từ đó, Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 105 người Việt cổ đã hình thành cho mình một lối sống riêng, cách ứng xử, tâm lý, tín ngưỡng tôn giáo, sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật từ rất sớm toát lên những đặc điểm của đời sống vật chất và đời sống tinh thần đặc sắc thể hiện: Về đời sống vật chất của người Việt thể hiện lối sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước trên một địa hình sông nước của vùng nhiệt đới gió mùa. Xã hội Văn Lang là một xã hội có một nền kinh tế phát triển ở một mức độ nhất định. Bên cạnh kinh tế nương rẫy là sự phát triển của nông nghiệp lúa nước, nghề chăn nuôi, nghề gốm, nghề luyện kim từ thấp lên cao, trong đó nghề trồng lúa nước đóng vai trò chủ đạo. Nguồn lương thực chính là gạo, chủ yếu là gạo nếp. Về nhà ở trong nơi cư trú là nhà sàn. Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là phương tiện đường thủy. Về đầu tóc, người Hùng Vương có nhiều kiểu tóc khác nhau. Phổ biến là lối cắt tóc ngắn và búi tóc. Về dời sống tinh thần, cư dân thời Hùng Vương không chỉ đã đạt đến trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao mà còn xác lập được lối sống Việt Nam, truyền thống Việt Nam, đặt cơ sở vững vàng cho toàn bộ sự tồn tại và phát triển của dân tộc về sau thể hiện: Có nền văn hóa lâu đời, định hình nên bản lĩnh riêng, kết quả nghiên cứu của khảo cổ học, ngôn ngữ học, sử học, dân tộc học đã chứng minh sự tồn tại của nước Văn Lang trong lịch sử là có thật, chứ không phải trong văn hóa dân gian, trong trí tưởng tượng của chính khách. Cái nôi của dân tộc Việt Nam là các lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã. Dân tộc Việt Nam sinh nở ở đây, hình thành tại đây và phát triển tại đây, đã có một cương vực ổn định, có một nền văn hóa rực rỡ thông qua giải mã Trống Đồng. Sự tồn tại của nhà nước Văn Lang lúc này đã có những nền tảng tổ chức xã hội, tinh thần riêng. Có truyền thống yêu nước, đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm, Trần Văn Giàu nhận định, trãi qua quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền dân tộc thì “Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng chủ yếu, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử dân tộc Việt Nam”8. Nó là nguồn nội lực quan trọng để dân tộc ta bảo tồn được bản sắc dân tộc và chủ quyền quốc gia suốt thời kỳ Bắc thuộc. Vì vậy, quá trình hình thành và phát triển của hệ tư tưởng yêu nước Việt Nam vốn xuất hiện sớm gắn liền với sự xuất hiện nhà nước Văn Lang là một trong những nguyên nhân quyết định thắng lợi của dân tộc trong suốt thời kỳ Bắc thuộc. Giai đoạn Văn Lang – Âu Lạc là giai đoạn chưa xuất hiện chữ viết nhưng thông qua truyền thuyết và thần thoại truyền miệng đứng đầu là những truyện yêu nước, thương nòi, đoàn kết chung lưng chinh phục tự nhiên, chiến đấu bảo vệ cuộc sống. Đây chính là bản lĩnh được dày công xây dựng và khẳng định một cách vô cùng Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 106 vững chắc, đủ sức vượt qua mọi thử thách lâu dài và cam go thể hiện qua ba câu chuyện: Truyện Hồng Bàng, Sơn Tinh - Thủy Tinh và Thánh Gióng. Qua ba câu chuyện này tư tưởng yêu nước thương nòi ở trình độ sơ khai đã có những nét tuyệt vời. Thời kỳ Bắc thuộc dài hơn nghìn năm từ Hán đến Đường, thời gian dài đăng đẳng, các chính quyền phương Bắc tìm mọi cách xóa mờ lịch sử của dân tộc ta, làm cho dân tộc ta quên mất nguồn gốc của mình. Nhưng thông qua văn học truyền miệng lòng tự hào về tổ tiên được ghi đậm thêm mãi truyền thống yêu nước thương nòi xây dựng khối đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau. Chính vì vậy mà liên tục những cuộc khởi nghĩa có tính dân tộc diễn ra đã hâm nóng chủ nghĩa yêu nước không dứt kết tinh trong những cơn bão lửa quật khởi trong khí phách của các vị lãnh tụ kiệt xuất như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, và kết quả dân tộc ta đã chiến thắng. Sau nghìn năm Bắc thuộc, “ta vẫn là ta”, lớn mạnh hơn trước, có ý thức vững chắc về quyền tồn tại của dân tộc mình. Chính vì vậy, có thể khẳng định chủ nghĩa yêu nước hình thành từ rất sớm là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất trong cuộc chống đồng hóa và bảo vệ độc lập dân tộc trong thời kỳ Bắc thuộc. Nổi bật trong thời kỳ Bắc thuộc là chủ nghĩa yêu nước luôn thể hiện qua tình cảm đối với làng. Làng xã là tổ chức hình thành sớm và tồn tại hàng ngàn năm lịch sử, là nơi bảo lưu văn minh lúa nước, văn hóa làng xóm. Có làng trước rồi mới có nước. Làng là lũy tre xanh, là cái áo giáp che chở cho dân trong làng chống lại trộm cướp và ngoại xâm. Chính vì thế, từ Hán đến Đường, chính quyền độ hộ cố thâm nhập vào làng xã Việt Nam nhưng trước sau không một triều đại phong kiến nào nắm được làng xã và đặt nổi một hệ xã quan trên nước ta. Trong làng, người Việt cổ thời Văn Lang, Âu Lạc đã có lối tư duy riêng, đó là lối tư duy lưỡng hợp đã trở thành nhân tố quan trọng quyết định thế ứng xử, phương thức sống, nhân sinh quan của người Việt cổ trước thời kỳ Bắc thuộc. Đó là lối sống dung hòa, dung hợp, chấp nhận mọi yếu tố trái ngược nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại, không loại trừ nhau. Văn Lang - Âu Lạc đã hình thành ý thức đạo đức đặc trưng của dân tộc mình, tuy còn đơn sơ nhưng là cơ sở điều chỉnh hành vi, nền tảng để duy trì các tập tục, lễ nghĩa mặc dù chưa thể hiện thành văn. Đó là cơ sở để tiếp tục phát triển tư duy trong thời kỳ Bắc thuộc: Phong tục tôn kính và biết ơn cha mẹ tổ tiển; Coi trọng vai trò của người phụ nữ trong xã hội; Tôn kính những anh hùng, những người có công với dân với nước. Người Việt thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc đã có phong tục, tập quán, tín ngưỡng và ngôn ngữ riêng định hình nên bản lĩnh Việt và có Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 107 lối sinh hoạt văn hóa phong phú, mang đậm tính chất nông nghiệp lúa nước. Như vậy, có thể thừa nhận, cho đến trước khi phương Bắc xâm lược, văn hóa Văn Lang, Âu Lạc từng có nền văn hóa tương đối phát triển. Có một lãnh thổ chung, một tiếng nói chung, một cơ sở kinh tế – xã hội gắn bó với thể chế một nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc thái riêng, phong tục tập quán riêng biểu thị trong một nền văn hóa chung, đã tự khẳng định sự tồn tại của mình như một quốc gia văn minh có đủ điều kiện vững vàng tiến lên, vượt qua mọi bão táp, thách thức của lịch sử. Trong suốt nghìn năm Bắc thuộc ông cha ta đã bảo vệ thành công chủ quyền của dân tộc do ta đã biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là bài học lịch sử có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Trong thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc văn hóa Việt Nam luôn có sức đề kháng mạnh mẽ và có khả năng tiếp biến phi thường, nhờ đó đã tạo dựng được bản lĩnh vững vàng trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trước sức mạnh xâm lăng của văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa, không đánh mất bản sắc của mình. Sức đề kháng đó của văn hóa Việt Nam có cội nguồn từ tầng sâu của tâm hồn, trí tuệ, lòng tự tôn dân tộc, không khuất phục trong mỗi con người Việt Nam. Cội nguồn sức đề kháng của văn hóa Việt Nam là như vậy, nên chính sách đồng hóa về văn hóa và tư tưởng trong suốt thời gian đô hộ cả ngàn năm của phong kiến phương Bắc thậm chí cả chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới hơn trăm năm vẫn không thể làm phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Dân tộc ta dù thất bại về mặt quân sự nhiều lần, nhưng nhờ cội nguồn sức mạnh đó, cuối cùng vẫn vùng dậy đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Hiện nay, sức đề kháng trong bản lĩnh văn hóa Việt Nam đang một lần nữa đứng trước thử thách với quy mô lớn từ các giá trị văn hóa bên ngoài. Sự xâm nhập đó không chỉ giới hạn ở quy luật giao lưu, hội nhập văn hóa, mà còn ở chính sách xâm lược về chính trị, quân sự của các thế lực thù địch. Do vậy, giờ đây, hơn lúc nào hết, chúng ta phải có chiến lược nâng cao sức đề kháng văn hóa Việt Nam một cách phù hợp để nâng cao bản lĩnh văn hóa Việt Nam – vấn đề sống còn của dân tộc ta. Do đó, trong quá trình mở cửa hội nhập để phát triển, để từng bước khẳng định vị thế của dân tộc trên trường quốc tế phải giữ vững độc lập chủ quyền, giữ được những giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: trong quá trình mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế, sẽ không tránh khỏi những va chạm, thậm chí đụng độ giữa các giá trị truyền thống của dân tộc với các giá trị bên ngoài. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta không những bảo tồn, giữ gìn, khai thác các giá trị truyền thống mà còn phải biết đưa chúng lên trình độ cao hơn Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 108 trong hoàn cảnh mới, đồng thời phải sáng tạo thêm những giá trị mới phù hợp với thời đại. Nghị quyết Bộ Chính trị ĐCSVN số 09-NQ/TƯ ra ngày 18/2/1995 “Về một số định hướng trong công tác tư tưởng hiện nay” xác định: “với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển, đồng thời là mục tiêu cao của chủ nghĩa xã hội, văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới và con người mới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 của ĐCSVN họp cuối tháng 6 – 1996 tiếp tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”. Và gần đây, Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ ĐCSVN khóa VIII khẳng định: “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. “Tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc” là cách diễn đạt cụ thể nhiệm vụ “phát triển” và “bảo tồn” văn hóa. Giữ gìn bản sắc dân tộc không chỉ có nghĩa là trở về các giá trị truyền thống, không có nghĩa là phục cổ, là đóng kín. Nếu phục cổ một cách cực đoan thì dễ trở thành dị biệt với nhân loại, mà phải khai thác, phát triển đáp ứng nhu cầu mới, đáp ứng những thách thức mới. Bản sắc dân tộc trường tồn trong quá trình tái tạo không ngừng, trong tiến hóa lịch sử, theo phép biện chứng kế thừa và đổi mới, kết hợp truyền thống với hiện đại. Giữ gìn bản sắc văn hóa không những cần được bảo tồn, mà phải đậm đà để làm gốc cho sự phát triển. Nói đúng hơn, chúng ta phải can đảm vứt bỏ những cái thừa, cái lạc hậu, bảo tồn, phát huy cái nhân lõi trong gía trị truyền thống – cái giúp ta gia nhập thuận lợi và thành công vào xu thế chung của thời đại. Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, khi nhấn mạnh chủ trương phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, Đảng ta đã khẳng định: Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Xây dựng và hoàn thiện giá trị và nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam . Đồng thời, “tích cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, chống sự xâm nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại, lai căng,”. Đây chính là biểu hiện kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa truyền thống với đổi mới mà tổ tiên đã vận dụng thành công trong lịch sử. 3. Kết luận Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam chống các triều đại phong kiến phương Bắc là cuộc chiến tranh chính nghĩa, mang tính quần chúng rộng rãi, khi âm thầm, lúc công khai của một nước Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Minh Trí 109 nhỏ yếu về lực và thế chống lại thế lực hùng mạnh nhất lúc bấy giờ để bảo vệ độc lập chủ quyền, giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc. Những nhân tố vật chất và tinh thần được xây dựng trong thời kỳ dựng nước đã tạo nên sức sống mãnh liệt, một bản lĩnh của dân tộc, để một mặt bảo tồn được những tinh hoa văn hóa vốn có, mặt khác vẫn mạnh dạn tiếp nhận và cải biến những yếu tố ngoại sinh nhằm đưa văn hóa dân tộc vươn lên tầm cao mới, đủ sức đập tan âm mưu đồng hóa của triều đại phong kiến phương Bắc bảo vệ chủ quyền của dân tộc và làm phong phú bản sắc văn hóa của dân tộc. Như vậy trong thời kỳ Bắc thuộc nền văn hóa Việt Nam không co lại một cách bảo thủ và cô lập. Nó không từ chối những đóng góp bên ngoài, mà còn tỏ ra có khả năng thu nạp và dung hòa mạnh những cái hay, cái đẹp của nền văn hóa ngoại lai, kể cả các nước đang đô hộ mình để làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc và tăng thêm tiềm lực cho mọi mặt của đất nước. Qua thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân dân Việt Nam đã tìm và biết được một Trung Hoa cao cả và tốt đẹp của nhân dân Trung Hoa chống lại cái Trung Hoa tàn bạo, qua các đế chế Hán – Đường. Một kỷ nguyên mới được mở ra. Bối cảnh chính trị tốt đẹp này chính là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phục hưng đất nước, phục hưng văn hóa. Hiện nay, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong thời đại ngày nay, hội nhập là xu hướng tất yếu. Vì vậy trong quá trình hội nhập chúng ta phải chủ động trên cơ sở tự khẳng định mình, nổ lực vượt lên chính mình, nghĩa là thông qua hội nhập, chúng ta nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. 1 Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh, tr.53. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H Nội, tr.4 .3 Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H Nội, tr.82. 4 Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.71 5 Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh, tr.134 6 Phan Huy Lê – Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập. 1, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr.159 7 Doãn Chính – Nguyễn Sinh Kế (2004), Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX), Triết học, số 9, tháng 9 - 2004. 8 Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.108. 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Doãn Chính – Nguyễn Sinh Kế, 2004, Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX), Triết học, số 9. 2. Nguyễn Trọng Chuẩn – Phạm Văn Đức – Hồ Sỹ Quý (đồng chủ biên), 2001, Tìm hiểu giá trị văn hoá truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam,1997, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 4. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2006, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 5. Trần Văn Giàu, 2005, Bản lĩnh Việt Nam, Nxb. Trẻ. Tp. Hồ Chí Minh. 6. Trần Văn Giàu, 1993, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh. 7. Phan Huy Lê – Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Lương Ninh, 1991, Lịch sử Việt Nam, tập. 1, Nxb. Đại học và Trung cấp chuyên nghiệp, H. 8. Nguyễn Tài Thư (chủ biên),1993, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, H. 9. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), 2004, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcuoc_dau_tranh_chong_dong_hoa_ve_van_hoa_va_tu_tuong_cua_dan_toc_viet_nam_thoi_ky_bac_thuoc_voi_viec.pdf