Chiến lược ngoại thương Việt Nam thời đại toàn cầu hóa

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 3 PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô. 4 1.1 Tác động của xuất khẩu sản phẩm thô đến phát triển kinh tế. 4 1.2 Trở ngại đối với sự phát triển dựa vào chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô. 5 1.3 Các giải pháp khắc phục trở ngại 6 2. Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu (chiến lược hướng nội) 6 2.1 Điều kiện thực hiện chiến lược. 6 2.2 Bảo hộ của chính phủ bằng thuế quan. 7 2.3 Bảo hộ của chính phủ bằng hạn ngạch. 7 2.4 Lợi ích của chiến lược thay thế nhập khẩu. 7 2.5 Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu. 8 3. Chiến lược hướng ra thị trường quốc tế (chiến lược hướng ngoại) 8 3.1 Nội dung chiến lược hướng ra thị trường quốc tế. 8 3.2 Tác động của chiến lược hướng ngoại đối với phát triển kinh tế. 9 3.3 Những chính sách đòn bẩy thúc đẩy chiến lược hướng ngoại 9 PHẦN II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP. 10 1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô: 10 1.1 Thực trạng: 10 1.2 Ưu điểm của chiến lược này đối với Việt Nam . 11 1.3 Trở ngại 12 1.4 Biện pháp khắc phục. 13 2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu của Việt Nam . 13 2.1 Cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. 14 2.2 Thực hiện nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để đầu tư sản xuất tại chỗ; chế biến một số sản phẩm công nghệ cao trong nước: 14 2.3 Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư để phát triển và mở rộng sản xuất trong nước: 15 2.4 Tiến hành sản xuất nguyên, nhiên liệu: 16 2.5 Vai trò của nhà nước. 17 3. Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu. 17 3.1 Vai trò của xuất khẩu đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: 17 3.2 Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua: 18 3.3 Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay: 19 PHẦN III. KẾT LUẬN 22MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 3 PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô. 4 1.1 Tác động của xuất khẩu sản phẩm thô đến phát triển kinh tế. 4 1.2 Trở ngại đối với sự phát triển dựa vào chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô. 5 1.3 Các giải pháp khắc phục trở ngại 6 2. Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu (chiến lược hướng nội) 6 2.1 Điều kiện thực hiện chiến lược. 6 2.2 Bảo hộ của chính phủ bằng thuế quan. 7 2.3 Bảo hộ của chính phủ bằng hạn ngạch. 7 2.4 Lợi ích của chiến lược thay thế nhập khẩu. 7 2.5 Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu. 8 3. Chiến lược hướng ra thị trường quốc tế (chiến lược hướng ngoại) 8 3.1 Nội dung chiến lược hướng ra thị trường quốc tế. 8 3.2 Tác động của chiến lược hướng ngoại đối với phát triển kinh tế. 9 3.3 Những chính sách đòn bẩy thúc đẩy chiến lược hướng ngoại 9 PHẦN II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP. 10 1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô: 10 1.1 Thực trạng: 10 1.2 Ưu điểm của chiến lược này đối với Việt Nam . 11 1.3 Trở ngại 12 1.4 Biện pháp khắc phục. 13 2. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu của Việt Nam . 13 2.1 Cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. 14 2.2 Thực hiện nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để đầu tư sản xuất tại chỗ; chế biến một số sản phẩm công nghệ cao trong nước: 14 2.3 Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư để phát triển và mở rộng sản xuất trong nước: 15 2.4 Tiến hành sản xuất nguyên, nhiên liệu: 16 2.5 Vai trò của nhà nước. 17 3. Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu. 17 3.1 Vai trò của xuất khẩu đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: 17 3.2 Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua: 18 3.3 Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay: 19 PHẦN III. KẾT LUẬN 22

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5569 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược ngoại thương Việt Nam thời đại toàn cầu hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ˜«™ Môn học: KINH TẾ PHÁT TRIỂN Đề tài: CHIẾN LƯỢC NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA GVHD: TS. Đỗ Phú Trần Tình Lớp: K09402A DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN 1. Bùi Diễm Diễm K094020130 2. Trần Vũ Đức K094020137 3. Trần Bảo Khuyên K094020166 4. Vũ Ngọc Lan K094020183 5. Lê Ý Nhi K094020202 TP.HCM – THÁNG 04/2011 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, khi nói đến sự phát triển của một quốc gia, chúng ta không thể không nhắc đến những chỉ số tăng trưởng như GNP/người, GNI, và đặc biệt là GDP. Trong đó, một thành tố đóng vai trò quan trọng làm tăng chỉ số này chính là các hoạt động thương mại quôc tế, hay còn gọi là ngoại thương. Ngoại thương, nói một cách tổng quát, là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia theo nguyên tắc ngang giá nhằm đem lại lợi ích cho đôi bên. Mặc dù đã hình thành và phát triển từ lâu trong lịch sử loài người, tầm quan trọng kinh tế, chính trị, xã hội của ngoại thương, của các hoạt động thương mại quốc tế chỉ mới được quan tâm một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Đặc biệt, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, phát triển thương mại quốc tế đóng vai trò sống còn đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trên thực tế, kinh nghiệm của một số các nước đang phát triển ở châu Phi và các nước ở Nam Á khác mà sự chọn lựa chiến lược phát triển nửa vời, một mặt vẫn muốn tập trung đầu tư không hiệu quả cho những ngành công nghiệp nội địa nhằm thay thế nhập khẩu và bảo vệ chúng bằng các chính sách bảo hộ, mặt khác vẫn phải xuất khẩu nông sản và nguyên liệu thô vì nhu cầu ngoại tệ, nhưng vẫn không thể chuyển sang xuất khẩu sản phẩm hàm lượng công nghệ cao vì không còn vốn để đầu tư cho các ngành công nghiệp xuất khẩu, đã cho thấy một kết quả đáng buồn là tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp nội địa ngày càng kém, năng suất và thu nhập của người lao động không tăng nhiều trong khi tình hình lạm phát lại luôn luôn vượt khỏi tầm kiểm soát của Chính phủ. Vậy nên, đề tài “Việt Nam và chiến lược ngoại thương thời đại toàn cầu hóa” được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề cấp thiết là xây dưng một chiến lược ngoại thương phù hợp để tận dụng mọi nguốn lực trong nước một cách hiệu quả, đưa nước ta thoát khỏi nhóm các nước nghèo và tiến tới một nền kinh tế hiện đại, hiệu quả, bền vững. PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Dựa vào quan điểm ngoại thương, các nước có các chiến lược ngoại thương khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung có ba chiến lược cơ bản, đó là: chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô, chiến lược thay thế hàng nhập khẩu và chiến lược hướng ra thị trường quốc tế. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Tác động của xuất khẩu sản phẩm thô đến phát triển kinh tế Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô dựa chủ yếu vào việc sử dụng rộng rãi các nguồn tài nguyên sẵn có và các điều kiện thuận lợi của đất nước.Sản phẩm xuất khẩu thô là những sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng. Chiến lược này chủ yếu thực hiện ở các nước đang phát triển, trong điều kiện trình độ sản xuất còn thấp, đặc biệt là trình độ của ngành công nghiệp và khả năng tích lũy vốn của nền kinh tế còn hạn chế. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo điều kiện phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy việc sử dụng các yếu tố và điều kiện, dẫn đến tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tích lũy trong nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tăng đội ngũ công nhân lành nghề, từ đó tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô cũng tạo ra sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế. Ban đầu là sự phát triển công nghiệp khai khoáng và ngành công nghiệp chăn nuôi, trồng cây lương thực và cây công nghiệp có khả năng xuất khẩu và công nghiệp chế biến. Sự phát triển của công nghiệp chế biến tạo cơ hội cho việc gia tăng xuất khẩu thô, nó tác động ngược lại với các ngành cung ứng nguyên liệu, tạo ra “mối liên hệ ngược”. Sự phát triển của các ngành có liên quan còn được thể hiện qua “mối quan hệ gián tiếp” thông qua nhu cầu về hàng tiêu dùng. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hóa. Đối với hầu hết các nước, quá trình tích lũy vốn lâu dài, gian khổ và đặc biệt khó khăn là quá trình tích lũy ban đầu. Quá trình này sẽ thuận lợi hơn đối với những nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Trở ngại đối với sự phát triển dựa vào chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Trở ngại do cung – cầu sản phẩm thô không ổn định Cung sản phẩm thô không ổn định do các mặt hàng chưa qua chế biến hoặc sơ chế có nguồn gốc chủ yếu từ ngành nông nghiệp và khai khoáng, đây là những ngành mà điều kiện và kết quả sản xuất chịu ảnh hưởng rất lớn về thời tiết, khí hậu. Cầu sản phẩm thô biến động do hai nguyên nhân cơ bản: Do xu hướng biến động về cầu sản phẩm thô được xác định trong quy luật tiêu dùng sản phẩm của E.Engel. Quy luật này xác định xu hướng tiêu dùng lương thực, thực phẩm cơ bản tăng chậm hơn mức tăng thu nhập, bên cạnh đó làm cho sản phẩm thô có xu hướng giảm. Do tác động của sự phát triển khoa học công nghệ dẫn đến xu hướng giảm nhu cầu về sản phẩm thô. Trở ngại do giá cả sản phẩm thô có xu hướng giảm so với hàng công nghệ Việc so sánh tương quan giữa giá cả sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm nhập khẩu thường được thực hiện thông qua “hệ số trao đổi hàng hóa”: Trong đó: In: Hệ số trao đổi hàng hóa Px: Giá bình quân hàng xuất khẩu Pm: giá bình quân hàng nhập khẩu Hệ số này phản ánh sức mua hàng nhập khẩu khi xuất khẩu một đơn vị hàng hóa. Các nước đang phát triển thường xuất khẩu sản phẩm thô để có ngoại tệ nhập khẩu hàng công nghệ. Trở ngại do thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô biến động Khi cung – cầu và giá cả sản phẩm thô biến động tất yếu dẫn đến mức thu nhập biến động. Tuy nguồn gốc sâu xa của sự bất ổn định là do cung hàng xuất khẩu thô (vì sản lượng không ổn định nên các cơ sở nhập khẩu phải tìm cách chống lại sự mất ổn định này) nhưng sự biến động của cung lại ảnh hưởng đến thu nhập ít hơn sự biến động của cầu. Trở ngại do khó đa dạng hóa các sản phẩm thô Vì việc đa dạng hóa các sản phẩm thô gặp nhiều khó khăn nên các nước sử dụng chiến lược này dễ gặp biến động, phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới. Các giải pháp khắc phục trở ngại Giải pháp “trật tự kinh tế quốc tế mới” Nghị quyết của Liên hợp quốc năm 1974 về “trật tự quốc dân mới”, gọi tắt là NIEO kêu gọi thành lập các tổ chức mà các thành viên tham gia có khả năng khống chế được đại bộ phận lượng cung một loại sản phẩm thô trên thị trường quốc tế. Và nếu tổ chức này có sự tham gia của những nước nhập khẩu phần lớn sản phẩm cùng loại này thì hiệu quả của giải pháp sẽ được nâng cao. Nội dung hoạt động của những tổ chức này là kí các hiệp định nhằm xác định lượng cung sản phẩm thô trên thị trường quốc tế sao cho giữ được ổn định hoặc tăng giá hàng hóa. Giải pháp “kho đệm dự trữ quốc tế” Tiếp theo Nghị quyết về “trật tự kinh tế quốc tế mới”, Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển ra “Chương trình tổng hợp về hàng hóa”. Theo chương trình này, một quỹ chung sẽ được thành lập dựa trên sự thỏa thuận giữa cả hai bên các nước xuất khẩu và nhập khẩu. Quỹ này được dùng để mua hàng hóa dự trữ, gọi là “kho đệm dự trữ quốc tế” nhằm ổn định giá của 18 mặt hàng trong số những hàng quan trọng nhất của các nước đang phát triển. Chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu (chiến lược hướng nội) Điều kiện thực hiện chiến lược Nội dung cơ bản của chiến lược này là đẩy mạnh sự phát triển các ngành công nghiệp trong nước, trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất sản phẩm nội địa thay thế các sản phẩm nhập khẩu. Để thực thi chiến lược này đòi hỏi những điều kiện nhất định: Cần có thị trường trong nước tương đối rộng rãi. Do đó chiến lược này chỉ có thể phát huy hiệu quả đối với những nước có dân số tương đối đông. Các ngành công nghiệp trong nước ban đầu có thể còn nhỏ bé nhưng phải tạo ra được những yếu tố đảm bảo khả năng phát triển, những yếu tố này trước hết là khả năng thu hút vốn và công nghệ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vai trò của chính phủ chính là điều kiện quan trọng nhất. Chính phủ cần xây dựng những chính sách hợp lí phù hợp với từng giai đoạn. Bảo hộ của chính phủ bằng thuế quan Bảo hộ thuế quan danh nghĩa Bảo hộ thuế quan danh nghĩa là hình thức đánh thuế của Nhà nước vào hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh với hàng trong nước làm cho giá hàng trong nước cao hơn giá hàng trên thị trường quốc tế. Bảo hộ thuế quan thực tế Bên cạnh việc đánh thuế để tăng giá hàng nội địa so với giá quốc tế, những người sản xuất trong các ngành công nghiệp non trẻ còn quan tâm đến việc đánh giá thuế đối với nguyên vật liệu và đầu vào cho những ngành này. Bảo hộ thuế quan thực tế là sự tác động của hai loại thuế: thuế đánh vào hàng nhập và thuế đánh vào nguyên vật liệu nhập sao cho đảm bảo lợi nhuận cho nhà sản xuất. Bảo hộ của chính phủ bằng hạn ngạch Nếu với hình thức thuế quan, lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung – cầu trên thị trường thì bảo hộ bằng hạn ngạch là hình thức Nhà nước xác định trước khối lượng hàng nhập khẩu và cấp giấy phép cho một số tổ chức có đủ tiêu chuẩn được nhập khẩu khối lượng hàng này. Tác động của hạn ngạch cũng gần giống như thuế quan. Lợi ích của chiến lược thay thế nhập khẩu Kích thích hình thành những ngành công nghiệp mới trong nước và thúc đẩy sự trưởng thành của các ngành công nghiệp. Tiết kiệm được ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị; tiếp thu được công nghệ bên ngoài. Hạn chế của chiến lược thay thế nhập khẩu Làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Làm nảy sinh nhiều tiêu cực, bảo hộ bằng thuế dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế, hối lộ đội ngũ thuế quan. Bảo hộ bằng hạn ngạch thì dẫn đến tình trạng hối lộ các quan chức phụ trách phân phối hạn ngạch nhập khẩu. Hạn chế xu hướng công nghiệp hóa của đất nước. Làm tăng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển. Chiến lược hướng ra thị trường quốc tế (chiến lược hướng ngoại) Nội dung chiến lược hướng ra thị trường quốc tế Chiến lược hướng ngoại của các nước NICs Chiến lược hướng ngoại thành công đầu tiên ở một số nước và vùng lãnh thổ các nước NICs. Nội dung chiến lược này của các nước NICs là sản xuất những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều nhất những yếu tố có sẵn trong nước, thực hiện nhất quán chính sách giá cả: giá hàng trong nước phải phản ánh sát với hàng trên thị trường quốc tế và phản ánh được sự khan hiếm của các yếu tố trong nước. Các nước NICs trong thời kì đầu thực hiện chiến lược hướng ngoại thường tập trung vào sản xuất hàng công nghiệp và dịch vụ, sử dụng nhiều lao động làm cho chi phí sản xuất sẽ tương đối thấp hơn so với thị trường quốc tế. Chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN và các nước đang phát triển khác Vào đầu những năm 70 các nước ASEAN đều lần lượt chuyển sang chiến lược hướng ngoại. Phần lớn các nước ASEAN có dân số đông và nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng kể, do đó nội dung chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN có những đặc điểm khác so với các nước NICs. Các nước ASEAN tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất những mặt hàng xuất khẩu, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên để thúc đẩy quá trình tích lũy ban đầu của đất nước, khuyến khích sản xuất các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đất nước. Vì vậy, thực chất chiến lược hướng ngoại của các nước ASEAN là chiến lược hướng ngoại mang tính chất tổng hợp. Tác động của chiến lược hướng ngoại đối với phát triển kinh tế Chiến lược hướng ngoại tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Chiến lược hướng ngoại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước càng ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.Bởi vì chiến lược này làm cho các doanh nghiệp trong nước phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn là thị trường trong nước, do đó doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Chiến lược hướng ngoại còn tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở thành nguồn tích lũy vốn chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa. Những chính sách đòn bẩy thúc đẩy chiến lược hướng ngoại Trước hết là chính sách tỉ giá hối đoái.Khi thực thi chiến lược hướng ngoại, điều cần thiết là duy trì tỉ giá hối đoái sao cho các nhà sản xuất trong nước có lãi khi bán các sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Thứ hai, cần trợ cấp cho một số sản phẩm xuất khẩu để khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng xuất khẩu.Việc xâm nhập các thị trường xuất khẩu có rủi ro hơn so với sản xuất sau các hàng rào bảo hộ cho thị trường trong nước.Tuy nhiên, khi các nhà sản xuất đã biết cách thích ứng với thị trường quốc tế thì sẽ mở ra cơ hội lớn hơn trong kinh doanh. Thứ ba, chính phủ cần tạo ra sức hấp dẫn cho việc sản xuất hàng xuất khẩu.Nếu chính phủ muốn các nhà sản xuất hướng ra thị trường quốc tế thì cần phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản xuất để tiêu thụ ở thị trường trong nước. PHẦN II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô: Thực trạng: Như đã đề cập ở phần Cơ sở lý luận, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô chủ yếu được các nước đang phát triển sử dụng, trong điều kiện trình độ sản xuất còn thấp và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Đầu tiên, chúng tôi sẽ điểm qua tình hình xuất khẩu sản phẩm thô của Việt Nam từ năm 2008 đến hết quý I năm 2011. BẢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA XUẤT KHẨU THÔ TỪ NĂM 2008 ĐẾN HẾT QUÝ I NĂM 2011 (phần trăm, triệu USD) 2008 2009 2010 Hết quý I 2011 Tỉ trọng Trị giá Tỉ trọng Trị giá Tỉ trọng Trị giá Tỉ trọng Trị giá Tổng XK 62906 56584 71629 19245 Rau quả 0.63 396 0.76 431 0.63 451 0.8 150 Hạt điều 1.46 920 1.50 849 1.59 1136 1.06 204 Cà phê 3.21 2022 3.02 1710 1.62 1163 5.44 1047 Chè 0.23 147 0.31 178 0.23 197 0.18 35 Hạt tiêu 0.50 313 0.63 356 0.60 425 0.63 121 Gạo 4.61 2902 4.70 2662 4.48 3212 4.41 849 Than đá 2.30 1444 2.34 1326 2.16 1549 1.09 210 Dầu thô 16.61 10450 10.97 6210 6.90 4944 8.09 1557 Cao su 2.50 1579 2.12 1199 3.32 2376 4.02 774 (Nguồn: Tổng Cục Thống kê) Nhận xét, đánh giá: Xuất khẩu chủ yếu ở nhóm sản phẩm khoáng sản và nông sản; Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô trong kim ngạch xuất khẩu qua các năm là cao, luôn ở trên 20%; Trị giá sản phẩm thô xuất khẩu có xu hướng tăng nhưng xét về tỷ trọng thì giảm tương đối so với năm trước đó; Dầu thô chiếm tỷ trọng cao nhất trong nhóm sản phẩm thô xuất khẩu nhưng bắt đầu giảm mạnh vào năm 2009 do sự ra đời của nhà máy lọc dầu Dung Quất với công suất chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm; Các mặt hàng nông nghiệp có tỷ trọng nhỏ nhưng đã mang lại giá trị “bội thu” vào năm 2010. Ưu điểm của chiến lược này đối với Việt Nam Thứ nhất, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo điều kiện cho kinh tế Việt Nam phát triển theo chiều rộng, không những tận dụng các nguồn tài nguyên sẵn có mà còn thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà còn giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Theo tổng cục thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp khai thác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (theo giá so sánh 1994) là 22024,3tỷ đồng vào năm 2008 và đạt mức 23898,6 tỷ đồng vào năm 2009. Từ khi xuất khẩu dầu mỏ, Việt Nam đã giải quyết việc làm trực tiếp cho gần 10 nghìn lao động, giải quyết phần nào nạn thất nghiệp. Thứ hai, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo ra sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp chế biến trên thế giới đòi hỏi phải gia tăng xuất khẩu sản phẩm thô, nó lại có tác động ngược lại với các ngành cung ứng nguyên liệu tạo ra “mối liên hệ ngược”, điều này thúc đẩy chúng ta giảm chi phí sản xuất và tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ ba, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hóa. Đối với Việt Nam, xuất khẩu thô thời gian vừa qua cũng có những đóng góp đáng kể cho nguồn tích lũy của đất nước. Là một nước đang phát triển và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị, với nguồn thu hàng năm về ngoại tệ từ xuất khẩu sản phẩm sơ chế đã tạo ra nguồn vốn đáng kể để nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghiệp. Trở ngại Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô ở Việt Nam chịu 4 trở ngại (như đã đề cập ở phần Cơ sở lý luận). Để làm rõ hơn, chúng tôi sẽ tập trung phân tích sản phẩm than. Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu hơn 32,5 triệu tấn than, thu được 1,018 tỉ USD. Nhưng nếu phải nhập khẩu than để cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện, thì tại thời điểm năm 2010, số tiền trên chỉ đủ để mua lại 7,5 triệu tấn. Trong bốn năm tính từ 2004, lượng than xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp năm lần và đạt mức 32,535 triệu tấn vào năm ngoái. Đó là chưa tính đến lượng than bị xuất khẩu lậu bình quân đến 10 triệu tấn/năm. Trước việc xuất khẩu than ồ ạt như vậy, từ năm 2006 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cảnh báo nếu không có biện pháp hạn chế thì nguồn tài nguyên quan trọng này sẽ sớm bị cạn kiệt, ảnh hưởng xấu đến bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế. Nếu như năm 2009, than xuất khẩu bình quân gần 32,2 USD/tấn (giá bán tại cảng Quảng Ninh). Cơn sốt giá dầu thô trên thị trường thế giới trong năm 2010 đã làm cho than xuất khẩu tăng giá đột biến và hiện đã lên đến 60 USD/tấn. Như vậy, chỉ riêng với số than đã xuất đi vào năm 2009, Việt Nam đã mất gần một tỉ USD do chênh lệch giá. Nhưng thiệt hại đó vẫn chưa bằng thiệt hại nếu phải nhập khẩu than với giá 2010.Theo các chuyên gia của TKV, hiện tại, giá một tấn than nhập về tới Việt Nam khoảng 135 USD (bao gồm phí vận chuyển).Điều này đồng nghĩa với số tiền thu từ xuất khẩu than hiện nay chưa đủ để mua lại một nửa lượng than tương ứng trong tương lai. Đó là chưa tính đến trường hợp biến động giá cả. Với nhu cầu tiêu thụ điện đang tăng 17-20%/năm, thời điểm Việt Nam phải nhập khẩu than không còn xa. Theo Bộ Công Thương, để đáp ứng nhu cầu điện cho nền kinh tế trong giai đoạn từ nay đến 2025, mỗi năm Việt Nam cần thêm 4.000 MW điện. Do tiềm năng thủy điện đã khai thác gần hết, nguồn khí đốt thiên nhiên có thể khai thác không nhiều, nên vấn đề phát triển nguồn điện trong những năm tới sẽ phụ thuộc phần lớn vào các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than. Biện pháp khắc phục Ngoài Nghị quyết về “Trật tự kinh tế quốc tế mới” và “Chương trình tổng hợp về hàng hóa”, chúng tôi đưa ra một số biện pháp cụ thể cho từng nhóm ngành như sau: Thứ nhất, sản phẩm tài nguyên khoáng sản: Ban hành và sửa đổi luật hướng tới việc khai thác và sử dụng tài nguyên, khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả đảm bảo phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Nâng cao công nghệ chế biến nhằm tận thu tối đa các sản phẩm khoáng sản có ích và phục vụ cho nhu cầu chế biến tài nguyên, khoáng sản trong nước. Thúc đẩy hợp tác, liên doanh, đầu tư khai thác khoáng sản. Đi kèm với đó là giải quyết các vấn đề như thủ tục hành chính, thu chi minh bạch,… Xây dựng các trung tâm dự trữ khoáng sản để có thể đảm bảo nguồn tài nguyên phục vụ cho tương lai phát triển của đất nước. Thứ hai, sản phẩm nông sản: Hướng việc trồng trọt có kế hoạch, tạo các vùng, quy hoạch các khu trồng trọt cụ thể làm tiền đề. Nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản ở nước ta. Đẩy mạnh việc trồng trọt có kế hoạch, có chiến lược. Thúc đẩy việc kí kết trước các hợp đồng thu mua nông sản. Nâng cao công nghệ chế biến, bảo quản và cải thiện quá trình chuyên chở các sản phẩm nông sản. Nhà nước cần có những chính sách thích hợp để giúp phát triển việc xuất khẩu sản phẩm nông sản. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu của Việt Nam Hiện nay Việt Nam đang trong tình trạng là quốc gia nhập siêu, điều này ảnh hưởng không tốt đến các cân thương mại nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nước ta nói chung. Để hạn chế diều này, nước ta đã và đang áp dụng một số chính sách trong chiến lược thay thế hàng nhập khẩu nhằm cải thiện tình hình ngoại thương trong nước, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO. Những chính sách trong chiến lược thay thế hàng nhập khẩu của Việt Nam như sau: Cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” Cuộc vận động này được Bộ Chính trị phát động vào tháng 8 – 2010 nhằm phát huy lòng yêu nước, phát triển văn hóa tiêu dùng, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Nhiều năm nay, được sự hỗ trợ của giới truyền thông, hàng sản xuất trong nước đã từng bước thuyết phục người tiêu dùng; trong các siêu thị, mặt hàng nội chiếm khối lượng khá lớn, các vùng sâu vùng xa lâu nay bị bỏ ngỏ cho hàng nhập lậu đã bắt đầu làm quen với hàng sản xuất trong nước. Cụ thể, sau hơn một năm thực hiện cuộc vận động, tại các siêu thị lơn như BigC, Fivimart, Hapro, sản phẩm nhập khẩu đã giảm đáng kể, chỉ chiếm khoảng 20-30% trong tổng lượng hàng hóa. Không chỉ tăng về số lượng được bày bán mà lượng tiêu thụ thời gian qua cũng đã tăng đáng kể. So với cùng kỳ năm trước, lượng hàng hóa trong nước sản xuất được bán ra đã tăng thêm khoảng 20%. Nguyên nhân chính là chất lượng, mẫu mã hàng hóa đã được cải tiến nhiều và giá cả cũng đã cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn có nhiều người Việt còn dè dặt với hàng Việt. Nguyên nhân chính của vấn đề này chính là chất lượng hàng hóa không ổn định. Nhiều doanh nghiệp dường như đang ăn theo cuộc vận động này, chạy đua sản xuất sản phẩm mà không chú trọng vào đổi mới, phát triển công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, hệ thống phân phối sản phẩm còn chưa đáp ứng được so với yêu cầu của người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ của Việt Nam hiện được nhiều chuyên gia nhận định là còn manh mún, phát triển tự phát, quy mô không đồng đều nên sức cạnh tranh còn yếu. Thực hiện nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để đầu tư sản xuất tại chỗ; chế biến một số sản phẩm công nghệ cao trong nước: Sở dĩ phải nhập khẩu nguyên phụ liệu vì trình độ công nghệ, khoa học, kỹ thuật của nước ta chưa đủ để có thể sản xuất sản phẩm trọn gói. Việc nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm, linh kiện để sản xuất thành hàng hóa hoàn chỉnh sẽ tốn ít chi phí hơn so với nhập trực tiếp sản phẩm về trong nước. Bên cạnh đó, đa số các sản phẩm được sản xuất từ nguyên phụ liệu nhập khẩu đều được mang đi xuất khẩu nên điều này giúp tạo uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế, làm tăng kim ngạch xuất khẩu cho cả nước. Hiện nay, nước ta đang thực hiện chính sách này đối với một số loại hàng hóa như: nguyên phụ liệu ngành dệt may, da, giày; chất dẻo nguyên liệu; linh kiện điện tử, linh kiện xe máy… Lấy ví dụ về hai loại nguyên phụ liệu được nhập khẩu nhiều nhất: Đối với nguyên phụ liệu mặt hàng dệt may, mặc dù nguồn nguyên liệu trong nước trong tương lai gần có thể đáp ứng cho ngành may mặc với giá rẻ hơn, lại đỡ tốn chi phí và thời gian vận chuyển, nhưng hiện tại các doanh nghiệp lại khá dè dặt trong việc dùng nguyên liệu nội địabởi chất lượng không ổn định, giá cả và thủ tục hoàn thuế chưa rõ ràng, từ đó có thể làm giảm uy tín và kim ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng này. Tính riêng quí I năm 2011, nước ta nhập khẩu 1,4 tỉ USD vải, xuất khẩu 2,8 tỉ thành phẩm dệt may; đối với mặt hàng giày da, nhập 632 triệu USD, xuất thành phẩm đạt 1,3 tỉ USD. Đối với các mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, linh kiện điện tử. Hiện nay, nước ta đã có hai khu công nghệ cao, có khả năng lắp ráp các sản phẩm điện tử với giá rẻ, chất lượng ổn định. Thay vì nhập khẩu trọn gói sản phẩm như trước đây, chúng ta có thể lắp ráp ngay trong nước sau đó xuất khẩu, tạo ra giá trị cao hơn. Tuy nhiên, các mặt hàng này hiện tại thì mức độ nhập khẩu đều cao hơn so với xuất khẩu. Tính từ giai đoạn 2001-2010, nhập cao hơn hơn xuất từ 3 đến trên 6 lần. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư để phát triển và mở rộng sản xuất trong nước: Đây được xem như là một trong những chính sách quan trọng trong chiến lược thay thế hàng nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này. Nếu xét nguyên nhân chính làm người dân dè dặt với hàng trong nước là vì chất lượng chưa thuyết phục cùng với chiến lược marketing chưa phát huy hiệu quả. Để khắc phục được điều này thì cần phải có nguồn vốn đầu tư để phát triển và mở rộng, nâng cao chất lượng và tiếp cận sâu hơn với thị trường. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 3 tháng đầu năm 2011, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 2,372 tỷ USD, bằng 66,9% so với cùng kỳ 2010. Trong 3 tháng đầu năm 2011, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 2,54 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2010. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (ĐTNN) (kể cả dầu khí) trong 3 tháng đầu năm 2011 dự kiến đạt 10,457 tỷ USD, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm 2010 và chiếm 52,4% kim ngạch xuất khẩu. Nếu không tính dầu thô, khu vực ĐTNN dự kiến xuất khẩu 8,9 tỷ USD, chiếm 46,2% tổng xuất khẩu và tăng 31,3% so với cùng kỳ 2010. Nhập khẩu của khu vực ĐTNN tính đến cuối tháng 3 năm 2011 đạt 9,488 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm 2010 và chiếm 42,6% kim ngạch nhập khẩu. Tính chung 3 tháng, khu vực ĐTNN xuất siêu 969 triệu USD, trong khi cả nước nhập siêu 3,029 tỷ USD; nếu không tính xuất khẩu dầu thô, khu vực ĐTNN nhập siêu 588 triệu USD. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đứng thứ nhất với 76 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 1,55 tỷ USD, chiếm 65,37% tổng vốn đầu tư đăng ký từ đầu năm đến nay. Đứng thứ 2 là lĩnh vực xây dựng với 28 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 205,84 triệu USD, chiếm 8,68% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực bán buôn bán lẻ, hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm lần lượt là 50,31 triệu USD và 30,84 triệu USD. Tiến hành sản xuất nguyên, nhiên liệu: Bên cạnh nhập khẩu nguyên, nhiên liệu phục vụ sản xuất thì nước ta cũng từng bước thực hiện tự sản xuất các sản phẩm này trong nước để xuất khẩu hoặc sử dụng trong nước để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và giảm chi phí. Trong đó kể đến như sợi cho công nghiệp dệt may, xăng dầu. Đầu năm 2011, xuất khẩu sợi đạt khoảng 1,9 tỉ USD, xăng dầu sản xuất trong nước đã sản xuất đạt gần 1,4 triệu tấn xăng dầu các loại. Trong quý II-2011, nhà máy lọc dầu Dung Quất dự kiến sẽ sản xuất và tiêu thụ đạt 1,5 triệu tấn xăng dầu các loại. Ngoài ra, nước ta còn thu được lợi nhuận từ việc sản xuất và sử dụng các nguyên vật liệu trong nước như ngành gỗ, sản xuất thức ăn chăn nuôi, sản xuất giấy, chế biến sữa… Vai trò của nhà nước Trong điều kiện kinh tế mở hiện nay thì sự điều tiết và hỗ trợ của nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng. Xét về tất cả các hoạt động trong chiến lược thay thế hàng nhập khẩu thì sự hỗ trợ của nhà nước chiếm một phần đáng kể. Ví dụ: cuộc vận động “Người Việt dùng hàng Việt”, các biện pháp thu hút chính sách đầu tư nước ngoài cùng với các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước. Sau khi gia nhập WTO, chính phủ cũng đã áp dụng hàng loạt biện pháp như trợ giá nông phẩm, đẩy mạnh thâm canh, nhập khẩu nhiều giống lúa mới năng suất cao, xây dựng hệ thống tưới tiêu, quy định việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên môi trường, thực hiện các kế hoạch phát triển vùng nông thôn lạc hậu, cải tạo và xây dựng mới hệ thống đường xá, cầu cống, bảo hộ mậu dịch, thuế quan... Sau một thời gian áp dụng chiến lược này, các nước đã tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn để đầu tư cho phát triển công nghiệp, ngành kinh tế công nghiệp ra đời với cách quản lý hoàn toàn mới mẻ. Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu Vai trò của xuất khẩu đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Thứ nhất, xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cần nhập khẩu và tích lũy phát triển sản xuất. Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu được xem là yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế: Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu gây phản ứng dây chuyền giúp các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả. Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước. Thứ năm, đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản lượng sản xuất của quốc gia sẽ tăng thông qua mở rộng với thị trường quốc tế. Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển xuất khẩu có tác động tích cực và có hiệu quả đến nâng cao mức sống của nhân dân. Thứ bảy, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là hướng phát triển có tính chất chiến lược để đưa nước ta thành nước công nghiệp mới trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua: Sơ bộ tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ ngày 01/3 đến ngày 15/3/2011: Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 3/2011 đạt 3,27 tỷ USD, tăng 4,7%  so với 15 ngày cuối tháng 02/2011. Các nhóm hàng có kim ngạch tăng nhiều nhất trong nửa đầu tháng 03/2011 là dệt may: tăng 102 triệu USD; gạo: tăng 79 triệu USD; dầu thô: tăng 64 triệu USD; gỗ: tăng 35 triệu USD; thủy sản: tăng 33 triệu USD… Trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ này đạt 1,49 tỷ USD, tăng nhẹ so với 15 ngày cuối tháng 02/2011, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm này đến hết ngày 15/3/2011 lên 7,19 tỷ USD, tăng 34,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 46,5% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước. Cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, mà nguyên nhân là từ khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ, đã gây những ảnh hưởng bất lợi đối với nền ngoại thương Việt Nam, song nhìn chung, tình hình xuất khẩu của Việt Nam vẫn giữ được xu thế phát triển tốt, thể hiện ở những mặt sau: Mở rộng thêm một bước thị trường xuất khẩu; Vận chuyển đường biển phục vụ thương mại tăng nhanh, mức tăng lượng khách du lịch quốc tế tuy có giảm nhưng giảm chậm; Tăng cường hơn nữa buôn bán với Trung Quốc. Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu tồn tại trong hoạt động ngoại thương Việt Nam hiện nay là: Nhập siêu lớn; Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu không hợp lý; Nguyên liệu sản phẩm gia công thô còn chiếm tỉ trọng lớn; Sản phẩm gia công kỹ thuật cao thuộc các lĩnh vực công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng, hàng thủ công… vẫn chiếm tỉ trọng thấp; Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản, thuỷ sản và khoáng sản, những sản phẩm này bị hạn chế bởi sản lượng khai thác và diện tích gieo trồng, những mặt hàng xuất khẩu khác, như giày da hoặc hàng dệt, thì khả năng phát triển có hạn, có những sản phẩm bị phụ thuộc vào thị trường và nguyên liệu nước ngoài, cho nên xuất khẩu bị ảnh hưởng rất lớn bởi thị trường quốc tế; Buôn bán bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ quốc tế, từ nửa cuối năm 2008, xuất khẩu bắt đầu giảm; Trong buôn bán với Trung Quốc còn những vấn đề cần phải giải quyết; Trong thời gian tới, tình hình kinh tế thế giới sẽ còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn và nhân tố không xác định dự báo sẽ tiếp tục tăng lên nhiều. Xét tình hình hiện nay, thì thấy rằng sự trượt dốc của nền kinh tế thế giới đã rõ ràng, cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng quyết liệt, giá hàng trên thị trường quốc tế biến động lớn, tất cả những vấn đề này sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với nền ngoại thương Việt Nam. Như vậy, dự báo ngoại thương của Việt Nam tuy sẽ gặp khó khăn, nhưng cũng có những cơ hội, nếu như nắm chắc được tình hình, kịp thời đưa ra những biện pháp đối phó ổn thoả, thì kim ngạch buôn bán vẫn có thể đạt được mức tăng nhất định. Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực: Trong các mặt hàng xuất khẩu của một doanh nghiệp, người ta thường chia thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, hàng xuất khẩu quan trọng và hàng xuất khẩu thứ yếu. Việc phân loại các mặt hàng như trên nhằm phát hiện vai trò, vị trí của từng loại mặt hàng qua đó xác định được thị trường tiêu thụ và cách thức để khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, khai thác những yếu tố thuận lợi của từng thị trường tiêu thụ để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Việc xác định mặt hàng chủ lực có vai trò quan trọng, giúp doanh nghiệp tập trung đầu tư, cải tiến công nghệ, đứng vững trên thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng quan hệ thương mại và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tăng nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu Vốn đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay gồm: Vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài gồm có: ODA: Vốn hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm ODA không hoàn lại và ODA với lãi suất ưu đãi, hàm chứa 25% vốn không hoàn lại; FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài; Vốn vay thương mại từ nước ngoài, vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế, viện trợ nhân đạo. Lập các khu chế xuất: Các khu chế xuất góp phần: Thu hút được vốn và công nghệ; Tăng cường khả năng xuất khẩu tại chỗ; Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động; Góp phần làm cho nên kinh tế nước chủ nhà hòa nhập với nền kinh tế thế giới và của các nước trong khu vực. Nhà nước thực hiện bảo hiểm đối với xuất khẩu Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhiều trường hợp để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, thương nhân thực hiện bán chịu trả chậm hoặc thực hiện tín dụng hàng hóa với lãi suất ưu đãi cho người mua hàng nước ngoài. Bán hàng như vậy có những rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong những trường hợp đó, để khuyến khích thương nhân mạnh dạn đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách bán chịu, các quỹ bảo hiểm xuất khẩu của nhà nước đứng ra đền bù nếu bị mất vốn. Tỉ lệ đền bù có thể lên tới 100% vốn bị mất, nhưng thường tỉ lệ đền bù khoảng 50-60% khoảng tín dụng để các nhà xuất khẩu buộc phải quan tâm việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm đến thu tiền của nhà nhập khẩu sau khi hết thời hạn tín dụng. Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu: Tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu trừ việc nó mang hình thức một khoản cho vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua. Nhà nước sẽ cho nước ngoài vay vốn với quy mô lớn (lãi suất ưu đãi) để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hóa của nước cho vay. Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu: Đây là sự ưu đãi về tài chính mà nhà nước dành cho các doanh nghiep xuất khẩu khi họ bán được hàng ra thị trường bên ngoài. Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp cho các doanh nghiệp tăng thu nhập; tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu. Về mức độ trợ cấp: Xu hướng chung là tăng cường trợ cấp gián tiếp, trợ cấp trực tiếp có xu hướng giảm vì nếu phát triển loại hình này nhìn chung không phù hợp với xu hướng mậu dịch thế giới ngày càng tự do hóa. Chính sách về tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng trong quá trình thực hiện chiến lược đối ngoại, cụ thể là đẩy mạnh xuất khẩu để thu về nhiều ngoại tệ cho đất nước. Tỷ giá hối đoái luôn bị tác động bởi tình hình lạm phát trên thị trường nội địa và thị trường thế giới. Nhà nước phải tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo các quá trình lạm phát có liên quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện cạnh tranh thành công trên thị trường quốc tế. Các biện pháp thuộc về cơ chế tổ chức quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu của nhà nước: Nhóm biện pháp này thực sự ra là những hình thức trợ cấp gián tiếp cho xuất khẩu, có thể thực hiện những biện pháp này như sau: Nhà nước lập các viện nghiên cứu để tổng hợp và cung cấp thông tin cho nhà xuất khẩu; Nhà nước tổ chức các trường đào tạo các chuyên gia, cán bộ khoa học kĩ thuật để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu; Nhà nước lập các phòng thương mại thuộc đại sứ quán của các nước mà nước ta có quan hệ ngoại giao để nghiên cức chính sách thương mại, luật, thị trườnng hàng hoá…; Nhà nước đứng ra kí kết các hiệp định về thương mại, hiệp định về hợp tác kinh doanh trên cơ sở đó để thúc đẩy xuất nhập khẩu; Mức trợ cấp của Chính phủ đặc biệt lớn cho lĩnh vực nông sản để giúp hàng hóa này có mức cạnh tranh cao với các mặt hàng khác. PHẦN III. KẾT LUẬN Như vậy, việc áp dụng các chiến lược ngoại thương khác nhau trong từng thời kỳ đã mang lại cho Việt Nam những thuận lợi và khó khăn nhất định. Cụ thể, chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo điều kiện phát triển kinh tế theo chiều rộng, tuy nhiên dễ dẫn đến phát triển kinh tế không bền vững; chiến lược thay thế sản phẩm nhập khẩu giúp tăng khả năng sản xuất trong nước và hạn chế nhập khẩu nhưng làm giảm cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và nảy sinh nhiều tiêu cực; chiến lược hướng ra thị trường quốc tế tạo khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, nâng cao cạnh tranh, song lại làm tăng nguy cơ lạm phát. Vì vậy, để phát triển ngoại thương nói riêng và nền kinh tế nói chung, Việt Nam cần xây dựng một lộ trình rõ ràng, áp dụng hợp lý các chiến lược ngoại thương đã nêu, hướng tới đẩy mạnh chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu đồng bộ với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Bằng những nỗ lực vì lợi ích lâu dài của nền kinh tế đất nước, những biện pháp điều chỉnh ngắn hạn và chiến lược phát triển dài hạn mới có thể được kết hợp một cách đồng bộ và hài hòa để đạt được cả hai mục tiêu mà tất cả chúng ta đều mong muốn, đó là tăng trưởng và ổn định. TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động – Xã hội, tr305-336. Các trang web

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChiến lược ngoại thương việt nam thời đại toàn cầu hóa.doc
Tài liệu liên quan