Chiến lược ngoại thuơng

Như vậy, Việt Nam hiện đang theo đuổi chiến lược hướng về xuất khẩu. Chiến lược này hiện đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng bên cạnh đó vẫn không tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Muốn phát triển các ngành hàng sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường thế giới và trong khu vực, cần phải có sự nỗ lực rất lớn từ phía các doanh nghiệp và Chính phủ, để Việt Nam thực sự có khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Hay nói một cách tổng quát hơn, tăng cường công tác phân tích, đánh giá tình hình và nâng cao chất lượng hàng loạt dự báo để định hướng lại hoạt động này đang là vấn đề mang tính thời sự hiện nay. Trong đó, vấn đề có ý nghĩa mấu chốt là tiếp tục phát huy những tiềm năng và lợi thế để đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mới, tạo ra nguồn động lực mới, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhanh hơn nữa.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2357 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược ngoại thuơng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạt 67,9%, thuộc loại cao ở châu Á và thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 568 USD, cao nhất từ trước tới nay. Năm 2008 là năm hoạt động xuất khẩu của nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đó là kinh tế thế giới đang tăng trưởng chậm lại, đồng USD không ổn định, giá cả hàng hóa đầu vào tăng cao và phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Các thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản trong những tháng cuối năm bị giảm sút do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, song nhìn chung tình hình ngoại thương Việt Nam vẫn giữ được xu thế phát triển tốt. Theo con số của Tổng cục thống kê VN, căn cứ theo tỷ giá của năm 1994, GDP của năm 2008 đã tăng 6,23%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 29,5%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 01/2009 ước tính đạt 3,8 tỷ USD, giảm 18,6% so với tháng 12/2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do sự giảm giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng cũng như nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam của một số thị trường quan trọng giảm sút như: Mỹ, EU, Nhật Bản. Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 1,7 tỷ USD, giảm 21,9% so với tháng 01/2008; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô đạt 1,7 tỷ USD, giảm 13,7%. Bên cạnh những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 130 triệu USD, gấp 2,5 lần tháng 01/2008 (lượng gấp 2,3 lần). Tháng 2/ 2009, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá hai tháng đầu năm đạt 16,31 tỷ USD, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, xuất khẩu xấp xỉ 8,8 tỷ USD, tăng 3,9% và nhập khẩu là 7,53 tỷ USD, giảm 44,6%. Nhờ có xuất khẩu tăng mạnh nên cán cân thương mại hàng hoá hai tháng đầu năm thặng dư gần 1,25 tỷ USD (riêng tháng 2 thặng dư 840 triệu USD). 1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: Giai đoạn 2001-2005, qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đều đạt và vượt các chỉ tiêu đặt ra cho giai đoạn 5 năm đầu của Chiến lược xuất khẩu 2001- 2010. Trong đó, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trung bình cả giai đoạn đạt 17,5%/năm vượt 1,5% so với chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược là 16%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt trên 32,4 tỷ USD, vượt hơn 4 tỷ USD so với chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược là 28,4 tỷ USD. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trong giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 44,7% năm 2000 lên 61,3% năm 2005 so với chỉ tiêu đặt ra trong Chiến lược là 66,3%. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu diễn ra không đều trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm đầu, 2001 - 2002, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình chỉ đạt mức 7,4%/năm, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu trung bình đặt ra là 16%/năm. Trong 3 năm cuối, 2003 - 2005, hoạt động xuất khẩu đã có sự bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng đạt mức bình quân 24,7%/năm. Năm 2006 mặc dù xuất khẩu gặp nhiều biến động thị trường và các rào cản thương mại mới. Nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt 39,6 tỷ USD, vượt 4,9% so với kế hoạch, tăng 22,1% so năm 2005. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu cả nước tăng 21,5% so với năm 2006, vượt 4,1% so với kế hoạch do chính phủ đặt ra là 17,4%. Năm 2008, cuộc khủng hoảng tiền tệ quốc tế, mà nguyên nhân là từ khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ, đã gây những ảnh hưởng bất lợi đối với nền ngoại thương, nhưng Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 29,5%, GDP của năm 2008 đã tăng 6,23%. 2. Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu: Giai đoạn 2001-2005, khu vực thị trường châu Á đã giảm dần tỷ trọng từ 57,3% năm 2001 xuống 50,5% năm 2005 song vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Âu có xu hướng giảm nhẹ nhưng giá trị tuyệt đối năm sau vẫn tăng so với năm trước (giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 13,5%/năm) và đóng góp trên 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong khi đó, xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Mỹ tăng khá đột biến, chiếm tỷ trọng từ 8,9% năm 2001 lên 21,3% vào năm 2005; xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh từ 7,1% năm 2001 lên 20,2% năm 2005. Khu vực thị trường châu Phi có tỷ trọng tăng từ 1,2% năm 2001 lên 2,1% năm 2005 và tăng được kim ngạch xuất khẩu gấp gần 4 lần trong giai đoạn này từ 176 triệu USD năm 2001 lên 681 triệu USD năm 2005. Tỷ trọng của khu vực thị trường châu Đại Dương tăng chậm và khá ổn định từ 7,1% năm 2001 lên 8,0% năm 2005. Năm 2006, trong số các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, Mỹ vẫn dẫn đầu với kim ngạch ước đạt 8 tỷ USD; thị trường châu Âu là 7,647 tỷ USD, trong đó các nước EU chiếm 6,8 tỷ USD; Nhật Bản: 5,2 tỷ USD; Trung Quốc 3,2 tỷ USD; khối Asean đạt 6,56 tỷ USD. Năm 2007, thị trường xuất khẩu hàng hoá tiếp tục phát triển, hầu hết các thị trường lớn đều tăng so với năm trước. 10 thị trường đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó Mỹ 10 tỷ USD, tiếp đến là EU 8,7 tỷ USD; ASEAN 8 tỷ USD; Nhật Bản 5,5 tỷ USD và Trung Quốc,Australia, Iraq. Các thị trường xuất khẩu truyền thống châu Mỹ, châu Âu, nếu như những năm trước có mức tăng trưởng hàng đầu thì trong năm 2008, mức tăng trưởng đã chậm lại: châu Mỹ tăng 21,9%, châu Âu là 26,3%. Trong khi đó, khu vực thị trường châu Phi đã tăng tới 95,7%, châu Á tăng 37,8% và châu Đại Dương tăng 34,9%. Chuyển động đó cũng đã bắt đầu thể hiện trong cơ cấu tổng kim ngạch. Cụ thể, thị trường châu Á chiếm 44,5% (tăng 2,6% so với năm 2007), châu Âu là 18,3% (tăng 0,4%), châu Mỹ là 20,6% (giảm 1,3%), châu Đại Dương chiếm 6,7% (tăng 0,3%) và châu Phi là 1,9% (tăng 0,63%). 3. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu: Dưới đây là cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam giai đoạn năm 2006 -2009: 3.1.Nhóm hàng nông lâm thủy sản : a. Cà phê : Khối lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2006 là 981 nghìn tấn, vượt 15,4% so với kế hoạch năm, tăng 9,9% về lượng và trị giá là 1,22 tỷ USD, tăng 65% so với cùng kỳ năm 2005.Tổng lượng cà phê xuất khẩu năm 2007 lên gần 1,23 triệu  tấn, thực hiện vượt 44,6% kế hoạch năm.Đến lượng cà phê xuất khẩu năm 2008 là 1,06 triệu  tấn, giảm 13,8% so với năm 2006 và chỉ hoàn thành có 96,3% kế hoạch năm. Trị giá kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2008 đạt 2,11 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2007. Các tháng đầu năm 2009,khối lượng cà phê đạt 217 triệu USD, giảm 30,2%( tháng 1/2009);đến tháng 2 xuất khẩu đạt gần 153 nghìn tấn, tăng 11,6 % so với tháng trước. Hết tháng 2, tổng lượng cà phê xuất khẩu là 289 nghìn tấn, đạt kim ngạch 444 triệu USD, tăng 11,9% về lượng và giảm 8,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Đức là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong năm với 151 nghìn tấn; tiếp theo là Mỹ: 131 nghìn tấn; Tây Ban Nha: 75 nghìn tấn; Ý: 53 nghìn tấn;… Các thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cà phê của Việt Nam là Đức:  177 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 135 nghìn tấn, Tây Ban Nha: 96 nghìn tấn Thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 12 tháng qua là Đức: 136 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 106 nghìn tấn, Tây Ban Nha: 88 nghìn tấn, Ý: 86 nghìn tấn.... Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 2tháng 2009 là Bỉ: 52 nghìn tấn, Đức: 35,1 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 27,6 nghìn tấn, Ý: 27,5 nghìn tấn.... b. Cao su : Năm 2006 lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam 708 nghìn tấn, tăng 20,6% so với năm 2005, trị giá đạt 1,29 tỷ USD, vượt 10,6% kế hoạch năm. Giá xuất khẩu cao su đạt mức đỉnh điểm vào giữa quí III, nhưng cuối năm đã giảm mạnh. Năm 2007 đạt 715 nghìn tấn, tăng 1% và chỉ hoàn thành có 94,1% kế hoạch năm. Tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 lên 658 nghìn tấn, giảm 7,9% và chỉ hoàn thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên, do năm 2008 giá bình quân tăng 25% (tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch xuất khẩu cao su cả năm đạt hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007. Lượng xuất khẩu cao su tháng 2/2009 đạt 37 nghìn tấn, giảm 4,3% so với tháng trước, nâng tổng lượng cao su xuất khẩu 2 tháng năm 2009 lên 75,7 nghìn tấn, giảm 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu cao su bình quân vẫn tiếp tục giảm mạnh trong 2 tháng qua, giảm 41,9% tương đương với giảm 971 USD/tấn so với 2 tháng đầu năm 2008 nên trị giá là 101,8 triệu USD giảm 50,2%. Năm 2006, xuất khẩu sang Trung Quốc là 470 nghìn tấn, chiếm 66,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, tiếp theo là Hàn Quốc: 32 nghìn tấn;  Đức: 30 nghìn tấn; Đài Loan: 22 nghìn tấn; Nga: 20 nghìn tấn,… Năm 2007, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 428 nghìn tấn, chiếm tới gần 59,9% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 37 nghìn tấn, Malaysia gần: 35 nghìn tấn, Đài Loan gần: 33 nghìn tấn,... Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 29 nghìn tấn, Đức: 24 nghìn tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia gần: 21 nghìn tấn,… Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của cao su Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2009 với 52 nghìn tấn, tiếp theo là Hàn Quốc: 4,7 nghìn tấn, Đài Loan: 2,8 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 2,7 nghìn tấn, Malaysia: 2,1 nghìn tấn, Đức: gần 2 nghìn tấn,… c. Điều : Lượng điều xuất khẩu 2 tháng năm 2009 lên 20,4 nghìn tấn, tăng nhẹ (0,2%) so với cùng kỳ năm 2008. Đơn giá xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2009 là 4,55 nghìn USD/tấn, giảm 5,8% và kim ngạch 92,7 triệu USD, giảm 5,8% so với 2 tháng năm 2008. Các đối tác chính nhập khẩu mặt hàng hạt điều trong 2 tháng qua là Hoa Kỳ: 6,2 nghìn tấn, Trung Quốc: 5,7 nghìn tấn, Hà Lan: 2,6 nghìn tấn, Ôxtrâylia: hơn 1 nghìn tấn. Xuất khẩu sang 4 thị trường này chiếm 76,1% tổng lượng xuất khẩu của cả nước. d. Gạo : Lượng gạo xuất khẩu cả năm 2006 là 4,6 triệu tấn, giảm 11,6% so với năm 2005, thực hiện 92,9% kế hoạch năm, trị giá là 1,27 tỷ USD. Năm 2007 đạt gần 4,56 triệu tấn, giảm 1,8% so với năm trước. Đây là mặt hàng hiện đang rất có lợi thế về giá và thị trường nhưng nguồn cung đang gặp khó khăn do vấn đề an ninh lương thực nên chỉ có thể hoàn thành 91,2% kế hoach năm. Năm 2008 đạt 4,74 triệu tấn, tăng 4% so với năm trước và thực hiện được 105,4% kế hoạch năm. Giá bình quân xuất khẩu gạo cả năm là 610 USD/tấn, tăng 86,7% tương đương với tăng 283 USD/tấn, trị giá cả năm đạt 2,89 tỷ USD tăng 94,3% so với cùng kỳ năm 2007.1/2009, Bên cạnh những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 130 triệu USD, gấp 2,5 lần tháng 01/2008 (lượng gấp 2,3 lần).Tháng 2 năm 2009 xuất khẩu gần 740 nghìn tấn, tăng 143,6% so với tháng trước, nâng tổng lượng gạo xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2009 lên 1,04 triệu tấn tăng 131% so với cùng kỳ năm trước. Do cả yếu tố giá và lượng tăng nên kim ngạch xuất khẩu gạo 2 tháng đầu năm nay đạt gần 470 triệu USD tăng 151% so với 2 tháng năm 2008. 2006 thị trường Philippin là 1,51 triệu tấn, chiếm 33% lượng gạo xuất khẩu cả nước; tiếp theo là Malaysia: 505 nghìn tấn; Cuba: 453 nghìn tấn; Inđônêxia: 340 nghìn tấn; Bờ Biển Ngà: 213 nghìn tấn,… Năm 2007, Philippin là nước nhập khẩu gạo của Việt Nam nhiều nhất với 1,46 triệu tấn, tiếp theo là Inđônêxia: 1,17 triệu tấn, Cu ba: 457 nghìn tấn... Tính đến hết tháng 12 năm 2008, Việt Nam xuất khẩu gạo sang Châu Á là 2,68 triệu tấn, giảm 19,1% so với năm 2007 và chiếm 56,4% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước (trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,69 triệu tấn, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2007, các nước còn lại 986 nghìn tấn, giảm 46,7%); tiếp theo là Châu Phi: 1,18 triệu tấn, tăng 88%; Châu Mỹ: 547 nghìn tấn, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2007,… Hết tháng 2 năm 2009, xuất khẩu gạo sang châu Á là 627 nghìn tấn, chiếm 60,1% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Trong đó, Philippin tiếp tục là nước dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với 382 nghìn tấn, tăng 49,4% so với cùng kỳ năm 2008. Cơ cấu xuất khẩu gạo sang các châu lục theo tỷ trọng so với tổng lượng xuất khẩu của cả nước lần lượt là: châu Á: 60,1%, châu Phi: 25%, châu Mỹ: 6,6%, châu Âu: 5,2%, châu Đại Dương: 3,1%. e. Gỗ và sản phẩm gỗ : Kim ngạch cả năm 2006 là 1,93 tỷ USD (tăng 23,7% so với năm 2005), vượt 13,7% kế hoạch năm. Năm 2007 lên 2,4 tỷ USD, tăng 24,4 % nhưng chỉ hoàn thành  96,2% kế hoạch năm. Đến năm 2008 lên 2,83 tỷ USD, tăng 17,7 % nhưng chỉ hoàn thành 94,3% kế hoạch năm. Tháng 1/2009 tổng khối lượng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 200 triệu USD, giảm 31,8%.Trong tháng 2 xuất khẩu 154 triệu USD, giảm 24% so với tháng 1, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2009 lên 357 triệu USD, giảm 19,5% so với 2 tháng 2008. 2006 Gỗ và sản phẩm gỗ vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường chính là Mỹ: 744 triệu USD, tăng 31% so với năm 2005; EU là 502 triệu USD, tăng 10% ; Nhật Bản: 287 triệu USD, tăng 19%. 2007 Các nước  chính nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam là Hoa Kỳ: 948 triệu USD, Nhật Bản: 307 triệu USD, Anh: 196 triệu USD,... Tính đến hết tháng 12/2008, Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu nhóm mặt hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 1,06 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2007. Tiếp theo là thị trường EU: 795 triệu USD, tăng 24%; Nhật Bản: 379 triệu USD, tăng 23,4% ; Đức: 152 triệu USD, tăng 54,7%; Trung Quốc: 141 triệu USD, giảm 13,2%;... Trong 2 tháng đầu năm 2009, EU tiếp tục vượt Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu nhóm mặt hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 125 triệu USD, giảm 28,5% so với cùng kỳ năm 2008. Thị trường Hoa Kỳ nhập khẩu 123 triệu USD, giảm 11,8%; tiếp theo là thị trường Nhật Bản với 55 triệu USD, tăng 9,7%;... f. Hải sản : Đến hết tháng 12 năm 2006, trị giá xuất khẩu hải sản đạt 3,36 tỷ USD, tăng 22,9% so với năm 2005. Năm 2007 đạt 3,76 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước và hoàn thành vượt 1,7% kế hoạch năm. Đến năm 2008 lên 4,51 tỷ USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước và hoàn thành vượt 6,1% kế hoạch năm. Trong tháng 2 /2009 xuất khẩu gần 232 triệu USD, tăng 7,9% so với tháng 1. Tính đến hết tháng 2/2009, xuất khẩu hải sản của Việt Nam đạt 444 triệu USD, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm trước.  2006 EU (kim ngạch 726 triệu USD, tăng 67% so với năm 2005) đã vượt qua thị trường Mỹ (665 triệu USD, tăng 6%) để trở thành đối tác lớn thứ hai của Việt Nam về hải sản sau Nhật Bản (844 triệu USD, tăng 3%). 2007 Các thị trường chính của hàng hải sản Việt Nam là Nhật Bản: 754 triệu USD, Hoa Kỳ: 729 triệu USD, Hàn Quốc: 275 triệu USD, Đức: 147 triệu USD,...  Hết tháng 12/2008, trị giá hải sản xuất khẩu sang EU đạt 1,14 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản: 830 triệu USD, Hoa Kỳ: 739 triệu USD, Hàn Quốc: 302 triệu USD. Trị giá xuất khẩu mặt hàng này ở các thị trường khác là 1,5 tỷ USD, chiếm 33,3% tổng kim ngạch hải sản xuất khẩu của cả nước 1/2009 thủy sản đạt 250 triệu USD, giảm 18,6%; cà phê đạt 217 triệu USD, giảm 30,2%; Hết tháng 2/2009, trị giá hải sản xuất khẩu sang EU đạt 115 triệu USD, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm 2008; tiếp theo là Nhật Bản: 77,9 triệu USD, giảm 9,4%; Hoa Kỳ: 66,7 triệu USD, giảm 2,5%; Hàn Quốc: 32,6 triệu USD, giảm 9,8%. Trị giá xuất khẩu mặt hàng này ở các thị trường khác là 152 triệu USD, giảm 8,1% và chiếm 34,1% tổng kim ngạch hải sản xuất khẩu của cả nước. 3.2.Nhóm hàng công nghiệp : a. Hàng dệt may : Xuất khẩu hàng dệt may tháng 12/2006 đạt 493 triệu USD, tăng 11,8% so với tháng 11, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này năm 2006 lên 5,83 tỷ USD tăng 20,6% so với năm 2005.Năm 2007 đạt gần 7,75 tỷ USD, tăng 32,8 % so với cùng kỳ năm trước và vượt 10,7% kế hoach năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 đạt 9,12 tỷ USD, tăng 17,7 % so với cùng kỳ năm trước và thực hiện được 96% kế hoach.   Tháng 1/2009 hàng dệt, may đạt 550 triệu USD, giảm 33,2%; trị giá xuất khẩu nhóm hàng trong tháng 2/2009 là 563,6 triệu USD, giảm 24,1% so với tháng 1, nâng tổng kim ngạch 2 tháng lên 1,3 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm. Năm 2006, mặc dù chịu chế độ hạn ngạch từ Hoa Kỳ nhưng xuất khẩu sang thị trường này vẫn đạt trên 3 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2005 và đóng góp 9% trong số 20,6% tăng lên của cả ngành dệt may. Thị trường có bước tiến dài nhất đối với nhóm hàng này năm qua là EU. Tốc độ tăng 40% đã nâng kim ngạch hàng dệt may sang EU lên 1,24 tỷ USD, lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD. Bên cạnh đó, xuất khẩu sang Nhật Bản lại có phần chậm lại (chỉ tăng 2,1%) với kim ngạch đạt 627 triệu USD. Thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ với gần 4,47 tỷ USD, chiếm tới 57,6% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước, tiếp theo là Nhật Bản: 705 triệu USD, Đức: 365 triệu USD,... Thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam trong năm 2008 là Hoa Kỳ với hơn 5,1 tỷ USD, chiếm gần 56% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước, tiếp theo là Nhật Bản: 820 triệu USD, Đức: 395 triệu USD, Đài Loan: 293 triệu USD,... Hoa Kỳ vẫn là đối tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong 2 tháng qua với 700 triệu USD, giảm 4,5%. Tiếp theo là EU với 239 triệu USD, giảm nhẹ (0,5%) so với cùng kỳ năm trước. Trong khi xuất khẩu nhóm hàng này sang 2 thị trường lớn nhất suy giảm thì tại thị trường Nhật Bản, sau khi Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản có hiệu lực từ tháng 1/2009, hàng may mặc được miễn thuế nên đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này với trị giá 138 triệu USD, tăng 25,1%. b. Giày dép : Năm 2006 đạt 3,59 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2005 và vượt so với kế hoạch năm 8,8%.Đến năm 2007 lên hơn 3,99 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm trước, xấp xỉ hoàn thành kế hoạch năm. năm 2008 đạt 4,77 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm 2007 và hoàn thành vượt 6%. 1/2009 kim ngạch xuất khẩu giày dép đạt 350 triệu USD, giảm 26%;Trị giá giày dép xuất khẩu trong tháng 2/2009 là 294 triệu USD, giảm 18,6% so với tháng trước. Hết tháng 2/2009, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước là 654,7 triệu USD, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm. Hết năm 2006, xuất khẩu mặt hàng này sang EU vẫn tăng 10%, đạt kim ngạch 1,96 tỷ USD. Tiếp theo là Mỹ: đạt 803 triệu USD, tăng 31%, Nhật Bản: 113 triệu USD, tăng 21%,... Các thị trường có kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam lớn là Hoa Kỳ: 885 triệu USD, Anh: 527 triệu USD, Đức: 358 triệu USD, Bỉ:  279 triệu USD, Hà Lan: 279 triệu USD.   Hai đối tác lớn nhất nhập khẩu giày dép của Việt Nam trong 12 tháng  năm 2008 vẫn là EU và Hoa Kỳ với trị giá và tốc độ tăng tương ứng là 2,51 tỷ USD, tăng 14,8% và 1,08 tỷ USD, tăng 21,5% so với cùng kỳ  2007  Tính đến hết tháng 2 năm 2009, hai đối tác lớn nhất nhập khẩu giày dép của Việt Nam vẫn là EU: 324 triệu USD, giảm 18,1% và Hoa Kỳ: 166 triệu USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường nhập khẩu khác như: Nhật Bản: 25,1 triệu USD, Mêxicô: 19,5 triệu USD, Trung Quốc: 14,2 triệu USD,… c. Linh kiện và hàng điện tử : Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,7 tỷ USD (tháng 12 đạt 137 triệu USD), tăng 20% so với năm 2005. Trong đó, chủ yếu là máy in của công ty TNHH Canon Việt Nam, chiếm 38,2%; bảng mạch các loại chiếm 25,8% tổng trị giá xuất khẩu của nhóm hàng này.Đến năm 2007 lên 2,15 tỷ USD, tăng 26,1%  nhưng chỉ đạt  89,8% kế hoạch. Năm 2008 là 2,64 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm trước nhưng hoàn thành kế hoạch năm chỉ đạt 75,4%. Trong tháng2/2009 xuất khẩu 167,8 triệu USD, tăng 13,7% so với tháng trước. Hết tháng 2, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này là 315,6 triệu USD, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm trước. Châu Á vẫn tiếp tục là thị trường chủ yếu của sản phẩm điện tử xuất khẩu của Việt Nam đạt 1,09 tỷ USD nhưng chỉ tăng 3,1% so với năm 2005, trong khi hai thị trường tiềm năng tiếp theo là châu Mỹ (256 triệu USD) và châu Âu (305 triệu USD) đạt tốc độ tăng trưởng tương ứng 72,5% và 69%. 2007 Các thị trường chính cho sản phẩm này là Thái Lan với 370 triệu USD; Hoa Kỳ: 273 triệu USD, Nhật Bản: 269 triệu USD, Hà Lan: 194 triệu USD, Philipin: 173  triệu USD… Các thị trường chính trong năm 2008 cho sản phẩm này là Thái Lan với 405 triệu US, Nhật Bản: 379 triệu USD, Hoa Kỳ: 305 triệu USD, Trung Quốc: 274 triệu USD, Hà Lan: 206 triệu USD, Singapore: 163 triệu USD,… Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu nhập khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện của Việt Nam với 54,3 triệu USD. Tiếp theo là Nhật Bản: 51 triệu USD, Thái Lan: 38,5 triệu USD, Hà Lan: 20,3 triệu USD, Trung Quốc: 18,7 triệu USD, Singapore: 16,3 triệu USD, Hồng Kông: 13,5 triệu USD,… d. Các mặt hàng khác: Dây điện & dây cáp điện: Tính đến hết tháng 12 năm 2008, xuất khẩu hơn 1 tỷ USD, đây là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu mặt hàng dây điện & dây cáp điện trên 1 tỷ USD trong cả giai đoạn 2004- 2008. Trong đó, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu chủ yếu của nước ta, với 727 triệu USD chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Đá quý, kim loại quý và sản phẩm: kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong tháng đạt 1,3 tỷ USD, vượt dầu thô, hàng dệt may và giầy dép trở thành nhóm hàng dẫn đầu về kim ngạch. Tính đến hết tháng 2 năm 2009, đạt 1,44 tỷ USD và đạt con số kỷ lục về tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (tăng 2552%) . Thị trường nhập khẩu đá quý, kim loại quý & sản phẩm chủ yếu của nước ta trong 2 tháng đầu năm 2009 là Thụy Sĩ: 1,28 tỷ USD, chiếm 88 % tổng trị giá xuất khẩu; tiếp theo là Nam Phi: 126 triệu USD; Nhật Bản: 9,6 triệu USD; Pháp: 6,1 triệu USD; các thị trường khác: 19,2 triệu USD. 3.3.Nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu : a. Dầu thô: Khối lượng dầu thô xuất khẩu cả năm 2006 đạt 16,4 triệu tấn, trị giá đạt 8,26 tỷ USD.Đến năm 2007 đạt 15,06 triệu tấn, giảm 8,3% so với năm 2006. Tổng lượng dầu thô xuất khẩu cả năm 2008 lên 13,75 triệu tấn, giảm 8,7% so với năm 2007. Mặc dù lượng giảm nhưng do giá bình quân  tăng 33,6% nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô cả năm 2008 đạt 10,36 triệu USD, tăng 22% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng trong tháng Một của năm 2009 đều giảm so với cùng kỳ năm 2008, dầu thô đạt 424 triệu USD, tương đương 1,4 triệu tấn, tuy tăng 12,4% về lượng nhưng giảm 52,4% về kim ngạch do giá xuất khẩu dầu thô giảm 57,7%;xuất khẩu trong tháng 2/2009 đạt 1,4 triệu tấn, tăng 1,1% so với tháng 1, nâng tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam 2 tháng đầu năm nay lên 2,79 triệu tấn, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2008. Mặc dù lượng dầu thô xuất khẩu tăng nhưng do giá bình quân giảm mạnh (giảm 54% tương đương với giảm 394 USD/tấn) nên trị giá xuất khẩu dầu thô là 936 triệu  USD, giảm 43,6% so với cùng kỳ năm 2008. 2006 Thị trường chính của dầu thô Việt Nam là Úc: 6,03 triệu tấn; Singapore: 2,4 triệu tấn; Mỹ: 2,1 triệu tấn;  Nhật Bản: 1,46 triệu tấn; Indonexia: 1,3 triệu tấn,… 2007 Xuất khẩu dầu thô chỉ tập trung vào 9 thị trường chính, trong đó Úc: 5,18 triệu tấn, Singapore: 2,92 triệu tấn, Nhật Bản: 1,71 triệu tấn…Tuy kim ngạch xuất khẩu đạt gần 8,5 tỷ USD nhưng Việt Nam phải nhập khẩu tới 7,7 tỷ USD xăng dầu chế biến trong năm 2007 mà cũng chủ yếu từ 9 thị trường nêu trên. Tính đến hết tháng 12/2008, lượng dầu thô của Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị trường là Ôxtrâylia: 4,16 triệu tấn, giảm 19,6%; Nhật Bản: 2,95 triệu tấn, tăng 72,4%; Singapore: 2,06 triệu tấn, giảm 29,5%; Hoa Kỳ: 1,46 triệu tấn, giảm 1%; Malaysia: 853 triệu tấn, tăng 2,7%; Trung Quốc: 604 triệu tấn, tăng 60,6% so với cùng kỳ 2007;… Trong 2 tháng đầu năm 2009, lượng dầu thô của Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị trường là Singapore: 680 nghìn tấn, Malaysia: 604 nghìn tấn, Ôxtrâylia: 582 nghìn tấn, Nhật Bản: 298 nghìn tấn, Trung Quốc: 222 nghìn tấn,… b. Than đá : Khối lượng than đá xuất khẩu năm 2006 là 29,3 triệu tấn, tăng 62,9% so với năm 2005. Năm 2007 đạt 31,9 triệu tấn, tăng 9% so với  năm 2006 và thực hiện vượt 128% so với kế hoạch năm, trị giá gần 1 tỷ USD. Năm 2008 lên 19,35 triệu tấn, giảm 39,4% so với  năm 2007 và chỉ thực hiện được 96,8% so với kế hoạch năm. Giá bình quân tăng 129,2% nên kim ngạch xuất khẩu than cả năm 2008 đạt 1,39 tỷ USD tăng 38,8% so với cùng kỳ năm 2007. Tháng 2 xuất khẩu 1,91 triệu tấn, tăng 29,5% so với tháng trước, nâng tổng lượng than xuất khẩu 2 tháng đầu năm nay lên 3,39 triệu tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá xuất khẩu than đá 2 tháng đầu năm 2009 đạt 166,6 triệu USD tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2008. 2006 Khối lượng than đá sang Trung Quốc năm 2006 là 23,7 triệu tấn, chiếm 81% tổng lượng than đá xuất khẩu của cả nước, tăng 76% so với năm 2005, tiếp đến là Nhật Bản: 2,56 triệu tấn; Hàn Quốc: 694 nghìn tấn;… 2007 Các thị trường chính nhập khẩu than đá của nước ta năm 2007 là Trung Quốc: 26,4 triệu tấn, Nhật Bản: 2,07 triệu tấn, Hàn Quốc: 775 nghìn tấn, Braxin: 417 nghìn tấn, Philipin: 402 nghìn tấn,... 2008 Dẫn đầu trong các thị trường nhập khẩu than đá của Việt Nam trong năm 2008 là Trung Quốc với 14,61 triệu tấn, giảm 44,7% so với năm trước và chiếm 75,5% tổng lượng than xuất khẩu của Việt Nam. Tiếp theo là Nhật Bản với 1,93 triệu tấn,giảm 6,9%; Hàn Quốc là 974 nghìn tấn, tăng 25,6%; Philipin là 361 nghìn tấn, giảm      10,3%; … Dẫn đầu trong các thị trường nhập khẩu than đá của Việt Nam trong 2 tháng qua vẫn là Trung Quốc với lượng và trị giá tương ứng là 2,89 triệu tấn và 116 triệu USD. Riêng xuất khẩu sang thị trường này đã chiếm 85% tổng lượng xuất khẩu than đá của Việt Nam, còn lại 15% xuất sang các thị trường khác như Hàn Quốc: 292 nghìn tấn, Nhật Bản: 116 nghìn tấn, Thái Lan: 64 nghìn tấn, … 4. Cán cân thương mại: Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Xuất khẩu TrUSD 15.029 16.706 20.149 26.503 32.442 39.605 48.380 62.900 Nhập khẩu TrUSD 16.218 19.746 25.256 31.954 36.978 44.41 60.830 80.400 Cáncân TM TrUSD -1.189 -3.040 -5.107 -5.451 -4.536 -4.805 -12.450 -17.500 Nhập siêu/ Xuất khẩu % 7,9 18,2 25,3 20,6 14,0 12.1 25,7 27,8 Trong giai đoạn từ 2001- 2008, Việt Nam rơi vào tình trạng nhập siêu lớn. Để hoàn thiện cơ sở hạ tầng của các ngành sản xuất trong nước, nước ta đang đầu tư nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ làm cho kim ngạch nhập khẩu của nước ta tăng lên. Sự tăng mạnh của nguồn vốn FDI cũng là nguyên nhân gây nên tình trạng nhập siêu này, bởi theo sau vốn là máy móc, công nghệ. Qua đó ta nhận thấy, nhập khẩu chính là con đường tiếp cận cộng nghệ và trình độ khoa học kĩ thuật cao của thế giới, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Như vậy, nhập siêu không hẳn là dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế, nhất là đối với một nước đang trong quá trình phát triển như Việt Nam hiện nay. 5. Nhận định chung về các kết quả đã đạt được: 5.1.Những thành tựu đã đạt được Thứ nhất, quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở mức cao. Sau khi gia nhập WTO xuất khẩu các mặt hàng chủ lực thuộc các ngành hàng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều tăng rõ rệt. Thứ hai, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Thứ ba, các chủ thể tham gia xuất khẩu không ngừng được mở rộng, đa dạng hoá và hoạt động ngày càng hiệu quả, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn và là động lực quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu của cả nước. Thứ tư, công tác phát triển thị trường xuất khẩu đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vừa mở ra những thị trường mới, vừa thâm nhập và khai thác tốt hơn những thị trường đang có. 5.2. Những hạn chế còn tồn tại: Thứ nhất, quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ hai, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. Thứ ba, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để. Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Thứ tư, khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc. Thứ năm, công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài còn nhiều yếu kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao. Thứ sáu, nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, nguồn lực đầu tư. Thứ bảy, thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa Kỳ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như Trung Quốc, Nhật Bản và Australia. 6. Nguyên nhân: 6.1. Nguyên nhân của những thành tựu: Thứ nhất, những đổi mới trong cơ chế, chính sách quản lý xuất khẩu, mở cửa thị trường... cũng như những chính sách nhằm mở rộng quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước đã góp phần quan trọng tạo ra sự chuyển biến trong hoạt động đầu tư, sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Đặc biệt, sau 2 năm gia nhập WTO, thị trường kinh doanh trong nước đã được cải thiện theo hướng thuận lợi và minh bạch hơn. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, như cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế và giảm thiểu giấy phép "con" đã có tác động tích cực đối với phát triển các doanh nghiệp mới ở hầu hết các ngành hàng, năng lực sản xuất và cạnh tranh của các ngành hàng tăng lên rõ rệt. Thứ hai, chúng ta đã huy động và thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư phục vụ sản xuất, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài đã và sẽ tiếp tục mang công nghệ hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến vào Việt Nam, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành tạo ra nguồn lực quan trọng để mở rộng qui mô sản xuất trong nước, gia tăng khối lượng hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu. Thứ ba, việc đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, thoả thuận hợp tác thương mại giữa Việt Nam với Chính phủ các nước, các khu vực thị trường cũng đã góp phần quan trọng giúp mở rộng nhiều thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thâm nhập và khai thác các thị trường thuận lợi và hiệu quả hơn, từ đó mở thêm cơ hội xuất khẩu và gia tăng qui mô xuất khẩu. Thứ tư, hoạt động xúc tiến thương mại trên toàn quốc đã từng bước hình thành và dành được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp các ngành. Chính phủ các bộ,ngành, địa phương tập trung hoàn thiện môi trường kinh doanh để thực hiện đúng các cam kết đa phương về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ cũng như có các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức. Các hình thức xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp ngày càng đa dạng phong phú và chuyên nghiệp hơn, góp phần quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu. 6.2. Nguyên nhân của những hạn chế: Thứ nhất, đầu tư xã hội cho sản xuất hàng xuất khẩu nhìn chung vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng gia tăng qui mô sản xuất và xuất khẩu. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư chưa cao, đầu tư còn dàn trải, chưa có những dự án đầu tư quy mô lớn nhằm tập trung khai thác tiềm năng xuất khẩu, khiến cơ cấu sản xuất và xuất khẩu chậm được đổi theo hướng tích cực. Thứ hai, những lúng túng, bị động trong việc khai thác các thị trường xuất khẩu thời gian qua xuất phát từ sự thiếu chuẩn bị của cả phía các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực hiện tốt công tác phổ biến, hướng dẫn và chuẩn bị điều kiện để đón những cơ hội về thị trường xuất khẩu do các hiệp định, thoả thuận hợp tác thương mại đem lại, trong khi đó các doanh nghiệp lại mang nặng tư tưởng trông chờ vào những hướng dẫn, hỗ trợ của nhà nước. Thứ ba, năng lực dự báo, nhận biết các chính sách, thay đổi trên thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý, hoạch định chính sách còn hạn chế, trong khi khả năng thích ứng với bối cảnh mới của thị trường thế giới (rào cản thương mại và phi thương mại ngày càng gia tăng, xu hướng hình thành các RTA và FTA trở nên phổ biến làm thay đổi chính sách và luồng thương mại.) của các doanh nghiệp xuất khẩu còn yếu dẫn đến xuất khẩu một số mặt hàng gặp khó khăn. Thứ tư, kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ hoạt động xuất khẩu như cảng biển, sân bay, đường giao thông, kho ngoại quan... còn thiếu, hoặc đã có nhưng năng lực hoạt động thấp, nhiều dịch vụ cơ bản hỗ trợ xuất khẩu như điện, nước, thông tin liên lạc, dịch vụ hậu cần... chính phủ với chủ trương bảo vệ một số ngành làm cho các ngành sản xuất vẫn mang tính độc quyền cao, tính cạnh tranh kém hoặc khả năng cung cấp dịch vụ còn yếu đã đội chi phí giao dịch của doanh nghiệp, nhiều ngành sản xuất không tranh thủ cơ hội này để phát triển sản xuất và cải tiến công nghệ mà chỉ trông chờ vào chính sách bảo hộ, vì vậy khi thực hiện cam kết gia nhập WTO thì hàng hóa của những ngành này luôn có giá cao hơn so với đối thủ cạnh tranh nên khó tiêu thụ cả ở thị trường trong và ngoài nước. làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng xuất khẩu. Thứ năm, nhập siêu ở mức cao một mặt do nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn tăng trưởng cao, nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất lớn trong khi giá nguyên, nhiên vật liệu trên thị trường thế giới liên tục tăng, đặc biệt là các mặt hàng chiến lược mà nước ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn; mặt khác, chúng ta chưa tận dụng được những điều kiện thuận lợi từ các Hiệp định, cam kết quốc tế mạng lại như CEPT/AFTA, Chương trình Thu hoạch sớm ASEAN-Trung Quốc (EHP)... V/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI: Trước thực trạng hiện nay, để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra cần phải triển khai thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ nhiều chính sách, biện pháp. Trong đó, đòi hỏi sự nỗ lực từ phía cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và các tổ chức nghề nghiệp khác trong xã hội. 1. Về phía Nhà nước Để hiện thực hoá những nội dung của Đề án, vai trò của Nhà nước trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm huy động được các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu là đặc biệt quan trọng. Trong thời gian tới, bên cạnh những cơ chế, chính sách đã và đang được triển khai thực hiện, Nhà nước cần tập trung vào một số hướng giải pháp lớn sau đây: 1.1. Giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu: - Mở rộng quyền kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu là đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên phụ liệu sản xuất hàng dệt may, giày dép, nguyên liệu sản xuất đồ gỗ... cho các doanh nghiệp, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nhằm giảm bớt chi phí đầu vào, nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam. - Có chính sách để thúc đẩy sự hình thành các trung tâm cung ứng nguyên -phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, dày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. - Mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép sự tham gia một cách mạnh mẽ hơn nữa của các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động kinh doanh cung ứng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tại Việt Nam như dịch vụ logistics, dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ giao nhận, kho vận...; từng bước xoá bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh ở một số lĩnh vực dịch vụ như bưu chính viễn thông, điện, kinh doanh cảng biển... để nâng cao hiệu quả hoạt động trong những lĩnh vực này và từ đó giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu. - Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất -nhập khẩu để phấn đấu đến năm 2010 giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa... - Sớm triển khai ký kết các thỏa thuận về thanh toán quốc tế qua ngân hàng với một số thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện còn đang gặp khó khăn trong giao dịch và bảo đảm thanh toán như Trung Quốc, Nga và các nước Trung Đông, châu Phi; đồng thời ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, NewZealand. để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản. - Các Bộ Khoa học và công nghệ, Nông nghiệp và phát triển nông thôn tiến hành đàm phán và ký mới các hiệp định về sự phù hợp và công nhận lẫn nhau của các sản phẩm xuất khẩu, trước hết là đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm, tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước. 1.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu - Về chính sách tín dụng:Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện nguyên tắc lãi suất theo thị trường nhưng bảo đảm các chức năng sau: + Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng có độ rủi ro cao với thời gian trả nợ dài hơn, điều kiện tiếp cận vốn thuận lợi hơn. + Bảo lãnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu để vay vốn tại các ngân hàng thương mại. + Cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu. - Về chính sách thuế: Hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện tốt chính sách hoàn thuế đối với các nhà nhập khẩu nguyên liệu để cung cấp cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. - Về chính sách tỷ giá:Trước mắt, cần thực hiện công tác điều hành tỷ giá theo hướng bảo đảm giữ ổn định tỷ giá, trong trường hợp cần thiết điều chỉnh thì chỉ điều chỉnh tỷ giá ở biên độ nhỏ và có thể theo hướng giảm giá đồng tiền Việt Nam. - Về chính sách đầu tư: Ban hành danh mục các lĩnh vực, dự án đầu tư trọng điểm quốc gia cũng như các chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên, cụ thể là tập trung vào đầu tư sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng và có thị trường xuất khẩu lớn. 1.3. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu: - Sử dụng nguồn tài chính trước đây dành cho thưởng xuất khẩu và hỗ trợ lãi suất tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, nay theo cam kết trong WTO không được phép sử dụng để bổ sung kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mở rộng phạm vi hoạt động xúc tiến thương mại và nâng cao khả năng hỗ trợ từ phía nhà nước trong công tác xúc tiến thương mại. - Tập trung, đẩy mạnh, và đổi mới công tác tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại vào tổ chức các chương trình lớn nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, đặc biệt là tới các thị trường nhập khẩu lớn, thị trường nhập khẩu có nhiều tiềm năng đối với hàng hoá của Việt Nam thông qua các kênh truyền thông lớn của quốc tế như CNN, BBC, The Economist... 1.4. Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu: - Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Theo đó, ngoài yêu cầu đẩy mạnh xã hội hoá việc dạy nghề, hàng năm Nhà nước cần cân đối một nguồn ngân sách hỗ trợ đào tạo nghề cho một số danh mục nghề phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu theo các địa chỉ sử dụng cụ thể. - Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước trong lĩnh vực lao động và việc làm nhằm tăng cường chăm lo, bảo vệ lợi ích cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và điều kiện sống cho người lao động. 1.5. Đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng trọng tâm và tăng cường phát triển bền vững Cùng với mục tiêu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, việc bảo đảm phát triển bền vững của hoạt động xuất khẩu cũng có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với điều kiện phát triển của Việt Nam là một quốc gia đang trong quá trình hội nhập và phát triển với tốc độ cao. Để bảo đảm mục tiêu này, trong giai đoạn tới cần có những chương trình mang tính dài hạn và tập trung vào một số lĩnh vực sản xuất hàng hoá xuất khẩu có tầm ảnh hưởng rộng không những trong công tác xuất khẩu mà còn trong việc xử lý các vấn đề xã hội, việc làm, môi trường... Với quan điểm như vậy, trong giai đoạn tới cần tập trung phát triển hai nhóm hàng gồm rau quả, sản phẩm thủ công mỹ nghệ và sản phẩm làng nghề. Đối với hai nhóm hàng này, bên cạnh những tiềm năng rất lớn để có thể đẩy mạnh đầu tư phát triển, gia tăng kim ngạch xuất khẩu và đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước trong giai đoạn tới thì đây còn là hai nhóm hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nhất là cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền một cách bền vững, đặc biệt là khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. 1.6 Thúc đẩy quá trình liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu với doanh nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu Chủ trương tạo sự liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu với các doanh nghiệp chế biến hàng xuất khẩu đã được đặt ra từ lâu nhưng việc thực hiện còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu cơ chế hỗ trợ của Nhà nước. Do vậy, để thúc đẩy quá trình này đề nghị thực hiện một số giải pháp sau: - Đối với các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá, đề nghị Chính phủ có chính sách cho người sản xuất nguyên liệu như nông dân trồng rau quả, người nuôi trồng thuỷ sản mua chịu cổ phần trong các nhà máy này. - Cho người sản xuất nguyên liệu vay vốn từ Ngân hàng Phát triển để mua cổphần trong các nhà máy chế biến hàng xuất khẩu. Thực hiện được điều này sẽ có thể tạo ra sự gắn kết lợi ích giữa người sản xuất nguyên liệu với nhà máy chế biến theo cơ chế đồng sở hữu, bảo đảm việc cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến một cách ổn định cả về số lượng và chất lượng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu. 1.7. Hạn chế nhập siêu Trong thời gian tới để có thể thực hiện được lộ trình giảm nhập siêu, các giải pháp cần được tập trung theo hai hướng chính đó là tạo điều kiện để đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển sản xuất trong nước để thay thế hàng hoá nhập khẩu phục vụ nhu cầu sản xuất và Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: - Tập trung đầu tư sản xuất các sản phẩm có lợi thế canh tranh với sản phẩm nhập khẩu để các sản phẩm này chiếm lĩnh ngày càng tốt thị trường trong nước. - Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tận dụng các điều kiện thuận lợi từ các cam kết, thỏa thuận kinh tế - thương mại quốc tế (CEPT/AFTA, EHP) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường và khu vực thị trường hiện có mức nhập siêu lớn. - Nhà nước đứng ra đàm phán ký kết các thỏa thuận về trao đổi thương mại cấp Chính phủ nhằm cải thiện cán cân thương mại với các đối tác thương mại hiện nước ta đang có mức nhập siêu lớn. - Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích hình thành các tập đoàn phân phối lớn cũng như tạo lập mối liên kết chặt chẽ giữa các tập đoàn phân phối này với các nhà sản xuất trong nước nhằm nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường nội địa của hàng hóa trong nước. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc,truyền thống, văn hóa nhằm khuyến khích người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa sản xuất trong nước qua đó giảm bớt nhập khẩu hàng tiêu dùng. 2. Về phía doanh nghiệp Với vai trò là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá và tổ chức xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chủ động tận dụng những điều kiện thuận lợi cũng như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước để đẩy mạnh sản xuất, đổi mới tổ chức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần tập trung vào xử lý tốt một số vấn đề trọng tâm như sau: 2.1. Xây dựng và củng cố mối liên kết với người cung ứng nguyên liệu phục vụ sản xuất 2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp - Các doanh nghiệp cần tích cực triển khai việc áp dụng các mô hình quản trị doanh nghiệp, mô hình quản lý chất lượng trong tổ chức sản xuất và kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. - Đổi mới công tác quản trị nhân lực trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm tiêu chuẩn hoá hoạt động tuyển dụng, đánh giá và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp này để nâng cao khả năng đáp ứng những tiêu chuẩn điều kiện về lao động đặt ra từ phía các nhà nhập khẩu. - Khai thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, nắm bắt nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, tiết kiệm chi phí giao dịch, quảng cáo. Thông qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật thương mại quốc tế để sẵn sàng đối phó với tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước cũng như chủ động yêu cầu Chính phủ có biện pháp xử lý khi các đối tác nước ngoài có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam (bán phá giá, trợ cấp). - Tăng cường sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và kinh doanh như dịch vụ tư vấn, dịch vụ nghiên cứu và thăm dò thị trường, dịch vụ pháp lý... để nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính chuyên nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3. Về phía Hiệp hội Trong thời gian tới, các hiệp hội ngành hàng cần tập trung vào công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh nghiệp, là đại diện và cầu nối hữu hiệu giữa cộng đồng doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước. Để làm được điều này, các hiệp hội cần tích cực triển khai thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: - Trên cơ sở Luật về Hội dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua trong thời gian sắp tới, các phương án kiện toàn tổ chức bộ máy hiện có để thực sự trở thành những tổ chức nghề nghiệp có tính chuyên môn sâu và thực hiện tốt vai trò hỗ trợ cho doanh nghiệp. - Tập trung làm tốt chức năng là người đại diện, bảo vệ lợi ích của các hội viên trước các vụ kiện từ phía nhà nhập khẩu quốc tế, đặc biệt là các vụ kiện về chống bán phá giá. - Làm tốt công tác tổ chức thông tin ngành hàng và xúc tiến thương mại để nâng cao hiệu quả và vai trò của hiệp hội trong hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp định hướng sản xuất, tìm kiếm thị trường... - Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức, hiệp hội ngành nghề trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ hỗ trợ về tài chính, kỹ năng chuyên môn, công nghệ và kinh nghiệm hoạt động. KẾT LUẬN Như vậy, Việt Nam hiện đang theo đuổi chiến lược hướng về xuất khẩu. Chiến lược này hiện đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng bên cạnh đó vẫn không tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Muốn phát triển các ngành hàng sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra các thị trường thế giới và trong khu vực, cần phải có sự nỗ lực rất lớn từ phía các doanh nghiệp và Chính phủ, để Việt Nam thực sự có khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Hay nói một cách tổng quát hơn, tăng cường công tác phân tích, đánh giá tình hình và nâng cao chất lượng hàng loạt dự báo để định hướng lại hoạt động này đang là vấn đề mang tính thời sự hiện nay. Trong đó, vấn đề có ý nghĩa mấu chốt là tiếp tục phát huy những tiềm năng và lợi thế để đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mới, tạo ra nguồn động lực mới, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhanh hơn nữa. TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Thị Ngọc Phùng (chủ biên) (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động - xã hội. Hoàng Vĩnh Long (chủ biên) (2007), Kinh tế học quốc tế, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Võ Thanh Thu (03/2005), Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống kê. Võ Thanh Thu (2005), Kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê. Lê Thị Anh Vân (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lao động. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển xuât- nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kì 2001- 2010, Số: 22/2000/CT-TTg. Bộ Thương mại, Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006- 2010. Quyết định Phê duyệt Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006- 2010, Thủ tướng Chính phủ, số 156/2006/QĐ-TTg. Đỗ Đức Minh (2006), Tài chính Việt Nam 2001-2010, NXB Tài chính, Hà Nội. Các số liệu được tổng hợp từ các nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam Bộ thương mại Việt Nam www.mfo.gov.vn Bộ Ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn Ủy Ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế www.moit.gov.vn Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Hải quan Việt Nam Thời báo kinh tế Việt Nam VnEconomy Thời Báo kinh tế Sài Gòn www.vietbao.vn www.doanthanhnien.vn www.laodong.com.vn www.thitruongnuocngoai.vn www.vietnamnet.vn/kinhte www.mfo.mquiz.net www.vietnam.gms-ain.org www.ngoaithuong.vn/news www.vinafor.com.vn www.vitinfo.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChiến lược ngoại thuơng.doc
Tài liệu liên quan