Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh

BÀI TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Câu 1 : VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CSVN? Câu 2: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 Câu 3: Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng do Đại hội III (9/1960) của Đảng vạch ra. Ý nghĩa thực tiễn của đường lối trên Câu 4 : Vì sao nói sự ra đời của ĐCSVN là 1 tất yếu của lịch sử. Nêu nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu của Đảng Câu 5: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5 - 1941) Câu 6: Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng qua 3 hội nghị BCHTW lần 6 , 7 , 8 Câu 7: Đặc điểm tình hình nước ta sau CMT8 và những chủ trương biện pháp của Đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ Câu 8: Nguyên nhân bùng nổ kháng chiến toàn quốc 12/1946 và nội dung cơ bản đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng Câu 9: Đặc điểm tình hình nước ta sau tháng 7/1954 và nội dung cơ bản của đường lối cách mạng VN trong giai đoạn mới được thông qua đại hội đại biểu toàn quốc lần 3 vào tháng 9/1960 Câu 10: ĐHĐB toàn quốc lần 6 tháng 12/1986 Đảng đã rút ra 4 bài học lớn. Phân tích 1 trong 4 bài học đó Câu 11: Trình bày các đặc trưng cơ bản của CNXH do đại hội đại biểu toàn quốc lần 7 của Đảng đề ra vào tháng 6/1991 Câu 12: Thế nào là định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3102 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
song nhưng giảm đi, và thêm vào chống phát xít, chống phản động. . . - Năm 39-45: hai nhiệm vụ ban đầu không còn song song đồng thời như trước nữa mà nhiệm vụ chống ĐQ được đẩy mạnh để ta giành toàn bộ sức vào độc lập dt, chính sự điều chính này CTM8 thắng lợi; chống phong kiến được giảm đi. 1- Hoàn cảnh lịch sử: + Khi Đảng ra đời trong cương lĩnh chính trị đã xác định cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: Chống đế quốc- chống phong kiến thực hiện song song đồng thời để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc người cày có ruộng và các quyền tự do dân chủ khác. + Vào những năm 30-31 Đảng ta thực hiện chiến lược này. + Tuy nhiên những năm 36-39 chiến lược cách mạng Việt Nam đã có sự điều chỉnh. Lúc này chủ yếu tập trung vào chống phát xít và bọn phản động thuộc địa để thực hiện hoà bình dân chủ và cải thiện đời sống (CNĐQ phát triển lên chủ nghĩa phát xít). + Năm 39, phát xít đã gây ra chiến tranh thế giới lần II. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc tay sai trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẫn chủ yếu cần phải giải quyết. Do đó đại hội Đảng cần có những điều chỉnh chiến lược tức là đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên đầu, các mục tiêu dân chủ tạm thời gác lại hoặc thực hiện có mức độ. 2- Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược - Trước tình hình TG và trong nước có thay đổi thì đường lối chủ trương của đảng cũng phải thay đổi để đi tới thắng lợi. a) Hội nghị TW đảng lần 6 (11/1939) (9/1939 chiến tranh TG II nổ ra) họp ở Bà rịa-Hóc môn (Nam bộ), có số lượng đảng viên tham gia không nhiều lắm do tình hình căng thẳng. Nội dung của hội nghị. + Nhận định tình hình và mâu thuẫn ở VN xuất hiện. + Hội nghị chủ trương điều chỉnh chiến lược CM: trước đây 2 nhiệm vụ chống ĐQ và chống PK song song, đồng thời. Bây giờ đặt nhiệm vụ chống ĐQ và tay sai lên hàng đầu còn nhiệm vụ chống PK thì thực hiện có mức độ để tập trung mục tiêu gpdt. * KQ của sự điều chỉnh: là đã dấy lên 1 cao trào gpdt mà đỉnh cao là Bắc sơn khởi nghĩa, nhưng chưa thành công và bị dìm trong bể máu b) Hội nghị TW đảng lần 7 (11/1940) + Họp ở Đình Bảng- Từ sơn-Bắc ninh. Khẳng định chủ trương điều chỉnh chiến lược của HN 6 là đúng nhưng cần phải bổ sung thêm. + HN trung ương này chủ trương là nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng, toàn dân lúc này là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, là xây dựng lực lượng quần chúng, xây dựng lực lượng đảng cho vững mạnh. + Hội nghị cũng chủ trương là không được khởi nghĩa 1 cách nóng vội. c) Hội nghị TW đảng lần 8 (5/1941) tại pắc bó-cao bằng (2/1941 bác hồ về nước). + Khẳng định chủ trương điều chỉnh chiến lược lần 6,7 là đúng. + Hoàn thành chủ trương điều chỉnh chiến lược và xây dựng CMVN lúc này là CM gpdt và gpdt trong khuôn khổ mỗi nước đông dương. + Xác định CMVN là CM gpdt. + Hội nghị đề ra biện pháp cụ thể, nhiệm vụ cụ thể để tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. *KQ: tập hợp được lực lượng, chuẩn bị được phong trào, đến thời cơ đưa cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Câu 7: Đặc điểm tình hình nước ta sau CMT8 và những chủ trương biện pháp của Đảng nhằm bảo vệ chính quyền non trẻ v Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa vừa mới ra đời, còn non trẻ, đã phải đối phó với nhiều kẻ thù : Ø Ở miền Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc với danh nghĩa quân Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật đã tràn vào đóng quân từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Theo sau quân Trung Hoa Dân quốc là bọn phản động ( Việt quốc, Việt cách ) với âm mưu tiêu diệt Đảng ta, tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho tay sai lên nắm chính quyền. Ø Ở phía Nam, cũng với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Anh vào nước ta thực chất để dọn đường và giúp quân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. Ø Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói chưa khắc phục xong thì nguy cơ nạn đói mới lại đe doạ. Ø Chế độ thực dân để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, đặc biệt là nạn dốt với hơn 90% số dân bị mù chữ. Cách mạng vừa thành công, chính quyền mới thành lập còn non trẻ, chưa được củng cố, chưa có kinh nghiệm, lại phải đương đầu với mọi khó khăn, nguy hiểm từ mọi phía. Ø Về tài chính : Ngân hàng Đông Dương hầu như trống rỗng chỉ còn hơn 1 triệu đồng rách và nát. Ø Đây là thời kì thực sự khó khăn, vận mệnh của Tổ quốc như " ngàn cân treo sợi tóc". Ú Tuy nhiên, chúng ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản : Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được chính quyền, được nhân dân dân ủng hộ triệt để; tinh thần yêu nước, đấu tranh cách mạng của nhân dân ... Đó là những động lực hết sức to lớn, giúp cho cách mạng nước ta vượt qua hiểm nghèo của năm đầu sau cách mạng. v Để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ gìn độc lập dân tộc vừa giành được - mục tiêu của cách mạng nước ta sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều chủ trương và biện pháp: a) Phát huy thắng lợi, khắc phục khó khăn trước mắt - Giải quyết nạn đói kém, những tệ nạn xã hội mà nổi lên là nạn mù chữ. Đó là 2 trong 3 loại giặc của nước ta lúc này: đói, dốt, giặc ngoại xâm; lại còn nạn tài chính quẫn bách. Các biện pháp giải quyết: tăng gia sản xuất. Đó là biện pháp cơ bản và lâu dài của cách mạng; tiết kiệm trong việc dùng lương thực hợp lí, thực hiện "hũ gạo tiết kiệm", tổ chức "ngày đồng tâm" nhường cơm sẻ áo, phát động "tuần lễ vàng"...; lập Nha bình dân học vụ (8-9-1945), kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. - Xây dựng chính quyền vừa giành được thật vững mạnh, thật sự là của dân, do dân bầu ra, được dân tin yêu ủng hộ. Các biện pháp giải quyết: tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội (6-1-1946); có hơn 90% cử tri đi bầu; Quốc hội họp phiên đầu tiên 2-3-1946 thông qua danh sách Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp và đến cuối năm , Hiến pháp đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua; tiếp đó ở khắp các địa phương tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp theo phổ thông đầu phiếu. Củng cố lực lượng quần chúng và xây dựng lực lượng vũ trang... b) Đấu tranh chống thù trong giặc ngoài Kẻ thù là đế quốc và tay sai. Chúng chia làm hai khối, phía bắc có Tưởng, Mĩ và tay sai, phía nam có Anh, Pháp và tay sai.Giữa hai khối có mâu thuận nhau về quyền lợi, nhưng thống nhất nhau trong âm mưu chống phá cách mạng. Lực lượng kẻ thù đông và mạnh, trong đó Pháp là kẻ thù chủ yếu. Do đó trên cơ sở nắm vững nguyên tắc chiến lược, Đảng đã mềm dẻo trong sách lược, biết phân hóa kẻ thù để đánh đổ chúng. Đấu tranh qua hai thời kì. - Trước 6-31946: hòa hõan với Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng đánh Pháp ở miền Nam. Đối với Tưởng ở miền Bắc: chủ trương tránh xung đột vũ trang với chúng, mà nhân nhượng chúng về các yêu sách kinh tế và một số yêu sách về chính trị, ta để cho tay sai của Tưởng một số ghế trong Chính phủ (Phó chủ tịch nước Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam...). hoặc dành cho chúng 70 ghế không bầu trong Quốc hội. Mọi sự nhân nhượng đều phải bảo đảm nguyên tắc của cách mạng, chính quyền phải được giữ vững, Đảng phải lãnh đạo chính quyền, Hồ Chí Minh phải đứng đầu chính phủ, độc lập,chủ quyền của đất nước phải được tôn trọng. Đối với Pháp ở miền Nam: chủ trương kháng chiến chống lại xâm lược của chúng (bắt đầu từ ngày 23-9-1945). Miền Nam "thành đồng Tổ quốc" đứng lên đánh Pháp trước tiên, có hậu thuẫn miền Bắc. - Từ 6-3-1946:hòa hoãn với Pháp để đuổi Tưởng ra khổi nước ta. 6-3-1946 ta kí với Pháp Hiệp định sơ bộ, trong đó Pháp công nhận Việt Nam là nước tự do, ta đồng ý để Pháp ra miền Bắc thay Tưởng trong thời hạn 5 năm. Việc ta bắt tay hòa hoãn với Pháp và kí với chúng hiệp ước hòa bình, trong đó tuy ta chưa buộc được Pháp phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản đã giành được, song đã ngăn được Pháp trong âm mưu bắt tay với Tưởng chống lại ta. Vả lại, với Hiệp định sơ bộ, ta tránh được một cuộc chiến đấu bất lợi cùng một lúc chống lại nhiều kẻ thù (gạt được quân Tưởng cùng bọn tay sai của chúng ra khỏi nước ta), có thêm thời gian hòa bình để chuẩn bị tiếp cho cuộc chiến đấu lâu dài chống thực dân Pháp về sau; tỏ tõ thiện chí hòa bình để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới. Tiếp đó ta lại kí với Pháp Tạm ước 14-9-1946 tiếp tục nhượng bộ Pháp với mục đích kéo dài thời gian hòa bình,chuẩn bị cho kháng chiến. Nhưng đó là giới hạn cuối cùng của sự nhân nhượng. Cuối năm 1946, Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một lần nữa. Trong tình hình đó, ta không có con đường nào khác là phải cầm súng chiến đấu bảo vệ chính quyền, giữ gìn độc lập,tự do và cuộc chiến đấu của ta lúc này đã có những điều kiện chủ quan, khách quan thuận lợi hơn được tạo ra sau hơn một năm thực hiện chủ trương khôn khéo: cứng rắn và nguyên tắc, nhưng mềm dẻo về sách lược. Câu 8: Nguyên nhân bùng nổ kháng chiến toàn quốc 12/1946 và nội dung cơ bản đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng a)Nguyên nhân bùng nổ (3 nguyên nhân): * Nguyên nhân sâu xa: sở dĩ bùng nổ cuộc chiến tranh này là do bản chất tham lam hiếu chiến của TD Pháp, chúng muốn cướp nước ta 1 lần nữa để biến VN thành thuộc địa của chúng. * Nguyên nhân gián tiếp: sở dĩ bùng nổ cuộc chiến tranh này là do sự dung túng, bao che và can thiệp trắng trợn của bọn ĐQ và bọn phản động quốc tế cho TD Pháp. * Nguyên nhân trực tiếp: (đặc biệt nghiêm trọng) sở dĩ bùng nổ cuộc chiến tranh này là do sau 9.1946 khi quân đội Tưởng đã rút hết khỏi miền Bắc nước ta, khi mọi điều kiện chuẩn bị cho cuộc chiến tranh qui mô lớn đã bắt đầu thì Pháp đã táo tợn, trắng trợn dùng sức mạnh quân sự để mở rộng chiến tranh xâm lược VN và ĐD. Đặc biệt nghiêm trọng là chúng đánh thắng vào thủ đô Hà Nội, tàn sát thảm khóc đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún vào 17 và 18.12.1946. Đặc biệt nghiêm trọng là chúng gởi thư cho chính phủ ta đòi tước vũ khí của lực lượng tự vệ Hà Nội đòi kiểm soát trật tự an ninh thủ đô, trong bối cảnh đó chúng ta không có sự lựa chọn nào khác buộc phải đứng dậy cầm vũ khí đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, hoà bình thống nhất đất nước. b)Đường lối: * Cơ sở hình thành đường lối: - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch HCM( 19.12.1946). - Chỉ thị toàn dân kháng chiến của ban thường vụ TW Đảng( 22.12.1946). - Tác phẩm" Kháng chiến nhất định thắng lợi"( Tổng bí thư Trường Chinh_ 3.1947) * Mục đích của cuộc kháng chiến: đánh phản động, TD Pháp xâm lược giành thống nhất và độc lập cho dân tộc. * Tính chất của cuộc kháng chiến: cuộc kháng chiến này mang tính chất giải phóng dân tộc bảo vệ TQ, bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ CĐ mới nền dân chủ mới mà chúng ta mới giành đựơc trong CMT8. * Đường lối chung chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến: đó là toàn diện kháng chiến. - Toàn dân kháng chiến: + Về phương diện lý luận: CN Mac_LeNin cho rằng CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân cho nên chiến tanh và CM cũng là sự nghiệp của quần chúng ND. Hơn nữa TD Pháp xâm lược nước ta chúng chà đạp lên nguyện vọng của mọi tầng lớp ND vì vậy mọi tầng lớp ND đều cùng phải tham gia, cùng phải gánh vác, cùng phải lo liệu. + Về phương diện thực tiễn: xuất phát từ sự so sánh tương quan lực lượng giữa ta với Pháp, Pháp mạnh hơn ta gấp nhiều lần về quân sự. Do vậy muốn thắng được chúng ta phải huy động sức mạnh toàn dân đánh giặc. + Dựa vào kinh nghiệm truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông ta trong lịch sử dân tộc, mỗi khi đất nước chống giặc ngoại xâm thì bao giờ cha ông ta cũng huy động sức mạnh toàn dân đánh giặc. + Nội dung của cuộc kháng chiến toàn dân: đó là cuộc chiến tranh huy động tất cả mọi tầng lớp nhân dân tham gia trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nồng cốt. Câu 9: Đặc điểm tình hình nước ta sau tháng 7/1954 và nội dung cơ bản của đường lối cách mạng VN trong giai đoạn mới được thông qua đại hội đại biểu toàn quốc lần 3 vào tháng 9/1960 a)Đặc điểm nước ta sau tháng 7 - 1954 Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền. Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống. Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại. Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành. b) Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng VN trong giai đoạn mới được thông qua đại hội đại biểu toàn quốc lần 3 vào tháng 9/1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Tới dự có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết,thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà". Nội dung như sau: - Về đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: Ø Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Ø Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Ø Cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước. Ø Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Ø Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. - Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc: Ø Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ø Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuậtcủa chủ nghĩa xã hội. Ø Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nha Câu 10: ĐHĐB toàn quốc lần 6 tháng 12/1986 Đảng đã rút ra 4 bài học lớn. Phân tích 1 trong 4 bài học đó Đồng chí Trường Chinh đọc Báo cáo Chính trị. Đại hội đã mạnh dạn chỉ ra những sai lầm, thiếu sót trong đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng CNXH. Đó là sự chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp, thiếu kiên quyết khắc phục tình trạng chủ quan, nóng vội và bảo thủ, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế; cải tạo XHCN và quản lý kinh tế phạm những sai lầm nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Những bài học quý báu được Đảng rút ra từ những sai lầm, khuyết điểm, đó là: Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới và phải chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN. Phân tích: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: "Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ "dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng". Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên "phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại". Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, "nếu không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân", mà "muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm". Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ". Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của Người là: "Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi". Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. "Phải chăm lo việc nước như việc nhà", "phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ"; "làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm". Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng "cái gốc" là phải thường xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người thường nhắc tới những câu của người xưa "có thực với vực được đạo", "dân dĩ thực vi thiên". Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: "Đối với nhân dân không thể lý luận suông". Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời sống của dân: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi". Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa học, toàn diện. Đó là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý: "Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém... Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học hỏi dân chúng, nhưng "không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo"; phải "tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai" để vận dụng. Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề thực hiện dân chủ với dân; làm thế nào để nhân dân "biết dùng quyền dân chủ" và "hưởng quyền dân chủ". Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông qua bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ ý tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam. Quan điểm của Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng: "Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà", "Hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có quyền bãi miễn Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp, nếu họ có tư tưởng hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân. Nhà nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà nước của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực lượng toàn dân đoàn kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta còn là nhà nước do dân. Bác viết: "Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân", "Không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong"; "Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, [Nhà nước của dân, do dân phải được thể hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt đời sống xã hội là vì dân. Ngay sau khi nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: "... nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ mãi mãi là người làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của Bác về lấy dân làm gốc, chắc chắn bộ máy Nhà nước ta sẽ "chạy" đều, hiệu quả quản lý điều hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn./. Câu 11: Trình bày các đặc trưng cơ bản của CNXH do đại hội đại biểu toàn quốc lần 7 của Đảng đề ra vào tháng 6/1991 Đại hội họp từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. (Đại hội họp nội bộ từ ngày 22 đến ngày 17-6-1991). Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho trên hai triệu đảng viên cả nước. Các đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cuba và nhiều khách quốc tế đã đến tham dự. Đại hội VII họp trong bối cảnh trên phạm vi thế giới đang diễn ra cuộc tấn công quyết liệt của các thế lực đế quốc và phản động vào các lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, nhằm tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn thâm độc. Cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước (1989-1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thông qua đã trình bày: Đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn; quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại; hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh đã trình bày quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ; những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: - Do nhân dân lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Phân tích: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hóa ấy mà dù có nhiều thế kỷ bị đô hô< Câu 12: Thế nào là định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: Thứ nhất, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Hai là, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Ba là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn của các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Bốn là, phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo định hướng đó, Đảng ta đề ra mục tiêu tổng quát: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường là nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu cụ thể cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 là hoàn thành cơ bản việc xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa sở hữu theo mô hình công ty mẹ - công ty con, áp dụng mô hình quản lý hiện đại; đổi mới cơ bản tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công; hình thành, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 2010 đến năm 2020, tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế, thực hiện về cơ bản mục tiêu tổng quát trên...". Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ? Đây là một câu hỏi lớn mà muốn trả lời được đầy đủ và chính xác phải qua từng bước thử nghiệm, tổ chức thực hiện trong thực tế rồi đúc rút, bổ sung, hoàn chỉnh dần. Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,… Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: 1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. 2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. 3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra. Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước. Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v.. Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay. Câu 13: Đoàn viên, thanh niên cần làm gì để xây dựng hệ thống chính trị? Trả lời: Thanh niên là lực lượng dự bị tin cậy, cánh tay đắc lực của Đảng và của hệ thống chính trị. Vì vậy, thanh niên cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Cụ thể: - Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. - Thực hiện một cách có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. - Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, mạnh dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân. - Tích cực tham gia và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác. - Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào của các tổ chức chính trị – xã hội phát động; trực tiếp là xây dựng tổ chức Đoàn và phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Câu 14 : Văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc . Ý nghĩa của luận điểm này trong thời kỳ VN hội nhập kinh tế quốc tế. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong quá ttrình dựng nước và giữ nước, văn học Việt Nam là một thực thể , đồng thời cũng hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy nền văn hoá giàu bản sắc của nước ta đã không bị mai một, đồng hoá. Hơn 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bản sắc văn hoá Việt Nam thật sự là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa. Ngay từ năm 1943 khi chiến tranh thế giơí lần thứ 2 đang diễn ra ác liệt trên khắp thế giới, Đảng ta đã đưa ra đề cương văn hoá với nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nguyên tắc dân tộc được đặt lên hàng đầu. Trong hoàn cảnh thời bấy gìơ , dân tộc hoá là vũ khí mầu nhiệm chống lại văn hoá nô dịch để bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc. Lối sống Mỹ, sức mạnh của đồng Đôla đã không thể làm biến dạng tư tưởng, tình cảm của người dân ở các đô thị, nông thôn vùng bị tạm chiếm , bởi “ Danh dự sức mạnh độc lập tự do, sức mạnh văn hoá của một nước không thể đo bằng cây số vuông “. Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt trận văn hoá mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hoá dân tộc. Hơn 70 năm qua định hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hoá, văn nghệ.. Trong đời sống quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá sản sinh ra các giá trị hiện đại, tạo cho sự phát triển của nền văn hoá, mặt khác nó cũng là thách thức đối với bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập tư tưởng hồ chí minh.doc
Tài liệu liên quan